Chương 18 Máu Và Lông
Sau đó tôi hiếm khi nói chuyện với Shannon hay Mary và họ hiếm khi trò chuyện với tôi, trừ khi nhắc tôi làm việc nhà được phân công mà tôi chưa làm. Đối với tôi căn hộ đó trông khá ổn. Vậy thì quan trọng gì nếu có vài quả đào thối trong tủ lạnh và mấy cái đĩa bẩn trong bồn chứ? Có hề gì nếu mùi thối táp vào mặt bạn khi bạn đi qua cửa? Đối với tôi nếu mùi thối ở ngưỡng có thể chịu đựng được, thì có nghĩa là nhà vẫn sạch, và tôi mở rộng cái thuyết đó với cá nhân mình. Tôi chưa bao giờ sử dụng xà phòng thơm trừ khi tắm, thường thì một hoặc hai lần một tuần, và thỉnh thoảng cả khi tắm tôi cũng không dùng thứ đó. Buổi sáng khi bước ra khỏi phòng vệ sinh, tôi điềm nhiên đi qua bồn rửa ở hành lang nơi Shannon và Mary luôn – luôn luôn – rửa tay. Tôi thấy họ nhướn mày lên và tôi nghĩ tới bà-trong-thị-trấn. Vẽ chuyện, tôi tự nhủ. Mình có đái lên tay đâu.
Bầu không khí trong căn hộ khá căng thẳng. Shannon nhìn tôi như thể tôi là một con chó dại, và tôi chẳng làm gì để trấn an cô.
Tài khoản ngân hàng của tôi teo dần đều. Tôi đã lo rằng mình có thể không qua được các môn học, nhưng sau một tháng, sau khi đã trả học phí, tiền thuê nhà, tiền mua thức ăn và sách vở, tôi bắt đầu nghĩ rằng dù có thi đỗ tất cả các môn thì tôi cũng sẽ chẳng thể học tiếp được vì một lý do hiển nhiên: Tôi không lo nổi tiền học. Tôi tìm kiếm học bổng qua mạng Internet. Để được miễn học phí toàn phần tôi cần phải đạt điểm trung bình môn gần như hoàn hảo.
Tôi mới chỉ học được một tháng của kỳ học này, nhưng dẫu vậy tôi biết học bổng nằm ngoài tầm với của mình. Môn Lịch sử nước Mỹ dễ hơn, nhưng chỉ ở môn đó tôi mới không trượt các bài kiểm tra vấn đáp. Tôi học tốt môn Lý thuyết âm nhạc, nhưng tôi chật vật với môn tiếng Anh. Giảng viên của tôi nói tôi có khiếu viết nhưng ngôn ngữ của tôi trang trọng và cứng nhắc đến kỳ cục. Tôi không nói cho bà biết rằng từ bé đến giờ tôi chỉ học đọc và viết qua Kinh Thánh, Sách Mặc Môn, hoặc các bài diễn văn của Joseph Smith và Brigham Young.
Tuy nhiên, trở ngại thực sự là môn Văn minh phương Tây. Đối với tôi, các bài giảng môn đó thật vô lý, có lẽ bởi trong hầu hết thời gian của tháng Một, tôi cứ nghĩ châu Âu là một quốc gia, chứ không phải là một lục địa, vậy nên đối với tôi hầu hết những gì giáo sư nói đều vô lý, khó hiểu. Và sau sự cố “Diệt chủng” tôi không giơ tay yêu cầu ông ấy giảng giải bất cứ điều gì nữa.
Dẫu vậy, nhờ có Vanessa, đó lại là các tiết học yêu thích của tôi. Chúng tôi luôn ngồi cạnh nhau khi học môn đó. Tôi thích cô bởi vì cô dường như cũng là người theo giáo phái Mặc Môn như tôi: cô mặc áo cổ cao, mặc đồ vừa phải, không bó sát quá, và cô nói với tôi rằng cô chưa bao giờ uống Coca hoặc làm bài tập về nhà vào Chủ nhật. Cô là người duy nhất dường như không phải là dân ngoại mà tôi gặp ở trường đại học.
Vào tháng Hai, giáo sư của chúng tôi thông báo rằng thay vì chỉ một bài kiểm tra giữa kỳ, tháng nào ông cũng sẽ cho chúng tôi làm một bài kiểm tra, và bài kiểm tra đầu tiên của chúng tôi là vào tuần sau. Tôi không biết phải chuẩn bị như thế nào. Không có giáo trình, chỉ có cuốn sách tranh và vài đĩa CD âm nhạc cổ điển. Tôi nghe nhạc trong khi lật qua lật lại các bức tranh. Tôi cố gắng nhớ ai đã vẽ bức tranh nào hoặc soạn bản nhạc gì, nhưng tôi không nhớ nổi cách đánh vần. Kỳ thi ACT là kỳ thi duy nhất tôi từng trải qua, và đó là thi trắc nghiệm, vậy nên tôi cho rằng tất cả các bài thi đều là thi trắc nghiệm cả.
Buổi sáng hôm chúng tôi có bài kiểm tra, vị giáo sư bảo chúng tôi lấy cuốn sách màu xanh lam ra. Tôi hầu như không có thời gian để tự hỏi cuốn sách màu xanh là cuốn gì trước khi mọi người đều lấy cuốn sách của họ khỏi ba lô. Hành động đó nhuần nhuyễn, đồng bộ, như thể họ đã thực hành nó quá nhiều rồi. Tôi là diễn viên múa duy nhất trên sân khấu dường như đã bỏ các buổi tập. Tôi hỏi Vanessa liệu cô có thừa cuốn nào không, và cô có. Tôi mở sách ra, tưởng rằng sẽ thấy bài thi trắc nghiệm, nhưng nó toàn giấy trắng.
Những ô cửa sổ đóng lại; máy chiếu được bật lên, hiển thị một bức tranh. Chúng tôi có sáu mươi giây để viết tên của tác phẩm và tên đầy đủ của họa sĩ sáng tác. Đầu óc tôi ong ong, mụ mị. Tình trạng đó kéo dài suốt mấy câu hỏi: tôi ngồi hoàn toàn bất động, chẳng viết được câu trả lời nào.
Một tác phẩm của Caravaggio hiện lên lập lòe trên màn hình – bức Judith Chặt Đầu Holofernes. Tôi nhìn chằm chằm hình ảnh đó, hình ảnh một cô gái trẻ bình tĩnh rút một thanh gươm bên sườn ra, đẩy lưỡi gươm qua cổ một người đàn ông như kéo một sợi dây cứa qua tảng pho mát. Tôi đã từng giúp bố chặt đầu những con gà, cầm chặt cẳng chân chúng trong khi bố giơ rìu lên và bổ xuống đánh “phập,” sau đó siết chặt nắm tay, giữ chân gà bằng tất cả sức lực mình, khi những con gà giãy chết, làm lông bay lung tung và máu bắn tóe lên quần bò của tôi. Nhớ đến những con gà, tôi lấy làm lạ trước sự có lý trong cảnh mà Caravaggio đã vẽ: không ai có cái vẻ đó trên khuôn mặt – vẻ vô tư, thư thái – khi chặt đầu một sinh vật.
Tôi biết bức tranh đó là do Caravaggio vẽ nhưng tôi chỉ nhớ được tên thật của ông và thậm chí tôi không thể đánh vần nó. Tôi chắc chắn tên bức tranh là Judith Chặt Đầu Ai Đó nhưng tôi không thể nặn ra được từ Holofernes, ngay cả khi chính tôi là người bị hành quyết.
Còn ba mươi giây. Có lẽ tôi có thể ghi được vài điểm nếu viết được gì đó – bất cứ điều gì – lên trang giấy, vậy nên tôi lẩm bẩm đọc cái tên “Carevajio.” Trông có vẻ không đúng. Tôi nhớ cái tên ấy có một chữ cái được gấp đôi, vậy nên tôi viết nguệch ngoạc ra chữ “Carrevagio.” Lại sai. Tôi lẩm bẩm đọc theo cách khác, mỗi kiểu đọc sau lại tệ hơn kiểu đọc trước. Hai mươi giây.
Ngồi cạnh tôi, Vanessa đang đều đặn viết. Tất nhiên rồi. Cô thuộc về nơi này. Chữ viết của cô rõ ràng, ngay ngắn, và tôi có thể đọc những gì cô viết: Michelangelo Merisi da Caravaggio. Và bên cạnh cái tên đó, Judith Chặt Đầu Holofernes. Mười giây. Tôi chép những chữ đó của cô, không gồm tên đẩy đủ của Caravaggio bởi vì, muốn thể hiện mình là người chính trực một cách có chọn lọc, tôi xác định rằng viết như thế là lừa đảo. Máy chiếu chuyển sang hình ảnh tiếp theo.
Trong thời gian còn lại tôi liếc sang tờ giấy của Vanessa thêm vài lần nữa, nhưng vô vọng. Tôi không thể chép các đoạn luận của cô, mà tôi thì thiếu cả kỹ năng thực hành lẫn văn phong để tự viết bài của mình. Trong tình trạng thiếu cả kỹ năng và kiến thức, tôi chắc hẳn đã viết nguệch ngoạc những gì bất chợt nảy ra trong đầu. Tôi không nhớ chúng tôi có được yêu cầu đánh giá bức Judith chặt đầu Holefernes hay không, nhưng nếu có thì chắc chắn tôi đã phát bịểu cảm tưởng rằng vẻ bình thản trên mặt cô gái không tương đồng với trải nghiệm giết gà của tôi. Giả sử được diễn đạt theo ngôn ngữ thích hợp, cảm tưởng của tôi có thể trở thành câu trả lời hay lắm chứ – một điều gì đó toát lên qua thế đứng bình thản của người phụ nữ tương phản mãnh liệt với chủ nghĩa hiện thực bao trùm tác phẩm. Nhưng tôi không tin giáo sư sẽ ấn tượng nhiều trước nhận xét của tôi: “Khi chặt đầu một con gà, bạn sẽ không mỉm cười bởi vì bạn có thể bị máu và lông bắn vào miệng. ”
Thời gian làm bài đã hết. Các cánh cửa sổ lại mở ra. Tôi bước ra ngoài, đứng trong thời tiết lạnh giá của mùa đông, nhìn lên những đỉnh nhọn của dãy núi Wasatch. Tôi muốn ở lại. Dãy núi ấy xa lạ và đầy vẻ uy hiếp như mọi khi, nhưng tôi muốn ở lại.
Tôi đợi một tuần để biết kết quả, và trong thời gian đó hai lần tôi mơ thấy Shawn, tôi phát hiện thấy anh nằm bất động trên mặt đường nhựa, tôi lật người anh lên và nhìn thấy mặt anh rực lên màu máu đỏ. Lơ lửng giữa nỗi hoảng sợ quá khứ và nỗi sợ tương lai, tôi ghi lại giấc mơ đó vào nhật ký. Sau đó, không một lời giải thích, như thể mối liên hệ giữa hai nỗi sợ đó là hiển nhiên, tôi viết, Mình không hiểu tại sao khi còn nhỏ mình lại không được học hành đến nơi đến chốn.
Vài ngày sau thầy trả bài kiểm tra. Tôi trượt.
Một mùa đông, khi tôi còn rất nhỏ, Luke phát hiện thấy trên đồng cỏ một con cú sừng nằm bất động, gần như chết cóng. Nó có bộ lông màu bồ hóng, và trong con mắt trẻ thơ của tôi nó dường như to bằng tôi. Luke mang nó vào nhà, rồi chúng tôi kinh ngạc trước bộ lông mềm mượt và những cái móng vuốt gớm ghiếc của nó. Tôi nhớ đã vuốt ve bộ lông tướp táp của nó, những cái lông mượt đến nỗi giống như nước, khi bố tôi giữ cơ thể mềm oặt của nó. Tôi biết rằng nếu nó tỉnh, tôi sẽ chẳng thể lại gần nó như thế. Bằng cách chạm vào nó tôi thách thức tự nhiên.
Lông của nó đẫm máu. Cánh nó bị gai đâm. “Mẹ không phải là bác sĩ thú y,” mẹ nói. “Mẹ chữa cho người.” Nhưng mẹ rút cái gai ra và làm sạch vết thương. Bố nói phải mất nhiều tuần cánh nó mới lành lại, và rằng trước thời điểm đó rất lâu con cú sẽ tỉnh lại. Nhận ra mình bị mắc kẹt, bị các động vật ăn thịt vây quanh, nó sẽ đấu tranh đến chết để thoát ra. Bố nói nó là động vật hoang dã, và trong thế giới hoang dã vết thương đó là vết thương chí mạng.
Chúng tôi đặt con cú trên lớp vải sơn lót sàn gần cửa sau và, khi nó tỉnh, chúng tôi bảo mẹ đừng ở trong bếp. Mẹ nói địa ngục sẽ đóng băng trước khi mẹ nhường bếp của mình cho một con cú, sau đó bước vào bếp và bắt đầu đặt xoong chảo loảng xoảng để làm bữa sáng. Con cú đi lạch bạch quanh đó trông thật tội nghiệp, móng vuốt của nó cào cào lên cánh cửa, đập mạnh đầu vào đó trong cơn hoảng loạn. Chúng tôi kêu lên và mẹ rút lui. Hai giờ sau bố ngăn một nửa phòng bếp lại bằng những tấm gỗ dán. Con cú hồi phục sau vài tuần. Chúng tôi đánh bẫy chuột để nuôi nó, nhưng đôi khi nó không ăn, và chúng tôi không thể dọn những xác chuột chết đi. Mùi chuột chết thật khủng khiếp, không thể chịu nổi.
Con cú càng ngày càng manh động. Khi nó bắt đầu không chịu ăn, chúng tôi mở cửa sau để nó thoát ra ngoài. Nó chưa lành hẳn vết thương, nhưng bố nói cơ hội của nó ở trên núi tốt hơn ở chỗ chúng tôi. Nó không thuộc về nơi này. Nó không được dạy để thuộc về nơi này.
Tôi muốn nói với ai đó rằng tôi đã thi trượt, nhưng một điều gì đó đã ngăn cản tôi gọi điện cho Tyler. Có thể là cảm giác xấu hổ. Hoặc có thể là vì Tyler đang chuẩn bị làm cha. Anh đã gặp vợ anh, Stefanie, tại trường Purdue, và họ nhanh chóng kết hôn. Chị không biết tí gì về gia đình chúng tôi. Đối với tôi, có vẻ như anh thích cuộc sống mới – gia đình mới của anh – hơn cuộc sống cũ.
Tôi gọi điện về nhà. Bố trả lời điện thoại. Mẹ tôi đang đi đỡ đẻ, việc mà mẹ làm càng ngày càng thường xuyên hơn khi những cơn đau nửa đầu của mẹ đã ngưng.
“Khi nào mẹ về ạ?” Tôi hỏi.
“Không biết,” bố nói. “Hỏi Chúa ấy, bởi vì Chúa là người quyết định.” Bố cười khùng khục, sau đó hỏi, “Học hành thế nào?”
Kể từ khi bố quát tháo tôi về dây cáp cắm đầu video, bố con tôi không nói chuyện với nhau. Có thể nói rằng bố đang cố giúp đỡ, nhưng tôi không nghĩ mình có thể thú nhận với bố rằng tôi thất bại. Tôi muốn nói với bố rằng chuyện học hành ổn cả. Tôi tưởng tượng ra mình đang nói, dễ ấy mà.
“Không tuyệt lắm ạ,” thay vào đó tôi nói. “Con không biết lại khó đến thế.”
Đường dây im lặng, và tôi hình dung ra khuôn mặt nghiêm nghị của bố rắn đanh lại. Tôi đợi bố công kích tôi, nhưng rồi một giọng điềm tĩnh cất lên, “Sẽ ổn thôi, con yêu ạ.”
“Không đâu ạ,” tôi nói. “Sẽ không có học bổng đâu. Con thậm chí sẽ không qua môn được.” Giọng tôi run run.
“Nếu không có học bổng, không có học bổng,” bố nói. “Thì có lẽ bố sẽ giúp chuyện tiền nong. Bố mẹ sẽ tính. Cứ vui vẻ nhé, được chứ?”
“Vâng,” tôi đáp.
“Cứ về nhà nếu con cần.”
Tôi gác máy, không tin những gì mình vừa mới nghe. Tôi biết thái độ ngọt ngào này sẽ không kéo dài, rằng lần tới khi bố con tôi nói với nhau, mọi chuyện sẽ khác, sự dịu dàng của phút này sẽ bị lãng quên, cuộc xung đột bất tận giữa chúng tôi sẽ lại chiếm thế thượng phong. Nhưng tối nay bố muốn giúp đỡ. Và đó là điều đặc biệt.
Tháng Ba tôi có một bài kiểm tra khác, vẫn là môn Văn minh phương Tây. Lần này tôi làm những tấm thẻ học nhanh. Tôi dành nhiều giờ ghi nhớ các từ có phiên âm lạ, nhiều từ trong số đó là tiếng Pháp (bây giờ thì tôi đã hiểu nước Pháp là một phần của châu Âu). Jacques-Louis David và Erancois Boucher: Tôi không thể đọc những cái tên đó nhưng tôi có thể đánh vần chúng.
Vở ghi của tôi rặt những thứ vô nghĩa, vậy nên tôi hỏi Vanessa liệu tôi có thể ngó qua vở của cô không. Cô nhìn tôi vẻ hoài nghi, và trong chốc lát tôi tự hỏi liệu có phải cô đã để ý thấy tôi nhìn trộm và chép bài cô trong lần kiểm tra trước hay không. Cô nói sẽ không đưa cho tôi vở ghi của cô, nhưng nói rằng chúng tôi có thể học cùng nhau, vậy nên sau buổi học tôi theo Vanessa tới phòng ký túc xá của cô. Chúng tôi ngồi trên sàn, khoanh chân vòng tròn với những cuốn vở ghi để mở trước mặt.
Tôi cố đọc các ghi chép của mình nhưng chúng đều lửng lơ, lộn xôn. “Đừng lo,” Vanessa nói. Những gì cậu ghi không quan trọng bằng giáo trình đâu.”
“Giáo trình gì cơ?” Tôi hỏi.
“Giáo trình ấy,” Vanessa nói. Cô cười phá lên như thể tôi đang đùa cô. Tôi căng thẳng bởi vì quả thực tôi không đùa.
“Mình không có giáo trình,” tôi nói.
“Chắc chắn cậu có!” Cô cầm cuốn sách tranh dày cộp mà tôi đã dùng để học thuộc lòng tên tác phẩm và tên họa sĩ lên.
“Ô, cuốn đó á,” tôi nói. “Tớ toàn xem nó mà.”
“Cậu xem á? Cậu không đọc nó sao?”
Tỏi tròn mắt nhìn cô. Tôi không hiểu. Chúng tôi đang học vệ âm nhạc và nghệ thuật kia mà. Chúng tôi được phát cho những đĩa CD nhạc để nghe, và một cuốn sách tranh để xem. Tôi không hề nghĩ đến việc đọc một cuốn sách mỹ thuật cũng như nghe các đĩa CD.
“Tớ cứ nghĩ chúng ta chỉ phải xem tranh thôi.” Khi tôi thốt ra câu đó, lời tôi nói nghe thật ngớ ngẩn.
“Vậy khi giáo trình chia từ trang năm mươi đến trang tám mươi lăm, cậu không nghĩ cậu phải đọc gì sao?”
“Tớ có xem tranh mà,” tôi lại nói. Lần thứ hai câu đó nghe càng tệ hơn.
Vanessa bắt đầu lật cuốn sách mà bỗng nhiên nó trông rất giống một cuốn giáo trình.
“Vậy thì đó là vấn đề của cậu đấy,” cô nói. “Cậu phải đọc giáo trình đi chứ.” Khi cô nói điều đó, giọng cô du dương đầy vẻ châm chọc, như thể sự ngớ ngẩn này, sau tất cả mọi sự việc khác – sau trò đùa về “Diệt chủng” và trò liếc trộm bài kiểm tra của cô – là quá quắt lắm và cô chịu đựng tôi bấy nhiêu là quá đủ. Cô nói đã đến lúc tôi phải đi; cô phải học môn khác. Tôi cầm vở của mình lên và rời khỏi đó.
“Hãy đọc giáo trình” hóa ra là một lời khuyên tuyệt vời. Trong lần kiểm tra tiếp theo tôi đạt điểm B, và đến cuối kỳ tôi giành được điểm A. Đó là một phép màu và tôi giải thích kết quả đó như vậy. Hằng đêm tôi học cho tới hai, ba giờ sáng, tin rằng đó là cái giá mà tôi phải trả để được Chúa ủng hộ. Tôi học tốt môn Lịch sử, tốt hơn đối với môn tiếng Anh, và trong tất cả các môn, tôi học môn Lý thuyết âm nhạc tốt nhất. Chắc tôi không thể giành học bổng toàn phần, nhưng tôi có thể giành được học bổng bán phần.
Trong bài giảng cuối cùng của môn Văn minh phương Tây, giáo sư của chúng tôi thông báo rằng có rất nhiều sinh viên trượt kỳ kiểm tra đầu tiên, vì thế ông quyết định không tính bài kiểm tra đó. Như có phép thần. Điểm trượt của tôi biến mất. Tôi muốn nhảy lên đấm không khí, muốn đập tay ăn mừng với Vanessa. Thế rồi tôi nhớ ra rằng cô không còn ngồi cạnh tôi nữa.