← Quay lại trang sách

Phần 2 - Chương 17 Làm Nên Ngày Thánh [1]

Ngày đầu năm mới, mẹ lái xe đưa tôi đến với cuộc sống mới của tôi. Tôi không mang theo nhiều thứ: hơn chục lọ mứt đào nhà làm, bộ chăn ga, và một chiếc túi sạch thường để đựng rác chứa đầy quần áo. Khi chúng tôi phóng xe trên con đường nối giữa hai bang tôi nhìn phong cảnh vỡ ra từng mảng, lởm chởm, những đỉnh núi đen sẫm của dãy Bear River trôi trước mắt tôi nhường chỗ cho dãy Rockies lô nhô. Trường đại học tọa lạc ngay trung tâm của dãy Wasatch với những khối núi trắng xóa sừng sững – nhô lên khỏi mặt đất. Chúng thật đẹp, nhưng đối với tôi vẻ đẹp của chúng dường như ẩn chứa sự hiếu chiến và uy hiếp.

Căn hộ của tôi cách trường một dặm về phía nam. Có bếp, phòng khách và ba phòng ngủ nhỏ. Có những phụ nữ khác sống ở đó – tôi biết họ là phụ nữ bởi vì ở BYU nhà ở được phân theo giới tính – và vẫn đi nghỉ Giáng sinh chưa quay lại. Mất vài phút để mang các thứ của tôi từ ô tô lên. Mẹ và tôi lúng túng đứng trong bếp một lát, rồi mẹ ôm tôi và lái xe đi.

Ba ngày tôi sống một mình trong căn hộ yên tĩnh. Bên ngoài không yên tĩnh chút nào. Chẳng đâu yên tĩnh cả. Tôi chưa bao giờ ở trong một thành phố quá vài giờ và nhận thấy không thể nào bảo vệ bản thân khỏi những tiếng ồn không ngừng xâm chiếm. Tiếng chít chít của tín hiệu báo sang đường, tiếng còi tầm inh tai, tiếng rít của phanh xe, thậm chí tiếng nói bị hãm bớt âm lượng của những người đi bộ trên vỉa hè – tôi nghe thấy từng âm thanh riêng biệt. Đôi tai tôi vốn đã quen với sự tĩnh lặng của núi, có cảm giác bị những âm thanh đó tấn công tới tấp.

Tôi đang thèm ngủ thì bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đến. Tên cô là Shannon, đang học trường thẩm mỹ ở bên kia đường. Cô mặc chiếc quần ngủ màu hồng phấn bằng vải nhung lông và chiếc áo hai dây màu trắng bó sát người. Tôi nhìn không chớp mắt đôi vai trần của cô. Tôi đã từng nhìn thấy những người phụ nữ mặc kiểu này – bố tôi gọi họ là dân ngoại – và tôi luôn tránh đến gần họ, như thể sự phóng đãng của họ có thể lây. Giờ đây có một người như thế trong nhà tôi.

Shannon quan sát tôi với nỗi thất vọng không che giấu, nhìn chiếc áo khoác nỉ rộng thùng thình và chiếc quần bò ngoại cỡ của đàn ông mà tôi mặc trên người. “Đằng ấy bao nhiêu tuổi?” Cô hỏi.

“Mình học năm thứ nhất,” tôi nói. Tôi không muốn thừa nhận rằng mình mới mười bảy tuổi và rằng đáng lẽ tôi đang là học sinh trung học, vừa mới học xong năm thứ hai ở trường trung học mới phải.

Shannon đi tới bồn rửa và tôi nhìn thấy từ “Mọng nước” được viết trên lưng cô. Điều đó vượt quá sức chịu đựng của tôi. Tôi lui về phòng mình, lẩm bẩm rằng mình sẽ đi ngủ.

“Hay đấy,” cô nói. “Nhà thờ làm lễ sớm. Tớ thường ngủ muộn.”

“Bạn có đi nhà thờ?”

“Có chứ,” cô nói. “Bạn không đi à?”

“Tất nhiên là có. Nhưng bạn, bạn có đi nhà thờ thật chứ?”

Cô nhìn tôi trừng trừng, cắn môi, rồi nói, “Nhà thờ làm lễ lúc tám giờ. Chúc ngủ ngon!”

Đầu óc tôi quay cuồng khi tôi đóng cửa phòng ngủ lại. Sao cô ta có thể là một tín đồ Mặc Môn được cơ chứ?

Bố tôi nói có dân ngoại ở khắp mọi nơi – rằng hầu hết những người Mặc Môn là dân ngoại, họ chỉ không biết điều đó mà thôi. Tôi nghĩ về cái áo hai dây và chiếc quần ngủ của Shannon, và bỗng nhiên hiểu ra rằng có thể tất cả mọi người ở trường BYU đều là dân ngoại.

Ngày hôm sau một người bạn chung nhà khác của tôi đến. Tên cô là Mary và cô đang học năm thứ nhất ngành giáo dục mầm non. Cô mặc giống như những gì tôi nghĩ một người Mặc Môn mặc vào ngày Chủ nhật, một chiếc váy hoa dài chấm sàn nhà. Quần áo của cô là một dạng khẩu hiệu lỗi thời đối với tôi; chúng báo hiệu cô không phải là dân ngoại, và trong vài giờ tôi cảm thấy bớt đơn độc hơn.

Cho đến buổi tối hôm đó. Mary bất ngờ đứng dậy khỏi sofa và nói, “Ngày mai bắt đầu phải đi học rồi. Đã đến lúc dự trữ đồ ăn.” Cô rời khỏi nhà và một giờ sau trở về với hai chiếc túi giấy. Mua sắm vào ngày lễ Sabbath là cấm kỵ – và tôi chưa bao giờ mua nhiều hơn một thanh kẹo gôm vào ngày Chủ nhật – nhưng Mary điềm nhiên mở trứng, sữa, mì sợi mà không biết rằng mỗi thứ cô đang đặt vào tủ lạnh chung đều là một sự vi phạm Những lời răn của Chúa. Khi cô lấy ra một lon Coca Cola, thứ mà bố tôi nói là biểu hiện vi phạm lời răn của Chúa về sức khỏe, tôi lại lui về phòng riêng.

Sáng hôm sau, tôi lên xe buýt nhưng đi nhầm hướng. Khi tôi sửa sai thì buổi học đã sắp kết thúc. Tôi đứng lúng túng ở cuối lớp cho tới khi vị giáo sư, một phụ nữ gầy gò với khuôn mặt mang những nét thanh tú, ra hiệu cho tôi ngồi vào ghế trống duy nhất ở gần hàng đầu. Tôi ngồi xuống, cảm thấy sức nặng từ ánh mắt của mọi người đang đổ đồn vào mình. Đó là loạt bài giảng đến Shakespeare và tôi chọn nó bởi vì tôi đã nghe đến Shakespeare và nghĩ đó là một dấu hiệu tốt. Nhưng bây giờ, ở đây, tôi hiểu ra rằng mình chẳng biết gì về ông ấy. Ngoài cái tên Shakespeare ra, tôi chẳng biết gì về ông ấy hết.

Khi chuông reo, bà giáo sư đi tới bàn của tôi. “Em không nên ở lớp học này,” bà nói.

Tôi nhìn bà, bối rối. Tất nhiên tôi không thuộc về nơi này, nhưng làm thế nào bà lại biết điều đó cơ chứ? Tôi sắp sửa thú nhận tất cả mọi điều – rằng tôi chưa bao giờ đến trường, rằng thực ra tôi không đáp ứng được các yêu cầu để tốt nghiệp – thì bà nói thêm, “Lớp này dành cho những sinh viên năm cuối.”

“Có những lớp dành cho sinh viên năm cuối ạ?” Tôi hỏi.

Bà đảo mắt như thể tôi đang cố trở nên vui tính. “Đây là lớp 382. Em thì phải ở lớp 110.”

Tôi cuốc bộ từ đầu này sang đầu kia khuôn viên trường đại học trước khi tôi hiểu những gì bà giáo sư nói, sau đó tôi kiểm tra lịch học và, lần đầu tiên, chú ý tới các con số ở bên cạnh tên khóa học.

Tôi tới phòng đào tạo, nơi tôi được thông báo rằng tất cả các khóa học dành cho sinh viên năm thứ nhất đều đã kín chỗ. Họ nói, điều tôi nên làm là cứ vài giờ lại kiểm tra qua hệ thống trực tuyến để xem nếu có ai bỏ thì mình thế chỗ. Đến cuối tuần tôi đã chen được vào khóa học Nhập môn tiếng Anh, Lịch sử nước Mỹ, Âm nhạc và Tôn giáo, nhưng tôi bị sa lầy trong khóa học Sơ cấp về nghệ thuật trong nền văn minh phương Tây.

Môn tiếng Anh dành cho sinh viên năm thứ nhất do một cô giáo vui tính sắp bước sang tuổi ba mươi giảng dạy, người luôn nói về “mẫu bài luận” mà cô quả quyết với chúng tôi rằng chúng tôi đã được học ở trường trung học.

Lớp học tiếp theo của tôi, lớp Lịch sử nước Mỹ, được tổ chức trong một giảng đường mang tên của nhà tiên tri Joseph Smith. Tôi cứ nghĩ Lịch sử nước Mỹ sẽ là môn học dễ bởi vì bố tôi đã dạy chúng tôi về các nhà lập quốc – tôi biết đầy đủ về Washington, Jefferson, Madison. Nhưng vị giáo sư giảng môn này hầu như không nhắc đến tất cả những người đó, thay vì thế ông nói về “những nền móng triết học” và các công trình của Cicero, Hume, những cái tên mà tôi chưa từng nghe nói đến.

Trong bài giảng đầu tiên, vị giáo sư nói với chúng tôi rằng buổi học tiếp theo sẽ bắt đầu bằng một bài kiểm tra vấn đáp xem sinh viên tự đọc sách ra sao. Trong hai ngày tôi đánh vật để cố gắng hiểu của các đoạn khó hiểu trong cuốn giáo trình, nhưng những thuật ngữ như “chủ nghĩa nhân đạo công dân” và “thời kỳ khai sáng của Scotland” nằm rải rác trên trang sách như những hố đen, hút tất cả mọi từ khác vào đó. Tôi bước vào cuộc kiểm tra vấn đáp và không trả lời được câu nào.

Thất bại đó cứ bám chặt trong đầu tôi, gây bứt rứt. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết tôi có ổn hay không, bất cứ điều gì tôi có trong đầu bằng con đường giáo dục có đủ hay không. Sau cuộc vấn đáp, câu trả lời dường như rõ ràng: tất cả những gì tôi có trong đầu là không đủ. Hiểu ra điều này, tôi có thể phẫn nộ vì cách dạy dỗ con cái ở gia đình mình lắm chứ, nhưng không. Lòng trung thành của tôi đối với bố tôi đã tăng lên theo những dặm dài giữa chúng tôi. Ở trên núi, tôi có thể nổi loạn. Nhưng ở đây, ở cái nơi sáng sủa và ồn ào bị dân ngoại ngụy trang thành những vị thánh vây quanh, tôi bám lấy mọi chân lý, mọi học thuyết mà bố đã trao truyền cho tôi. Các bác sĩ là con đẻ của diệt vong. Học ở nhà là một lời răn của Chúa.

Thất bại trong bài kiểm tra vấn đáp chẳng hề làm hao mòn niềm sùng bái mới mẻ của tôi đối với tín ngưỡng cũ, nhưng một bài giảng về Nghệ thuật phương Tây đã làm được điều đó.

Khi tôi đến, phòng học sáng sủa, ánh mặt trời buổi sáng ấm áp rót vào phòng qua bức tường cao có những ô cửa sổ. Tôi chọn chỗ ngồi cạnh một cô gái mặc áo sơ mi cao cổ. Tên cô là Vanessa. “Chúng mình là bộ đôi đấy,” cô nói. “Tớ nghĩ trong lớp chỉ có tớ với cậu là sinh viên năm nhất.”

Bài giảng bắt đầu khi một người đàn ông lớn tuổi có đôi mắt nhỏ và cái mũi nhọn đóng các ô cửa sổ lại. Ông bấm công tắc và chiếc máy chiếu làm cho căn phòng tràn ngập ánh sáng trắng. Một bức tranh hiện lên. Vị giáo sư nói về bố cục, các nét vẽ, và lịch sử của bức tranh. Sau đó ông chuyển sang bức tiếp theo, bức tiếp theo, và tiếp theo.

Sau đó máy chiếu cho thấy một tấm ảnh đặc biệt, ảnh một người đàn ông đội chiếc mũ bạc phếch, mặc áo bành tô. Phía sau ông là một bức tường xi măng hiện ra lờ mờ. Ông cầm một tờ giấy nhỏ đưa lên sát mặt nhưng ông không nhìn vào nó. Ông đang nhìn chúng tôi.

Tôi mở cuốn sách tranh mà tôi mua cho môn này để có thể nhìn rõ hơn. Có một dòng chữ in nghiêng bên dưới tấm ảnh nhưng tôi không thể hiểu. Đó là một trong những từ thuộc loại “hố đen,” ở chính giữa, nuốt hết những từ còn lại. Tôi đã thấy những sinh viên khác đặt câu hỏi, vì thế tôi giơ tay.

Vị giáo sư gọi tôi, và tôi đọc to câu đó lên. Khi đọc đến từ đó, tôi dừng lại. “Em không biết từ này,” tôi nói. “Nó có nghĩa là gì ạ?”

Im lặng bao trùm. Không có một tiếng “suỵt,” không có hành động ngăn tiếng ồn, mà là sự im lặng gần như tuyệt đối. Không có tiếng giấy sột soạt, không có tiếng bút cạo trên giấy.

Vị giáo sư mím môi. “Cảm ơn vì câu hỏi đó,” ông nói, rồi trở lại với những lưu ý của mình.

Tôi ngồi im không nhúc nhích trong suốt thời gian còn lại của bài giảng. Tôi nhìn trân trần xuống giày, tự hỏi điều gì đã xảy ra và tại sao bất cứ khi nào tôi ngẩng lên, đều có ai đó nhìn chằm chằm vào tôi như thể tôi là một con quái vật. Hẳn rồi, tôi là quái vật, và tôi biết điều đó, nhưng tôi không hiểu làm thế nào mà họ lại biết điều đó, Khi chuông reo, Vanessa nhét vở vào ba lô. Sau đó cô dừng lại và nói, “Cậu không nên đem chuyện đó ra đùa. Đó không phải là chuyện đùa đâu.” Tôi chưa kịp trả lời thì cô đã bước đi.

Tôi ngồi tại chỗ cho đến khi tất cả mọi người đều đã rời khỏi phòng, giả vờ rằng khóa áo khoác của mình bị kẹt để tôi có thể tránh nhìn vào mắt bất cứ ai. Sau đó tôi đi thẳng đến phòng máy tính để tra từ “Diệt chủng.”[2]

Tôi không biết mình đã ngồi đó bao lâu và đọc, nhưng tôi đã đọc đủ. Tôi ngồi ngả người ra phía sau, nhìn đăm đăm lên trần nhà. Tôi nghĩ mình bị sốc, nhưng tôi không chắc đó là sốc vì biết một thảm kịch, hay sốc vì nhận ra sự dốt nát của bản thân. Tôi nhớ rằng mình ngồi đó tưởng tượng ra, không phải các trại tập trung, không phải các hố chôn người hay các buồng hơi ngạt, mà là khuôn mặt mẹ tôi. Một làn sóng cảm xúc xâm chiếm tôi, một cảm giác căng thẳng, thật lạ lẫm, mà tôi không biết là gì. Nó khiến tôi muốn quát tháo mẹ, quát tháo chính mẹ đẻ của mình, và điều đó khiến tôi sợ hãi.

Tôi lục tìm trong ký ức. Từ “Diệt chủng” hoàn toàn xa lạ. Có lẽ mẹ đã giảng giải cho tôi về từ đó, khi mẹ con tôi hái nụ tầm xuân hoặc chế thảo dược từ cây táo gai. Hình như tôi lờ mờ biết rằng người Do Thái bị giết ở một nơi nào đó, lâu lắm rồi. Nhưng tôi cứ nghĩ đó chỉ là một cuộc xung đột nhỏ, như cuộc thảm sát ở Boston mà bố tôi đã nói đến rất nhiều, trong đó năm người đã tử vì đạo dưới một Chính phủ chuyên chế. Hiểu nó theo quy mô đó – năm người so với sáu triệu người – dường như là không thể.

Trước khi bài giảng tiếp theo bắt đầu, tôi tìm Vanessa và xin lỗi vì trò đùa hôm trước. Tôi không giải thích, bởi vì tôi không thể giải thích nổi. Tôi chỉ nói rằng tôi xin lỗi và sẽ không lặp lại nó nữa. Để giữ lời hứa ấy, từ đó cho đến khi kết thúc học kỳ tôi không giơ tay lần nào.

Thứ Bảy đó tôi ngồi vào bàn với một đống bài tập về nhà. Tôi phải làm xong tất cả bài tập trong ngày hôm đó bởi vì tôi không thể xâm phạm thời gian của ngày Sabbath.

Tôi dành buổi sáng và buổi chiều cố giải mã cuốn giáo trình lịch sử, mà không thành công cho lắm. Buổi tối tôi cố viết một bài luận cho môn tiếng Anh, nhưng tôi chưa từng viết luận bao giờ – trừ vài bài về tội lỗi và lòng ăn năn mà chẳng ai thèm đọc – và tôi không biết phải viết như thế nào. Tôi không biết giáo viên nói “mẫu bài luận” là sao. Tôi viết nguệch ngoạc ra vài câu, rồi gạch chúng đi, rồi lại viết lại. Tôi cứ viết ra rồi lại gạch đi cho đến quá nửa đêm.

Tôi biết tôi nên dừng – đó là thời gian của Chúa – nhưng tôi thậm chí chưa bắt đầu với bài tập Lý thuyết âm nhạc được giao, mà bảy giờ sáng thứ Hai tôi có tiết học môn đó. Tôi lập luận rằng khi thức dậy vào ngày lễ Sabbath tôi sẽ làm tiếp.

Tôi tỉnh dậy nhận ra mình đang úp mặt xuống bàn. Căn phòng tràn đầy ánh sáng. Tôi có thể nghe thấy tiếng Shannon và Mary ở trong bếp. Tôi mặc bộ đồ ngày Chủ nhật vào và ba chúng tôi cùng đi bộ đến nhà thờ. Vì giáo đoàn ở đó gồm toàn sinh viên, nền ai cũng ngồi với bạn cùng phòng của mình, và tôi ngồi ở băng ghế cùng với các bạn cùng phòng của tôi. Vừa ngồi xuống Shannon lập tức tán gẫu với cô gái ngồi sau chúng tôi. Tôi nhìn quanh thánh đường và một lần nữa sửng sốt vì có nhiều phụ nữ mặc váy ngắn trên đầu gối đến thế.

Cô gái đang tán gẫu với Shannon rủ chúng tôi trưa hôm đó ghé qua chỗ cô xem phim. Mary và Shannon đồng ý nhưng tôi lắc đầu. Tôi không xem phim vào ngày Chủ nhật.

Shannon đảo mắt. “Bạn ấy mộ đạo lắm,” cô thì thầm.

Tôi luôn biết rằng bố mình tin sùng một vị Chúa khác. Khi còn nhỏ, tôi ý thức được rằng mặc dù gia đình tôi đi lễ ở cùng một nhà thờ như mọi người khác trong thị trấn, tôn giáo của chúng tôi không giống của họ. Họ tin vào lối sống giản dị; còn chúng tôi làm theo nó. Họ tin vào sức mạnh chữa lành của Chúa; chúng tôi phó mặc các vết thương vào tay Chúa. Họ tin vào việc chuẩn bị cho Giáng sinh thứ hai; chúng tôi thực sự đã bắt tay chuẩn bị. Từ lâu lắm rồi, tôi hiểu rằng các thành viên của gia đình tôi là những người Mặc Môn đích thực mà tôi từng biết, tuy nhiên vì một lý do nào đó, ở đây, tại trường đại học này, trong nhà thờ này, lần đầu tiên tôi cảm thấy một khoảng cách mênh mông. Bây giờ tôi hiểu: tôi có thể đứng cùng gia đình mình, hoặc với dân ngoại, đứng ở bên này hoặc ở bên kia, nhưng không có chỗ đứng nào ở giữa hết.

Buổi lễ kết thúc và chúng tôi đi thành hàng vào lớp học giáo lý. Shannon và Mary chọn chỗ ngồi gần trên cùng. Họ nhận cho tôi một chỗ nhưng tôi lưỡng lự, nghĩ mình đã xâm phạm ngày Sabbath như thế nào. Tôi đã ở đây gần một tuần, và đã lấy trộm của Chúa một giờ đồng hồ. Có lẽ đó là lý do tại sao bố tôi không muốn tôi tới đây: bởi vì bố biết, sống với họ, với những người ít đức tin hơn, tôi có nguy cơ trở thành giống như bọn họ.

Shannon vẫy tay với tôi và cổ áo chữ V của cô trễ xuống. Tôi bước qua chỗ cô, ngồi thu mình ở một góc cách xa Shannon và Mary nhất có thể. Tôi cảm thấy dễ chịu với vị trí quen thuộc: tôi, ngồi nép vào một góc, cách xa những đứa trẻ khác, trong bài giảng giáo lý hồi tôi còn bé. Đó là cảm giác quen thuộc duy nhất mà tôi cảm thấy kể từ khi tôi đến nơi này, và tôi tận hưởng nó.

Chú thích:

[1] Trong Kinh Thánh có câu “Hãy nhớ ngày nghỉ đặng làm nên ngày thánh”.

[2] Nguyên văn: Holocaust là từ chỉ cuộc tàn sát người Do Thái vào thời Hiter.