← Quay lại trang sách

Chương 21 Cỏ Long Ba

Hôm trước ngày tôi trở lại BYU, bố trả công lao động cho tôi. Bố không đủ tiền để đưa cho tôi khoản mà bố đã hứa, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để trả nửa tiền học phí mà tôi nợ. Tôi dùng ngày cuối cùng ở Idaho với Charles. Đó là một ngày Chủ nhật, nhưng tôi không đi nhà thờ. Tôi bị đau tai đã hai ngày, và tối hôm đó tôi chuyển từ bị đau nhôn nhốt vừa phải sang đau như bị đâm chọc dữ đội, liên miên. Tôi bị sốt. Tôi nhìn gì cũng thấy méo mó, rất nhạy với ánh sáng. Tôi đang ở trong tình trạng đó thì Charles gọi điện tới. Tôi có muốn đến nhà anh không ư? Tôi nói tôi nhìn lờ mờ lắm nên chẳng lái xe được. Mười lăm phút sau anh đến đón tôi.

Tôi khum khum bàn tay bưng cái tai đau và lừ đừ ngồi vào ghế khách, sau đó cởi áo khoác trùm lên đầu để che ánh sáng. Charles hỏi tôi đã uống thuốc gì rồi.

“Hoa cúc lobelia,” tôi nói. “Và cỏ long ba.”

“Anh không nghĩ chúng có tác dụng,” anh nói.

“Chúng sẽ có tác dụng. Phải mất vài ngày chúng mới có tác dụng.”

Anh nhướn mày, nhưng không nói gì.

Nhà của Charles ngăn nắp, thoáng rộng với những ô cửa sổ lớn, sáng sủa và sàn nhà bóng loáng. Nó khiến tôi nhớ tới nhà bà-trong-thị-trấn. Tôi ngồi trên ghế đẩu, đầu tôi áp xuống mặt bàn quầy mát lạnh. Tôi nghe thấy tiếng cánh tủ mở đánh cạch và tiếng mở nắp lọ đánh bốp. Khi tôi mở mắt ra, hai viên thuốc màu đỏ được đặt trên mặt bàn trước mặt tôi.

“Đây là thuốc mọi người thường dùng để giảm đau,” Charles nói.

“Không phải chúng em.”

“Chúng em là ai?” Charles nói. “Mai em đi rồi. Em không còn là một người trong số họ nữa.”

Tôi nhắm mắt lại, hy vọng anh sẽ không tiếp tục chủ đề đó.

“Em nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra nếu em uống những viên thuốc này chứ?” Anh nói.

Tôi không trả lời. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mẹ tôi luôn nói rằng thuốc tây là một loại thuốc độc đặc biệt không bao giờ ra khỏi cơ thể bạn mà làm cho bạn thối rữa dần ở bên trong, suốt cuộc đời. Mẹ bảo nếu tôi uống thuốc bây giờ thì dù mười năm nữa tôi mới sinh con, những đứa con của tôi cũng bị dị dạng.

“Người ta vẫn uống thuốc khi đau ốm đấy thôi,” anh nói. “Đó là điều bình thường mà.”

Tôi chắc hẳn đã nhăn mặt trước từ “bình thường,” bởi vì sau đó anh trở nên im lặng. Anh rót một ly nước và đặt nó trước mặt tôi, sau đó nhẹ nhàng đẩy những viên thuốc về phía trước cho tới khi chúng chạm đến cánh tay tôi. Tôi cầm một viên lên. Tôi chưa bao giờ nhìn một viên thuốc ở khoảng cách gần đến thế. Nó nhỏ hơn tôi nghĩ.

Tôi nuốt viên thuốc đó, rồi nuốt viên còn lại.

Từ lâu lắm rồi, bất cứ khi nào tôi đau ốm, dù bị đứt chân tay hay bị đau răng, mẹ đều làm rượu ngâm cây cúc lobelia và cỏ long ba cho tôi dùng. Thứ đó chưa bao giờ làm giảm chứng đau, không một chút nào. Vì thế, tôi đâm ra kính nể cơn đau đớn, thậm chí tôn sùng nó, coi đó là cần thiết và bất khả xâm phạm.

Hai mươi phút sau khi tôi nuốt những viên thuốc màu đỏ ấy, cảm giác đau tai biến mất. Tôi không thể hiểu nổi. Cả buổi chiều hôm đó tôi lắc đầu từ trái sang phải, cố xóc cho cái đau long ra. Tôi nghĩ nếu tôi có thể hét lên đủ to, hoặc chuyển động nhanh, thì có lẽ chứng đau tai sẽ quay lại và tôi sẽ biết những viên thuốc tây ấy chỉ là lừa dối.

Charles lặng lẽ quan sát nhưng chắc hẳn anh nhận thấy hành vi của tôi thật tức cười, nhất là khi tôi bắt đầu cầm cái tai vẫn biết đau của mình mà giật, để tôi có thể thử giới hạn của “trò phù thủy” kỳ lạ này.

Đáng lẽ sáng hôm sau mẹ lái xe đưa tôi đến BYU, nhưng trong đêm đó mẹ được gọi đi đỡ đẻ. Có một chiếc xe đậu ở lối vào nhà – một chiếc KIA Sephia mà bố tôi đã mua của Tony mấy tuần trước. Xe khởi động bằng chìa khóa. Tôi chất hành lý của mình lên xe và lái đến Utah, tính rằng chiếc xe đó bù vào số tiền mà bố nợ tôi. Tôi đoán bố cũng tính thế, bởi vì bố chẳng bao giờ nói một lời về chuyện đó.

Tôi chuyển tới một căn hộ cách trường đại học nửa dặm. Tôi có bạn chung nhà mới. Robin cao ráo, trông như vận động viên điền kinh, và trong lần đầu tiên tôi nhìn thấy chị, chị mặc quần soóc để chạy bộ, chiếc quần quá ngắn, nhưng tôi không thể há hốc miệng ra với chị. Khi tôi gặp Jenni, cô đang uống Coca Cola. Tôi cũng không nhìn trừng trừng thứ đó, bởi vì tôi đã thấy Charles uống nó hàng chục lần.

Robin là người nhiều tuổi nhất, và vì lý do nào đó chị thông cảm với tôi. Bằng cách nào đó chị hiểu rằng những lỗi sơ sảy của tôi là do dốt nát, không cố ý, và chị góp ý cho tôi một cách nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn. Chị bảo cho tôi biết chính xác những gì tôi cần làm, hoặc không, để hòa hợp với các cô gái khác trong căn hộ. Không để thức ăn ôi thiu trong tủ đựng bát đĩa hoặc để bát đĩa bẩn trong bồn rửa quá lâu.

Robin giải thích điều này trong cuộc gặp mặt giữa những người sống chung nhà. Khi chị nói xong, một người bạn cùng nhà khác, Megan, hắng giọng.

“Tớ muốn nhắc nhở tất cả mọi người rửa tay sau khi đi vệ sinh,” cô nói. “Và không chỉ rửa bằng nước, mà bằng xà phòng thơm.”

Robin đảo mắt. “Chắc chắn là mọi người ở đây đều rửa tay.”

Tối hôm đó, khi ra khỏi phòng vệ sinh, tôi dừng lại trước bồn rửa trong hành lang và rửa tay. Rửa bằng xà phòng thơm.

Ngày hôm sau là ngày học đầu tiên ở trường. Charles đã sắp xếp lịch học cho tôi. Anh đăng ký cho tôi học hai lớp về âm nhạc và một lớp về tôn giáo, tất cả, theo anh nói, đều dễ đối với tôi. Sau đó anh đăng ký cho tôi học thêm hai khóa “khó nhằn” nữa – Đại số dành cho sinh viên, khóa học khiến tôi khiếp sợ, và Sinh học, môn tôi không sợ chỉ bởi tôi không biết nó là gì.

Môn Đại số đe dọa đặt dấu chấm hết cho học bổng của tôi. Vị giáo sư giảng môn đó nói nhỏ đến mức không thể nghe rõ mọi bài giảng khi ông đi đi lại lại trước tấm bảng đen. Tôi chẳng phải là người duy nhất không nghe được bài giảng, nhưng là người nghe được ít hơn bất cứ ai khác. Charles cố gắng giúp, nhưng anh đang bắt đầu năm cuối ở trường trung học và cũng có nhiều bài tập phải làm. Vào tháng Mười tôi thi giữa kỳ và trượt.

Tôi ngừng ngủ. Tôi thức khuya, vò đầu bứt tóc, cố moi nghĩa từ cuốn giáo trình, sau đó nằm trên giường nghiền ngẫm những gì cần lưu ý. Tôi bị viêm loét dạ dày. Một lần, Jenni phát hiện thấy tôi gập người trên bãi cỏ nhà một người lạ trên đoạn đường giữa trường đại học và căn hộ của chúng tôi. Dạ dày của tôi như đang bị cháy; tôi đau đến mức run lẩy bẩy, nhưng tôi không để cô đưa đến bệnh viện. Cô ngồi đó với tôi nửa tiếng, sau đó dìu tôi về nhà.

Chứng đau dạ dày của tôi trầm trọng lên, thiêu đốt suốt đêm, khiến tôi không ngủ được. Tôi cần tiền để trả tiền thuê nhà, vậy nên tôi xin làm bảo vệ cho tòa nhà kỹ thuật. Ca của tôi bắt đầu vào bốn giờ sáng. Kẹt giữa những cơn đau dạ dày và việc gác cổng, tôi hầu như không ngủ. Jenni và Robin liên tục giục tôi đi khám bác sĩ nhưng tôi không đi. Tôi nói với họ rằng tôi sẽ về nhà vào Lễ Tạ Ơn và rằng mẹ tôi sẽ chữa cho tôi. Họ lặng nhìn nhau lo lắng.

Charles nói rằng cách xử lý của tôi là tự hại bản thân, rằng tôi bị khuyết mất khả năng đề nghị người khác giúp đỡ, một khiếm khuyết gần như là bệnh lý. Anh nói với tôi điều này trên điện thoại, và anh nói khẽ đến mức nó gần như là một lời thì thầm.

Tôi bảo anh bị điên.

“Vậy thì hãy đi nói chuyện với ông giáo sư Đại số của em đi,” anh nói. “Em sẽ trượt đấy. Hãy đề nghị ông ấy giúp đỡ đi.”

Chỉ nghĩ thôi tôi cũng chẳng bao giờ cho rằng mình sẽ nói chuyện với một vị giáo sư – tôi không hiểu rằng chúng tôi được phép nói chuyện với họ – vậy nên tôi quyết định thử, dù chỉ để chứng minh với Charles rằng tôi có thể làm việc đó.

Vài ngày trước Lễ Tạ Ơn tôi gõ cửa phòng làm việc của ông. Trong văn phòng ông trông bé nhỏ hơn trên giảng đường, và sáng láng hơn: bóng đèn điện phía trên bàn làm việc của ông phản chiếu mái đầu và đôi kính của ông. Ông đang lật giở tập giấy tờ trên bàn, và không nhìn lên khi tôi ngồi xuống. “Nếu em thi trượt môn này,” tôi nói, “thì em sẽ mất học bổng.” Tôi không giải thích rằng không có học bổng thì tôi không thể trở lại trường.

“Tôi rất tiếc,” ông nói, hầu như không nhìn tôi. “Đây là một trường khó. Có lẽ tốt hơn là em nên trở lại đây khi em lớn hơn. Hoặc em chuyển đi.”

Tôi chẳng biết ông nói chuyển là có ý gì, vậy nên tôi im lặng. Tôi đứng dậy dợm bước đi, và vì một lý do nào đó điều này khiến ông mềm lòng. “Thực ra,” ông nói, “nhiều sinh viên bị trượt đấy,” Ông ngồi ngả người vào lưng ghế. “Thế này: kỳ thi cuối sẽ bao hàm kiến thức của cả kỳ. Tôi sẽ thông báo trước lớp rằng bất cứ ai đạt được điểm tối đa trong kỳ thi cuối – không phải chín mươi tám điểm đâu nhé mà là một trăm – thì sẽ được điểm A, dù kết quả thi giữa kỳ của sinh viên đó ra sao. Nghe có vẻ khả quan chứ?”

Tôi đáp vâng. Có vẻ như điều đó thật xa vời, nhưng tôi là chúa của những điều có vẻ xa vời. Tôi gọi điện cho Charles. Tôi nói với anh rằng tôi sẽ về Idaho vào Lễ Tạ Ơn và cần một người dạy kèm môn Đại số. Anh nói sẽ gặp tôi ở núi Buck.