Chương 16 Đứa Bất Trung,Trời Chẳng Chiều Lòng
Việc xây dựng trại bò sữa ở Oneida bắt đầu. Shawn thiết kế và hàn khung của công trình – những cái xà lớn tạo thành bộ khung. Chúng quá nặng nên khó khuân vác; chỉ cần cẩu mới nhấc nổi chúng. Đó là một công đoạn tinh vi, đòi hỏi các thợ hàn phải cân bằng hai đầu của một thanh xà trong khi nó được hạ xuống các cột, sau đó được hàn cố định. Shawn khiến mọi người ngạc nhiên khi thông báo rằng anh muốn tôi điều khiển cần cẩu.
“Tara không lái cần cẩu được,” bố nói. “Phải mất nửa buổi sáng để dạy nó mất, và nó sẽ chẳng biết mình đang làm gì đâu.”
“Nhưng nó sẽ cẩn thận,” Shawn nói, “và con ngã như vậy đã đủ lắm rồi.”
Một giờ sau tôi ngồi trong buồng điều khiển cần cẩu, trong khi Shawn và Luke mỗi người đứng trên một đầu thanh xà cách mặt đất bảy mét. Tôi gạt nhẹ cần gạt, lắng nghe tiếng xi-lanh thủy lực rít lên khe khẽ để kéo dài ra. “Giữ!” Shawn nói to khi thanh xà đã vào đúng vị trí, sau đó họ kéo mũ hàn xuống và bắt đầu hàn.
Chuyện tôi điều khiển cần cẩu là một trong hàng trăm cuộc tranh cãi giữa bố và Shawn mà Shawn giành phần thắng trong mùa hè đó. Hầu hết những cuộc tranh cãi đều không được giải quyết êm thấm như vậy. Anh và bố hầu như ngày nào cũng cãi vã – về một thiếu sót trong các lược đồ, hoặc một dụng cụ bị bỏ quên ở nhà. Bố dường như hăm hở tranh cãi, để chứng minh ai là người cầm trịch.
Một buổi trưa, bố bước tới và đứng ngay cạnh Shawn, nhìn anh hàn. Một phút sau, chẳng vì lý do gì, bố bắt đầu la lối: rằng Shawn đã ăn trưa quá lầu, rằng anh không thúc giục đội dậy đủ sớm hoặc không đôn đốc chúng tôi làm việc đủ chăm. Bố la lối trong vài phút, sau đó Shawn tháo mũ hàn xuống, nhìn bố điềm tĩnh và hỏi, “Bố có im đi để con làm việc không đây?”
Bố tiếp tục la lối. Bố nói rằng Shawn lười biếng, rằng anh không biết điều hành cả đội, không hiểu giá trị của việc lao động chăm chỉ. Shawn từ chỗ hàn bước xuống, thong thả đi tới chỗ chiếc xe bán tải sàn phẳng. Bố đi theo, vẫn la lối. Shawn tháo găng tay ra, chậm chạp, cẩn thận, tháo từng ngón một, như thể không có ai đang quát tháo vào mặt anh từ khoảng cách hơn chục phân. Trong vài phút anh đứng im, để cho cơn sỉ nhục kia tràn tới mình, sau đó anh bước lên xe tải và lái đi, bỏ bố ở đó la lối vào đám bụi.
Tôi nhớ cái cảm giác kính sợ mà tôi cảm thấy khi nhìn chiếc xe tải lăn bánh trên con đường bụi mù. Shawn là người duy nhất tôi từng thấy dám tranh đấu với bố, người duy nhất có sức mạnh ý chí, có lòng kiên quyết đủ nặng đô khiến bố nhượng bộ. Tôi đã thấy bố mình nổi nóng, quát mắng tất cả những người anh của tôi. Shawn là người duy nhất tôi từng thấy bỏ đi chỗ khác.
Đó là một tối thứ Bảy. Tôi đang ở nhà bà-trong-thị-trấn với cuốn sách toán để mở trên bàn bếp và một đĩa bánh quy đặt bên cạnh. Tôi đang ôn để thi ACT lần nữa. Tôi thường học bài ở nhà bà để bố không lên lớp tôi.
Chuông điện thoại reo. Đó là Shawn. Tôi có muốn xem phim không ư? Tôi nói có, và vài phút sau tôi nghe thấy tiếng ầm ầm bèn nhìn ra ngoài cửa sổ. Với chiếc mô tô màu đen phát ra tiếng gầm rú và chiếc mũ cao bồi rộng vành, anh dường như hoàn toàn lạc lõng khi đỗ xe song song với hàng rào cọc nhọn màu trắng của nhà bà. Bà đang bắt đầu làm bánh ngọt, và Shawn cùng tôi đi lên gác chọn một bộ phim.
Chúng tôi tạm dừng phim khi bà mang bánh lên. Chúng tôi ăn bánh trong im lặng, những chiếc thìa chạm vào đĩa sứ của bà kêu rõ mồn một. “Rồi thì em cũng sẽ hai bảy,” Shawn đột nhiên nói khi chúng tôi ăn bánh xong.
“Có sao đâu,” tôi nói. “Dù sao em cũng không nghĩ là em sẽ đi. Biết đâu bố nói đúng? Nhỡ đâu em bị tẩy não thì sao?”
Shawn nhún vai. “Em cũng thông minh như bố vậy. Nếu bố đúng thì đến đó em sẽ biết.”
Bộ phim kết thúc. Chúng tôi chúc bà ngủ ngon và tạm biệt bà. Đó là một buổi tối mùa hè êm dịu, thật tuyệt khi đi mô tô, và Shawn nói rằng tôi sẽ đi mô tô về nhà cùng anh, hôm sau chúng tôi sẽ đến lấy ô tô. Anh nổ máy, đợi tôi trèo lên xe. Tôi bước một bước về phía anh, rồi tôi nhớ ra cuốn sách toán để trên bàn của bà.
“Anh đi đi,” tôi nói. “Em sẽ đi ngay sau anh.”
Shawn kéo chiếc mũ khít vào đầu, quay đầu xe và phóng ra đường phố vắng tanh.
Tôi lái xe trong cảm giác ngẩn ngơ hạnh phúc. Đêm đen – cái màu đen đậm đặc chỉ thuộc về vùng nông thôn hẻo lánh, nơi nhà cửa thưa thớt và thi thoảng mới có đèn đường, nơi ánh sao không bị lu mờ. Tôi lái xe trên con đường cao tốc uốn lượn như tôi đã làm vô số lần trước đó, phóng xuống đồi River Bear, men theo con đường phẳng lì nằm song song với con lạch Fivemile, Ở phía trên con đường leo lên cao dần và rẽ nhánh về bên phải. Không cần nhìn tôi cũng biết khúc cua ở đó, và tôi ngạc nhiên trước ánh đèn pha không dịch chuyển mà tôi nhìn thấy đang tỏa sáng trong bóng tối.
Tôi bắt đầu cho xe chạy ngược lên. Có một đồng cỏ phía bên trái, một con mương bên phải. Khi xe bắt đầu đổ dốc tôi nhìn thấy ba chiếc ô tô đỗ gần con mương. Những cánh cửa xe bật mở, đèn trong các xe bật sáng. Bảy hoặc tám người đang xúm lại quanh một thứ gì đó dưới đất. Tôi đổi làn đường và lái xe vòng qua họ, nhưng dừng lại khi nhìn thấy một vật nhỏ nằm giữa đường cao tốc.
Đó là chiếc mũ cao bồi rộng vành.
Tôi tấp xe vào lề đường, chạy tới chỗ đám người đang xúm lại gần con mương. “ Shawn!” Tôi gào lên.
Đám đông giãn ra cho tôi bước tới. Shawn úp mặt xuống đất, nằm trong một vũng máu nhuốm màu hồng do ánh đèn pha từ những chiếc xe chiếu lên. Anh bất động. “Cậu ta đâm phải một con bò từ góc kia lao ra,” một người đàn ông nói. “Tối nay trời rất tối, cậu ấy không nhìn thấy con bò. Chúng tôi đã gọi xe cứu thương rồi. Chúng tôi không dám di chuyển cậu ấy.”
Người Shawn cong queo, lưng anh cong vẹo. Tôi không biết mất bao lâu xe cứu thương mới tới. Và ở đó có nhiều máu quá. Tôi quyết định cầm máu cho anh. Tôi luồn tay xuống dưới vai anh và cố nhấc anh lên nhưng không nhấc nổi. Tôi nhìn đám người vây quanh và nhận ra một khuôn mặt. Dwain [1]. Chú là một người phe chúng tôi. Mẹ tôi đã đỡ đẻ bốn trong tám đứa con của chú.
“Chú Dwain! Giúp cháu lật người anh ấy lên với.”
Dwain lật Shawn nằm ngửa lên. Trong một giây tưởng chừng dài như một giờ, tôi nhìn anh trai mình không chớp mắt, nhìn máu chảy ra từ thái dương anh, chảy xuống gò má bên phải, chảy xuống tai và xuống chiếc áo phông trắng. Mắt anh nhắm, miệng anh há hốc. Máu rỉ ra từ một cái lỗ to bằng lỗ gôn trên trán anh. Trông như thể thái dương của anh bị kéo lê trên mặt đường trải nhựa, khiến da bị tróc hết, sau đó đến xương. Tôi ghé sát xuống nhìn vào trong vết thương. Một thứ gì đó mềm và lỗ rỗ lấp lánh trước mặt tôi. Tôi cởi áo ra và ấn nó vào đầu Shawn.
Khi tôi chạm vào chỗ trầy da trên đầu Shawn, anh trút một tiếng thở dài và mở mắt ra.
“Gai ém,” anh lẩm bẩm. Rồi anh dường như bất tỉnh.
Điện thoại di động ở trong túi tôi. Tôi bấm số. Bố trả lời.
Lúc đó chắc hẳn tôi bấn loạn, nói líu lưỡi. Tôi nói Shawn bị ngã xe máy, rằng anh bị thương thành lỗ ở trên đầu.
“Nói chậm thôi. Chuyện gì thế?”
Tôi nói tất cả trong khoảng một giây. “Con nên làm gì đây?”
“Đưa nó về nhà đi,” bố nói. “Mẹ mày sẽ xử lý vết thương.”
Tôi mở miệng nhưng không thốt nên lời. Cuối cùng, tôi nói, “Con không đùa đâu. Óc của anh ấy, con có thể nhìn thấy óc của anh ấy!”
Dwain nghe lỏm được. “Tôi sống ở phía bên kia cánh đồng này,” chú nói. “Mẹ cháu có thể xử lý vết thương cho cậu ấy ở đó.”
“Không,” tôi nói. “Bố cháu muốn anh ấy về nhà. Hãy giúp cháu đưa anh ấy lên xe.”
Shawn rên rỉ khi chúng tôi nhấc anh lên nhưng anh không nói. Ai đó nói chúng tôi nên đợi xe cứu thương. Một người khác nói chúng tôi nên tự lái xe đưa anh ấy tới bệnh viện. Tôi không nghĩ có ai tin chúng tôi sẽ đưa anh ấy về nhà trong tình trạng não anh chảy nhỏ giọt khỏi đầu.
Chúng tôi cho Shawn nằm gập người trên ghế sau. Tôi ngồi sau tay lái, và chú Dwain trèo lên ghế khách bên cạnh. Tôi kiểm tra gương chiếu hậu để cho xe chạy ra đường cao tốc, sau đó đưa tay đẩy gương xuống phía dưới để nó phản chiếu khuôn mặt của Shawn, trống rỗng, đầy máu. Bàn chân tôi để hờ trên bàn đạp ga.
Ba giây trôi qua, cho lẽ bốn giây. Đó là tất cả.
Dwain kêu lên, “Đi thôi chứ!” nhưng tôi gần như không nghe thấy chú nói. Tôi rối trí vì hoảng sợ. Ý nghĩ của tôi lang thang giữa màn sương của cơn phẫn uất một cách điên cuồng và luống cuống. Trạng thái đó hệt như trong mơ, như thể nỗi cuồng loạn vừa mới giải thoát tôi khỏi một chuyện hư cấu mà mới năm phút trước thôi tôi cần phải tin.
Tôi chưa bao giờ nghĩ về cái ngày Shawn ngã từ trên tấm nâng đó. Chẳng có gì để nghĩ hết. Anh ngã bởi vì Chúa muốn anh ngã; chẳng có ý nghĩa nào sâu xa hơn. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng nếu mình ở đó thì sẽ như thế nào. Ở đó để thấy Shawn lộn nhào xuống, cố túm lấy không khí. Ở đó để thấy anh va đập, gập người, rồi nằm bất động. Tôi chưa bao giờ cho phép mình tưởng tượng điều gì đã xảy ra sau đó – quyết định của bố để anh ở bên chiếc xe bán tải, hoặc những cái nhìn đầy lo lắng chắc chắn đã được trao đổi qua lại giữa Luke và Benjamin.
Giờ đây, nhìn những vết rách trên gương mặt anh trai mình, mỗi vết là một dòng sông máu nhỏ, tôi nhớ rằng Shawn đã ngồi bên chiếc xe bán tải trong tận mười lăm phút, chảy máu não. Sau đó anh lên cơn, và mấy người anh em vật anh xuống đất, để anh ngã, chịu chấn thương thứ hai, chấn thương mà các bác sĩ nói đáng lẽ đã giết chết anh. Đó là lý do Shawn không bao giờ còn là Shawn trước kia nữa.
Nếu cú ngã đầu tiên là ý Chúa thì cú ngã thứ hai là ý của ai?
Tôi chưa bao giờ đến bệnh viện trong thị trấn, nhưng nó dễ tìm. Khi tôi cho xe quay ngược 180 độ và để nó chạy nhanh xuống sườn đồi, Dwain hỏi tôi đang làm cái quái gì vậy. Tôi lắng nghe nhịp thở nông của Shawn khi phóng xe qua thung lũng, dọc theo lạch Fivemile, sau đó phóng lên đồi Bear River. Tại bệnh viện, tôi đỗ xe ở làn dành cho trường hợp cấp cứu, và chú Dwain cùng tôi đưa Shawn qua những cái cửa kính. Tôi gào lên xin giúp. Một y tá xuất hiện, chạy tới, rồi đến một y tá khác. Lúc đó Shawn đã tỉnh, Họ đưa anh đi và ai đó lớn tiếng bảo tôi vào phòng đợi.
Chẳng có cách nào để tránh điều phải làm tiếp theo. Tôi gọi điện cho bố.
“Con sắp về đến nhà chưa?” Bố nói.
“Con đang ở bệnh viện.”
Im lặng bao trùm, rồi bố nói, “Bố mẹ sẽ đến.”
Mười lăm phút sau bố mẹ có mặt ở đó, và ba chúng tôi cùng đợi trong lúng túng, tôi thì cắn móng tay trên chiếc sofa màu xanh nhạt, mẹ vừa đi đi lại lại vừa búng ngón tay, còn bố thì ngồi bất động phía dưới chiếc đồng hồ treo tường phát ra những tiếng tích tắc nghe rõ mồn một.
Bác sĩ cho Shawn chụp CAT. Ông ấy nói vết thương trông rất tệ, nhưng thực ra tổn thương không nghiêm trọng, và sau đó tôi nhớ lại những gì các bác sĩ đã nói với tôi – rằng ở vùng đầu, thường những vết thương trông tệ nhất lại ít nghiêm trọng nhất – và tôi cảm thấy thật ngốc vì đã hoảng sợ đưa anh đến bệnh viện. Bác sĩ nói lỗ thủng trong xương đầu anh nhỏ thôi. Nó có thể tự lành, hoặc một bác sĩ phẫu thuật có thể đặt một tấm kim loại vào đó. Shawn nói anh muốn thấy nó tự lành, vậy nên bác sĩ khâu da ở chỗ thủng lại.
Chúng tôi đưa Shawn về nhà vào khoảng ba giờ sáng. Bố lái xe, mẹ ngồi bên cạnh bố, còn tôi ngồi ở ghế sau với Shawn. Không ai nói năng gì. Bố không la lối hay lên lớp; thực ra, bố chưa bao giờ nhắc đến cái đêm ấy. Nhưng có một điều gì đó trong cách bố liếc nhìn, không bao giờ nhìn thẳng vào tôi, khiến tôi nghĩ rằng một ngã rẽ đã xuất hiện, và tôi đi một đường, còn bố đi đường khác. Sau đêm đó, chuyện tôi sẽ đi hay ở không thành vấn đề nữa. Cứ như thể chúng tôi đang sống ở tương lai, và tôi đã đi rồi.
Giờ đây, khi nghĩ về đêm hôm đó, tôi không nghĩ đến con đường cao tốc tối om ấy, hoặc cảnh anh trai mình nằm trong vũng máu của chính anh. Tôi nghĩ đến phòng đợi ở bệnh viện với chiếc sofa màu xanh nhạt và những bức tường trắng. Tôi ngửi thấy không khí đầy mùi thuốc khử trùng. Tôi nghe thấy tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ nhựa.
Ngồi ở đầu kia là bố tôi, và khi tôi nhìn khuôn mặt mệt mỏi của bố, một sự thật đầy sức mạnh, một sự thật mà tôi không hiểu tại sao trước đó tôi chưa từng hiểu ra, tấn công tôi. Sự thật đó là: tôi không phải là một đứa con gái ngoan ngoãn. Tôi là một kẻ phản bội, một con sói giữa bầy cừu; có điều gì đó khác về tôi và cái điều khác ấy chẳng tốt đẹp gì.
Tôi muốn rống lên, muốn gục xuống đầu gối bố mình mà khóc và hứa sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Nhưng tôi là sói nên bản chất của tôi vẫn là gian trá, và dù gì bố cũng sẽ đánh hơi thấy mùi gian trá. Và cả hai chúng tôi đều biết rằng nếu tôi lại tìm thấy Shawn trên đường cao tốc, nằm trong vũng máu, thì tôi sẽ lại làm y như những gì tôi đã làm mà thôi.
Tôi không hối tiếc, chỉ cảm thấy hổ thẹn.
Cái phong bì ấy đến vào ba tuần sau đó, khi Shawn vừa mới tự đứng dậy được. Tôi xé phong bì, chết lặng, như thể sắp đọc bản án sau khi lời tuyên án có tội được ấn định. Tôi nhìn lướt xuống mục tổng điểm. Hai mươi tám. Tôi kiểm tra lại. Không nhầm lần. Không hiểu bằng cách nào – và phép màu là cách duy nhất tôi có thể giải thích cho điều đó – tôi đã đạt được từng ấy điểm.
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là phải quyết tâm: tôi quyết tâm để không bao giờ làm việc cho bố mình nữa. Tôi lái xe đến cửa hàng tạp hóa Stokes trong thị trấn xin một chân đóng gói hàng. Tôi mới mười sáu tuổi, nhưng tôi không nói với người quản lý điều đó và ông ấy thuê tôi làm việc bốn mươi giờ một tuần. Ca làm việc đầu tiên của tôi bắt đầu lúc bốn giờ sáng hôm sau.
Khi tôi về nhà, bố đang lái chiếc xe bốc xếp qua bãi phế liệu. Tôi bước lên thang xe, bám chặt tay vịn. Qua tiếng gầm của động cơ, tôi nói với bố rằng tôi đã tìm được việc làm nhưng tôi sẽ lái cần cẩu vào các buổi trưa, cho đến khi bố thuê được ai đó. Bố buông cần trục, nhìn đăm đăm về phía trước.
“Mày đã quyết định rồi còn gì,” bố nói mà không liếc nhìn tôi. “Câu giờ thì ích gì.”
Một tuần sau tôi đăng ký vào trường BYU. Tôi không biết viết đơn, vậy nên Tyler viết hộ tôi. Anh viết rằng tôi đã được giáo dục theo một chương trình khắt khe do mẹ tôi chuẩn bị, nhằm bảo đảm rằng tôi đáp ứng được mọi yêu cầu để tốt nghiệp.
Cảm giác của tôi về cái đơn xin học đó thay đổi theo ngày, gần như theo phút. Đôi lúc tôi chắc chắn rằng Chúa muốn tôi đi học đại học, bởi vì Chúa đã cho tôi hai mươi tám điểm. Những lúc khác tôi chắc chắn rằng mình sẽ bị từ chối, và rằng Chúa sẽ trừng phạt tôi vì đã nộp đơn xin nhập học, vì đã cố tình bỏ gia đình. Nhưng dù kết quả là gì, tôi biết mình vẫn sẽ đi.
Tôi sẽ đi đến một nơi nào đó, dù đó không phải là trường học. Gia đình đã thay đổi từ phút tôi đưa Shawn tới bệnh viện thay vì đưa anh về cho mẹ chữa trị. Tôi đã chối bỏ một phần của nó; bây giờ nó chối bỏ tôi.
Ban giám hiệu của trường ấy làm việc rất hiệu quả; tôi không phải đợi lâu. Thư của nhà trường đến trong một cái phong bì bình thường. Tim tôi như ngừng đập khi tôi nhìn thấy nó. Thường thì những bức thư từ chối trông chẳng có gì đặc biệt, tôi nghĩ. Tôi mở nó ra và đọc: “Chúc mừng.” Tôi đã được nhận vào trường, kỳ học bắt đầu vào ngày 5 tháng Một.
Mẹ ôm tôi. Bố cố tỏ ra vui mừng. “Ít ra nó cũng chứng tỏ một điều,” bố nói. “Rằng việc giáo dục ở nhà chúng ta tốt như ở bất cứ trường công nào.”
Ba ngày trước khi tôi bước sang tuổi mười bảy, mẹ lái xe đưa tôi đến Utah để tìm một căn hộ. Việc tìm nhà ngốn mất cả ngày, và chúng tôi lái xe về nhà lúc tối muộn, thấy bố đang ăn bữa tối đông lạnh. Bố không thạo nấu ăn và đó là món cháo bột mì. Bầu không khí quanh bố căng thẳng, dễ kích động. Có cảm giác như bố có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Mẹ thậm chí không tháo giày, cứ thế chạy vào bếp và bắt đầu sắp chảo ra để làm một bữa tối tử tế. Bố đi vào phòng khách và bắt đầu chửi rủa cái đầu máy video. Từ hành lang tôi có thể thấy dây cáp không được nối. Khi tôi nói ra điều đó, bố bùng nổ. Bố chửi rủa và vung tay, gầm lên rằng trong nhà của một người đàn ông cáp phải luôn được cắm, rằng đáng lẽ không bao giờ có chuyện một người đàn ông bước vào phòng mà lại thấy cáp nối với đầu máy video không được cắm. Tại sao tôi lại tháo cáp ra?
Mẹ vội chạy từ trong bếp ra. “Em đã tháo đấy,” mẹ nói.
Bố quay sang mẹ, thở phì phò. “Tại sao bà luôn bênh nó thế! Một người đàn ông phải luôn được vợ mình ủng hộ chứ!”
Tôi quờ quạng tìm dây cáp trong khi bố đứng ngay phía trên tôi, la lối. Tôi tiếp tục đánh rơi dây cáp. Đầu tôi giật giật vì nỗi sợ lấn át mọi ý nghĩ, đến mức tôi thậm chí không nhớ nổi cách cắm dây đỏ vào với đỏ, trắng vào với trắng.
Rồi cảm giác đó trôi qua. Tôi ngước lên nhìn bố, nhìn khuôn mặt tái đi của bố, đường gân trên cổ bố. Tôi vẫn không cắm được mấy dây cáp. Tôi đứng lên, và ngay khi đứng lên, tôi không quan tâm cáp đã được nối hay chưa. Tôi bước ra khỏi phòng. Bố vẫn chửi rủa khi tôi bước vào bếp. Bước ra hành lang tôi quay đầu lại nhìn. Mẹ đã thế chỗ tôi, đang cúi lom khom xuống đầu máy video, mò mẫm tìm dây cắm trong khi bố đứng lù lù ngay phía trên.
Năm đó đợi Giáng sinh mà như đợi để bước qua rìa một vách núi. Kể từ sự cố Y2K tôi mới lại có cảm giác chắc chắn rằng điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra, một điều gì đó sẽ xóa sạch mọi thứ mà tôi biết trước đó. Và điều gì sẽ đến thế chỗ? Tôi cố hình dung ra tương lai, với sự hiện diện của các giáo sư, bài tập về nhà, các lớp học, nhưng đầu tôi không thể mường tượng nổi. Trong hình dung của tôi, đã chẳng có tương lai nào hết. Có đêm trước Giáng sinh, sau đó chẳng có gì nữa cả.
Tôi biết tôi nên chuẩn bị, cố đạt được trình độ trung học mà Tyler đã trình bày với trường đại học là tôi có. Nhưng tôi không biết làm thế nào để đạt được nó, và tôi không muốn nhờ Tyler giúp. Anh đang bắt đầu cuộc sống mới ở trường Purdue – anh sắp kết hôn – và tôi không dám chắc anh muốn chịu trách nhiệm về cuộc sống của tôi.
Dẫu vậy tôi để ý thấy khi anh về nhà nghỉ Giáng sinh, anh đọc một cuốn sách có tên là Những người khốn khổ, và tôi quyết định rằng chắc đó phải là cuốn sách mà một sinh viên đại học đọc. Tôi mua một cuốn cho riêng mình, hy vọng nó sẽ dạy tôi về lịch sử hoặc văn học, nhưng không phải vậy. Cuốn sách không thể, bởi vì tôi không thể phân biệt nổi một câu chuyện hư cấu với một chuyện có thật. Tôi cảm thấy, đối với tôi, Napoleon cũng không thật hơn Jean Valjean. Tôi chưa từng nghe nói về ai trong hai người đó.
Chú thích:
[1] Mười lăm năm sau, khi được hỏi, chú Dwain không hề nhớ là đã ở đó. Nhưng đúng là chú ở đó mà, kí ức vẫn còn sống động trong tôi. — TG