Chương 20 Chuyện Kể Của Những Người Cha [1]
Charles là người bạn đầu tiên của tôi đến từ cái thế giới khác ấy, thế giới mà bố tôi đã cố ngăn sức ảnh hưởng đối với tôi. Xét về mọi mặt anh đều theo lẽ thường mà bố tôi thì coi khinh lẽ thường vì mọi lý do: anh nói về bóng đá và các ban nhạc nổi tiếng nhiều hơn là về Ngày Tận Thế; anh yêu tất thảy mọi điều trong đời sống ở trường trung học; anh đi nhà thờ, nhưng giống như hầu hết những người Mặc Môn, nếu ốm, có lẽ anh gọi bác sĩ là mục sư của giáo hội Mặc Môn.
Tôi không thể dung hòa thế giới của anh với thế giới của mình vậy nên tôi tách chúng ra. Tối nào tôi cũng đứng bên cửa sổ trông ngóng chiếc xe jeep màu đỏ của anh, và khi nó xuất hiện trên đường cao tốc, tôi chạy vội ra cửa. Anh chưa cho xe chạy lên đồi tôi đã đợi sẵn ngoài bãi cỏ, và trước khi anh kịp bước ra khỏi xe, tôi đã yên vị trên xe anh, tranh luận với anh về dây an toàn của tôi. (Anh không chịu lái xe nếu tôi không thắt dây an toàn).
Một lần, anh đến sớm và bước về phía cửa trước nhà tôi. Tôi lúng búng, căng thẳng giới thiệu anh với mẹ tôi, người đang pha tinh dầu bergamot [2] với tinh dầu hoàng lan, búng ngón tay tanh tách để thử liều lượng. Mẹ cất tiếng chào nhưng mấy ngón tay mẹ vẫn búng tanh tách. “Hôm qua mẹ thử xem nếu mẹ không tắm bằng dầu oải hương thì hôm nay có lên cơn đau nửa đầu không,” mẹ nói. “Mẹ đã tắm, và đoán xem? Không đau đầu nhé!”
“Lũ bác sĩ không thể điều trị chứng đau nửa đầu trước khi nó phát tác,” bố xen vào, “nhưng Chúa có thể!”
Khi chúng tôi đi ra xe của anh, Charles nói, “Nhà em luôn có mùi như vậy sao?”
“Như gì cơ”
“Như mùi cây thối.”
Tôi nhún vai.
“Chắc hẳn em phải ngửi thấy mùi đó,” anh nói. “Mùi đó nặng đấy. Anh đã từng ngửi thấy nó rồi. Từ người em. Em luôn có mùi đó. Ôi, có lẽ bây giờ người anh cũng có mùi đó rồi.” Anh ngửi áo sơ mi của mình. Tôi lặng thinh. Tôi chẳng ngửi thấy mùi gì cả.
Bố nói tôi đang trở nên “tự cao tự đại.” Bố không thích tôi vừa làm xong việc là chạy bổ về nhà, cũng chẳng thích tôi tẩy mọi vết dầu mỡ trước khi đi chơi với Charles. Bố biết tôi thích gói hàng ở cửa hàng tạp hóa Stokes hơn là lái xe bốc dỡ ở Blackfoot, cái thị trấn bụi bặm cách nhà chúng tôi một giờ chạy xe về phía bắc, nơi bố đang xây dựng một trại bò sữa. Bố bực mình khi biết tôi muốn ở một nơi khác, ăn mặc như những người khác.
Tại nơi thi công công trình ở Blackfoot, bố nung nấu những việc kỳ cục cho tôi làm, bố nghĩ làm những việc ấy sẽ nhắc tôi nhớ mình là ai. Một lần, khi chúng tôi đang ở trên không trung cách mặt đất hơn mười mét, bò nhoài trên những thanh xà gồ của mái nhà đang lợp dở, không đội mũ bảo hiểm bởi vì chúng tôi chẳng bao giờ đội cái thứ ấy, thì bố chợt nhận ra đã để cuộn dây bật phấn ở đầu kia của tòa nhà. “Sang bên kia lấy cuộn dây bật phấn lại đây cho bố, Tara,” bố nói. Tôi phác đường đi nước bước trong đầu. Tôi sẽ cần phải nhảy từ thanh xà gồ này sang thanh xà gồ khác, khoảng mười lăm thanh cả thảy, mỗi thanh cách nhau gần một mét rưỡi, để lấy dây bật phấn, sau đó lại phải nhảy qua từng ấy thanh đòn tay để quay về. Những mệnh lệnh như thế của bố thường vấp phải câu nói này của Shawn, “Nó sẽ không làm việc đó đâu.”
“Shawn, anh sẽ đưa em sang đó bằng xe nâng, được chứ?”
“Mày có thể đi lấy nó mà,” Shawn nói. “Trừ khi cái trường yêu thích và thằng bạn trai yêu thích của mày đã khiến mày trở nên quá tuyệt nên đếch thèm làm việc đó.” Vẻ mặt anh rắn đanh trông vừa mới mẻ lại vừa quen thuộc.
Tôi lay lay thanh xà gồ có thể đưa tôi tới thanh xà khung ở rìa công trình. Xét theo một khía cạnh nào đó, việc này nguy hiểm hơn – nếu tôi ngã về phía bên phải thì sẽ không có thanh xà gồ nào đỡ tôi hết – nhưng nếu thanh xà khung dày hơn thì tôi có thể bước trên đó như đi trên dây.
Bố và Shawn đã trở thành đồng chí của nhau như thế đó, dù họ chỉ đồng ý với nhau ở một điểm: rằng cuộc chạm trán chớp nhoáng của tôi với nền giáo dục đã khiến tôi trở nên tự cao tự đại, và rằng điều tôi cần là được kéo ngược trở lại là tôi trước kia. Được cố định, được neo chặt lại với phiên bản cũ ấy.
Shawn có khiếu về ngôn ngữ, có khiếu dùng ngôn ngữ để định nghĩa người khác. Anh bắt đầu lục lọi vốn tên nhại mà anh có trong đầu. Đĩ là cái tên ưa thích của anh trong vài tuần. “Đĩ, lấy cho tao cái bánh mài,” anh quát, hoặc “Nâng cần cẩu lên, Đĩ!” Rồi anh nhìn mặt tôi để xem tôi có phản ứng không. Anh chưa bao giờ tìm thấy, Tiếp theo anh thử dùng từ Wilbur [3]. Bởi vì tôi ăn rất nhiều nên anh nói. “Đồ lợn kia,” anh gào lên kèm với tiếng huýt sáo khi tôi cúi xuống để bắt một cái vít hoặc để đo đạc.
Shawn cứ nấn ná ở bên ngoài sau khi cả đội đã làm xong việc trong ngày. Tôi ngờ rằng anh muốn ở gần lối cho xe chạy vào khi Charles lái xe tới. Dường như anh thay dầu mãi không xong cho xe tải của anh. Tối đầu tiên chúng tôi ở đó, tôi chạy ra ngoài và nhảy lên xe jeep của Charles trước khi anh kịp nói một lời. Tối tiếp theo anh nhanh hơn. “Chẳng phải Tara đẹp sao?” Anh gào lên với Charles. “Mắt như mắt cá và nó cũng thông minh gần bằng một con cá đấy.” Đó là lời chế nhạo cũ rích, đã mòn vì bị dùng quá nhiều. Chắc hẳn anh biết tôi sẽ không phản ứng ở công trường vậy nên anh để dành, hy vọng rằng trước mặt Charles những lời đó sẽ có nọc độc.
Tối hôm sau: “Cậu sẽ đi ăn tối à? Đừng có chen vào giữa Wilbur và thức ăn của nó nhé. Cậu sẽ bẹp dí như một tấm ván lót vỉa hè cho mà xem.”
Charles chẳng bao giờ phản ứng. Chúng tôi thỏa thuận ngầm rằng những buổi tối của chúng tôi chỉ bắt đầu khi ngọn núi biến mất trong gương chiếu hậu của xe anh. Trong vũ trụ mà chúng tôi cùng nhau khám phá có những trạm xăng và các nhà hát; có những chiếc ô tô rải rác trên đường cao tốc như những món nữ trang rẻ tiền, những đám người cười hoặc bấm còi, luôn vẫy tay, bởi vì đây là một thị trấn nhỏ và mọi người đều biết Charles; có những con đường bụi trắng như phấn, những con kênh màu thịt bò hầm, và những cánh đồng lúa mì mênh mông bát ngát ánh lên màu vàng đồng. Nhưng không có núi Buck.
Ban ngày, đỉnh núi Buck là tất cả những gì tồn tại ở đó – nó và công trường xây dựng ở Blackfoot. Shawn và tôi dùng khoảng thời gian dễ chịu hơn của một tuần làm những xà gồ để hoàn thành cái mái cho trại bò sữa. Chúng tôi sử dụng một cái máy cỡ bằng một ngôi nhà di động để uốn chúng thành hình chữ Z, sau đó gắn bàn chải điện vào máy mài đánh hết gỉ sắt để có thể sơn chúng. Khi sơn khô chúng tôi chất đống những thanh xà gồ đó cạnh xưởng, nhưng trong vòng một ngày hoặc hai, gió từ trên đỉnh núi đã phủ lên chúng một lớp bụi đen, và lớp bụi đen ấy sẽ biến thành nhọ nồi khi nó kết hợp với dầu trên sắt. Shawn nói phải rửa trước khi chất chúng lên xe, vậy nên tôi đi lấy một mảnh giẻ lau và một xô nước.
Đó là một ngày nóng nực, và tôi quệt những giọt mồ hôi trên trán mình. Dây buộc tóc của tôi bị đứt. Tôi không có dây dự trữ. Gió quét từ trên núi xuống, thổi những lọn tóc vào mắt tôi, và tôi đưa tay lên mặt vén. Tay tôi đầy dầu mỡ đen sì, và mỗi lần vén tóc tôi để lại một vệt đen trên mặt.
Tôi nói to để báo với Shawn khi những thanh xà gồ đã được lau sạch. Anh xuất hiện từ phía sau một chiếc dầm chữ I và nâng cái mặt nạ của thợ hàn lên. Khi anh nhìn thấy tôi, mặt anh nở một nụ cười rộng ngoác. “Con mọi của chúng ta đây!” anh nói.
Trong mùa hè Shawn và tôi làm việc với cái máy xén, có một buổi chiều tôi quệt mồ hôi trên mặt nhiều lần đến nỗi khi chúng tôi tạm dừng để ăn tối, mũi và má tôi đen sì. Đó là lần đầu tiên Shawn gọi tôi là “Mọi.” Từ đó gây ngạc nhiên nhưng không lạ. Tôi đã nghe thấy bố dùng từ đó, vậy nên ở một khía cạnh nào đó tôi biết nó có nghĩa là gì. Nhưng ở một khía cạnh khác, tôi không hiểu nó có nghĩa gì. Duy nhất một lần tôi nhìn thấy một người da đen, một bé gái đa đen, đứa con nuôi của một gia đình ở nhà thờ. Bố tôi dĩ nhiên không ám chỉ đứa bé ấy.
Suốt mùa hè đó Shawn gọi tôi là Mọi. “Mọi, chạy đi lấy mấy cái kẹp chữ C đi!” hoặc “Đến giờ ăn trưa rồi, Mọi!” Cái tên đó chưa bao giờ khiến tôi khựng lại dù chỉ một giây.
Thế rồi thế giới đảo lộn: Tôi đã vào trường đại học, nơi tôi lang thang tới một giảng đường và nghe các bài giảng về lịch sử nước Mỹ, mắt mở to, não ong ong. Người giảng môn đó là tiến sĩ Richard Kimball, và ông có giọng nói vang sâu. Thế là tôi biết về chế độ chiếm hữu nô lệ; tôi đã nghe bố tôi nói, và tôi đã đọc về chế độ chiếm hữu nô lệ trong cuốn sách yêu thích của bố lý giải nước Mỹ đã ra đời thế nào. Tôi đã đọc thấy rằng các nô lệ trong thời kỳ thuộc địa hạnh phúc và tự do hơn chủ của họ, bởi vì các chủ nô phải chịu gánh nặng chi phí nuôi họ ăn ở. Đối với tôi, điều đó nghe có lý. Hôm tiến sĩ Kimball giảng về chế độ nô lệ, ông lấp đầy màn hình bằng một bức phác họa chợ nô lệ. Màn hình rộng; nó thống trị căn phòng như màn hình trong rạp chiếu phim. Bức phác họa rối rắm. Những người phụ nữ đứng trần truồng, hoặc nửa trần truồng, bị xích, trong khi đàn ông vây quanh họ. Máy chiếu kêu lách tách. Tiếp theo là một bức ảnh đen trắng nhòe mờ vì thời gian. Đã phai màu vì bị để quá lâu, bức ảnh chỉ có tính chất hình tượng. Trong ảnh một người đàn ông ngồi, bị lột áo, để lộ ra trước ống kính máy ảnh tấm bản đồ những vết sẹo chằng chịt, sẩn sùi. Thịt da của ông ta trông chẳng còn giống thịt da nữa, sau những gì người ta đã làm với nó.
Những tuần sau đó tôi nhìn thấy thêm nhiều hình ảnh nữa. Nhiều năm trước khi đóng vai Annie, tôi đã nghe nói về cuộc Đại Khủng Hoảng, nhưng những hình ảnh hiện lên qua máy chiếu – những người đàn ông đội mũ, mặc áo khoác dài xếp hàng trước những bếp nấu súp quả là mới mẻ đối với tôi. Khi tiến sĩ Kimball giảng về Thế Chiến thứ hai, màn hình hiện lên những dãy máy bay chiến đấu nằm rải rác giữa tàn tích của những thành phố bị ném bom. Có những khuôn mặt liên quan – FDR, Hitler, Stalin. Rồi Thế Chiến thứ hai nhòa đi trong ánh đèn của máy chiếu.
Lần tiếp theo tôi bước vào giảng đường có những khuôn mặt mới trên màn hình và họ là người da đen. Trước đó không có một khuôn mặt đa đen nào trên màn hình ấy – ít nhất tôi nhớ là không có – kể từ sau các bài giảng về chế độ nô lệ. Tôi đã quên bẵng họ, những người Mỹ khác, xa lạ đối với tôi. Tôi đã không cố tưởng tượng xem chế độ chiếm hữu nô lệ kết thúc ra sao: chắc chắn tất cả đều đã nghe thấy tiếng gọi của công lý, và vấn đề đã được giải quyết.
Đó là trạng thái tinh thần của tôi khi tiến sĩ Kimball bắt đầu giảng về phong trào dân quyền. Một mốc thời gian hiện lên trên màn hình: 1963. Tôi nghĩ đó là nhầm lẫn. Tôi nhớ Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ ra đời năm 1863. Tôi không thể giải thích cho một trăm năm đó, vậy nên tôi cho rằng đó là lỗi in ấn. Tôi chép mốc thời gian đó vào vở ghi cùng với một dấu hỏi, nhưng khi nhiều bức ảnh nữa hiện ra trên màn hình, điều mà giáo sư của chúng tôi muốn nói trở nên rõ ràng. Những bức ảnh đó là ảnh đen trắng nhưng đối tượng của chúng hiện đại – sống động, sắc nét. Đó không phải là những hình ảnh tĩnh khô khan của kỉ nguyên khác; chúng dường như chuyển động. Các cuộc tuần hành. Cảnh sát. Lính cứu hỏa phun nước vào những người đàn ông trẻ.
Tiến sĩ Kimball đọc những cái tên mà tôi chưa từng nghe. Đầu tiên là Rosa Parks. Hình ảnh một cảnh sát ấn ngón tay một người phụ nữ vào hộp mực xốp. Tiến sĩ Kimball nói người phụ nữ đó đã chiếm một ghế trên xe buýt. Tôi hiểu ý ông là cô đã “lấy cắp” một cái ghế trên xe buýt, mặc dù trộm cắp thứ đó mới kỳ cục làm sao. Hình ảnh đó được thay thế bằng hình ảnh thứ hai – một cậu bé da đen mặc áo sơ mi trắng, đeo cà vạt, đội mũ có vành tròn, Tôi không nghe câu chuyện của cậu. Tôi vẫn đang băn khoăn về chuyện của Rosa Parks, tự hỏi làm thế nào người ta lại có thể lấy trộm một cái ghế xe buýt. Sau đó, trên màn hình là một thi hài và tôi nghe thấy tiến sĩ Kimball nói, “Họ kéo xác cậu ta từ dưới sông lên.”
Có một mốc thời gian bên dưới bức ảnh đó: 1955. Tôi chợt nhận ra rằng năm 1955 mẹ tôi mới lên bốn, và khi hiểu ra điều đó khoảng cách giữa tôi và Emmett Till rút ngắn lại. Cảm giác gần gũi giữa tôi và cậu bé bị giết hại này có thể được đo bằng cuộc đời của những người tôi biết. Tôi không tính khoảng cách đó qua những thay đổi lớn về lịch sử và địa chất – khi các nền văn minh sụp đổ, khi những dãy núi xói mòn. Khoảng cách đó được đo bằng nếp nhăn trên da thịt con người. Bằng những nếp nhăn trên khuôn mặt của mẹ tôi.
Cái tên tiếp theo là Martin Luther King Jr. Trước đó tôi chưa từng nhìn thấy khuôn mặt của ông, hoặc nghe tên ông, và mất vài phút tôi mới hiểu rằng người mà tiến sĩ Kimball muốn nói đến không phải là Martin Luther mà tôi biết. Phải mất thêm vài phút nữa để tôi liên hệ cái tên đó với hình ảnh trên màn hình – một người da đen đứng trước một đền thờ bằng đá cẩm thạch trắng, vây quanh ông là một biển người. Tôi chỉ vừa mới hiểu ra ông là ai và tại sao ông lại đang phát biểu thì tôi được biết thêm rằng ông đã bị giết hại. Tôi vẫn đủ dốt nát để ngạc nhiên.
“Con mọi của chúng ta đã về!”
Tôi không biết Shawn đã nhìn thấy gì trên mặt tôi – cảm giác sốc, tức giận, hay nỗi trống rỗng. Dù nó là gì, anh cũng thích thú.
Anh thấy nó dễ tổn thương, một điểm yếu. Đã quá muộn để giả vờ dửng dưng.
“Đừng gọi em bằng cái tên đó,” tôi nói. “Anh không biết nó có nghĩa là gì đâu.”
“Tao biết chứ,” anh nói. “Mặt mày đen nhẻm, như mọi!”
Trong suốt thời gian còn lại của buổi chiều hôm đó – trong suốt mùa hè ấy – tôi là Mọi. Trước đó, hàng nghìn lần tôi đã trả lời bằng thái độ dửng dưng. Nếu có phản ứng thì tôi đã tỏ ra thích thú và nghĩ rằng Shawn thật vui tính. Bây giờ trò cợt nhả đó khiến tôi muốn khóa miệng anh. Hoặc bắt anh ngồi xuống với một cuốn sách lịch sử, miễn sao đó không phải là cuốn mà bố tôi vẫn để trong phòng khách bên dưới bản sao Hiến pháp được đóng khung.
Tôi không thể diễn tả nổi cách gọi đó khiến tôi cảm thấy như thế nào. Shawn gọi tôi như vậy là muốn nhục mạ tôi, muốn nhốt tôi lại trước khi quá muộn, vào khái niệm cũ về bản thân tôi. Nhưng thay vì nhốt tôi ở một chỗ, cái từ đó lại chở tôi đi. Mỗi lần anh nói từ đó – “Này Mọi, nâng cần cẩu lên.” hoặc “Lấy cho tao cái xà beng, Mọi.” – tôi lại trở lại trường đại học, tới giảng đường đó, nơi tôi thấy lịch sử loài người trải ra và ngạc nhiên về chỗ của mình trong đó. Những câu chuyện về Emmett Till, Rosa Parks và Martin Luther King được gọi về trong tâm trí tôi mỗi lần Shawn quát lên, “Mọi, chuyển sang hàng tiếp theo đi.” Tôi nhìn thấy gương mặt họ được đặt ở trên mỗi thanh xà gồ mà Shawn đã hàn vào vị trí cố định trong mùa hè đó, để khi kết thúc chuyện ấy, cuối cùng tôi cũng bắt đầu nắm bắt được điều gì đó mà đáng lẽ phải rõ rành rành ngay lập tức: rằng kẻ nào đó đã chống lại cuộc tiến bước vĩ đại về phía công bằng; người ta phải giành giật tự do từ kẻ đó. Tôi không nghĩ anh trai mình là kẻ đó; tôi không tin có khi nào mình lại nghĩ về anh như thế. Nhưng dẫu sao có điều gì đó đã thay đổi. Tôi đã bắt đầu đi trên con đường của nhận thức, đã hiểu được điều gì đó căn bản về anh trai mình, về bố mình, và bản thân mình, Tôi đã nhận thức được rằng chúng tôi bị tiêm nhiễm qua truyền miệng – người khác nói thì chúng tôi cũng nói, chúng tôi vô tình hoặc tảng lờ đi nó là gì. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng chúng tôi đã cho một bài diễn văn có mục đích duy nhất là làm mất tính người và đối xử thô bạo với kẻ khác vay mượn tiếng nói của mình – bởi vì dung dưỡng bài diễn văn đó dễ hơn, bởi vì việc duy trì quyền lực luôn tạo cảm giác như con đường phía trước.
Tôi không thể nói rõ cảm giác này, không thể khi tôi đổ mồ hôi suốt những buổi trưa khô nẻ trên xe nâng. Hồi đó tôi chưa có ngôn từ như bây giờ. Nhưng tôi hiểu điều này: rằng một nghìn lần tôi bị gọi là Mọi, tôi đã cười, và bây giờ tôi không thể cười nổi. Từ đó và cái cách Shawn nói từ đó không thay đổi: chỉ có tai tôi đã khác trước. Không còn tiếng leng keng đùa cợt trong đó nữa. Những gì mà đôi tai tôi nghe thấy là một dấu hiệu, một tiếng gọi qua thời gian, được đáp lại bằng nhận thức về tội lỗi chất chồng: rằng tôi sẽ không bao giờ cho phép mình bị biến thành lính bộ binh trong một cuộc xung đột mà tôi không hiểu.
Chú thích:
[1] Trong cuốn Từ điển Triết học (Voltaire’s Philosophical Dictionary) có nhắc đến cụm từ này, với đại ý “Những nền tảng đầu tiên của lịch sử là những câu chuyện của cha kể cho con, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác”.
[2] Là một loại quả có kích cỡ như quả cam, màu vàng, có vị đắng và hơi cay hòa quyện.
[3] Wilbur là tên một chú lợn trong tiểu thuyết nổi tiếng Charlotfe và Wilbur của nhà văn Mỹ E. B. White.