Chương 23 Tớ Ở Idaho
Một tuần sau, vào ngày Chủ nhật, một người đàn ông ở nhà thờ mời tôi đi ăn tối. Tôi nói không. Vài ngày sau chuyện này xảy ra lần thứ hai với một người đàn ông khác. Tôi lại nói không. Tôi không thể đồng ý. Tôi không muốn ai trong hai người đó gần gũi tôi ở bất cứ đâu.
Lời đồn bay đến tai giám mục của chúng tôi rằng, có một phụ nữ trong số giáo dân của ông bài trừ hôn nhân. Phụ tá của ông đến gặp tôi sau buổi lễ ngày Chủ nhật và nói giám mục muốn gặp tôi tại văn phòng của ông.
Cổ tay tôi vẫn đau khi tôi bắt tay giám mục. Ông là một người đàn ông trung tuổi có khuôn mặt tròn, ngăm đen, và mái tóc được rẽ ngôi gọn gàng. Giọng ông mượt như sa tanh. Dường như ông biết tôi thậm chí trước khi tôi mở miệng. (Hẳn là ông đã biết tôi: Robin đã kể với ông về tôi nhiều rồi.) Ông nói tôi nên đăng ký dịch vụ tư vấn của trường đại học để một ngày nào đó tôi có thể tận hưởng một cuộc hôn nhân vĩnh cửu với một người đàn ông chân chính.
Ông nói và tôi ngồi xuống, im thin thít như một viên gạch.[1]
Ông hỏi về gia đình tôi. Tôi không trả lời. Tôi đã phản bội những người trong gia đình bằng cách không thể yêu họ như đáng ra tôi nên thế; điều tối thiểu tôi có thể làm bây giờ là giữ im lặng.
“Hôn nhân là kế hoạch của Chúa,” vị giám mục nói, sau đó ông đứng dậy. Cuộc gặp kết thúc. Ông bảo tôi Chủ nhật sau hãy quay lại. Tôi nói tôi sẽ quay lại, nhưng tôi biết mình sẽ không làm thế.
Tôi cảm thấy người mình nặng như đeo đá khi lê bước về căn hộ. Từ bé tôi luôn được dạy rằng hôn nhân là ý Chúa, rằng từ chối hôn nhân là một tội lỗi. Tôi đã coi thường Chúa. Tuy nhiên, tôi không muốn như vậy. Tôi muốn có con, muốn có gia đình riêng, nhưng dù tôi khát khao điều đó tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ có được nó. Tôi không có khả năng. Tôi không thể gần gũi bất cứ người đàn ông nào mà không khinh bi bản thân.
Tôi luôn phi báng cái từ đĩ. Đối với tôi từ đó nghe đặc sệt âm họng và cổ lỗ sĩ. Nhưng dù tôi thầm nhạo báng Shawn vì dùng từ đó, tôi đã trở nên gắn bó chặt chẽ với nó. Vẻ lỗi thời chỉ làm cho mối gắn bó đó thêm khăng khít, bởi vì điều ấy có nghĩa rằng tôi thường chỉ nghe thấy từ đó liên hệ với bản thân mình.
Một lần, khi tôi mười lăm tuổi, sau khi tôi bắt đầu dùng mascara và son môi, Shawn đã nói với bố rằng anh nghe được những tin đồn về tôi trong thị trấn, rằng tôi có tiếng xấu. Ngay lập tức bố nghĩ tôi có thai. Bố quát tháo mẹ rằng đáng lẽ không bao giờ nên cho phép tôi đi tập kịch trong thị trấn. Mẹ nói tôi đáng tin cậy và đứng đán. Shawn nói chẳng có đứa con gái nào ở tuổi mới lớn đáng tin cậy hết và rằng theo kinh nghiệm của anh, những đứa có vẻ ngoan đạo đôi khi lại là những đứa hư hỏng nhất.
Tôi ngồi trên giường, ôm đầu gối, nghe họ quát tháo, Tôi có thai ư? Tôi không chắc lắm. Tôi soát lại mọi tương tác mà tôi có với một người con trai, mọi cái liếc nhìn, mọi lần đụng chạm. Tôi bước tới chiếc gương soi và cuộn áo lên, rồi miết tay khắp bụng mình, kiểm tra từng phân và nghĩ, Có thể đấy.
Tôi chưa từng hôn một người con trai.
Tôi đã chứng kiến những ca sinh nở, nhưng tôi không được cho biết một chi tiết nào của việc thụ thai. Trong khi bố và anh trai tôi quát tháo, thói dốt nát khiến tôi im lặng: tôi không thể tự biện hộ cho bản thân, bởi vì tôi không hiểu sự buộc tội.
Nhiều ngày sau, khi thực tế khẳng định rằng tôi không có thai, tôi rút ra hiểu biết mới về từ đĩ, một từ ám chỉ về hành động thì ít mà nói về bản chất thì nhiều. Vấn đề không phải là tôi đã làm điều gì đó sai, mà là tôi tồn tại theo cách sai lầm.
Thật lạ là bạn cho phép những người bạn yêu thương có nhiều quyền lực như vậy đối với bạn. Tôi đã viết trong nhật ký như thế. Nhưng Shawn có nhiều quyền lực đối với tôi hơn tôi có thể tưởng tượng. Anh đã định nghĩa bản thân tôi hộ tôi, và không có quyền lực nào lớn hơn thế.
Một tối tháng Hai lạnh giá tôi đứng bên ngoài văn phòng của giám mục. Tôi không biết điều gì đã đưa tôi đến đó.
Vị giám mục ngồi điềm tĩnh tại bàn làm việc của ông. Ông hỏi ông có thể làm gì cho tôi, và tôi nói tôi không biết. Không ai có thể cho tôi điều tôi muốn bởi vì điều tôi muốn là được tái sinh.
“Ta có thể giúp,” ông nói, “nhưng con cần phải nói cho ta biết điều gì đang khiến con phiền lòng.” Giọng ông dịu dàng, và thái độ ân cần đó thật phũ phàng. Tôi ước gì ông quát tháo. Nếu ông quát tháo, điều đó sẽ khiến tôi nổi giận, và khi tôi nổi giận tôi cảm thấy mình có sức mạnh. Tôi không biết, không cảm thấy mạnh mẽ thì liệu tôi có thể làm được điều đó hay không
Tôi hắng giọng, rồi nói trong suốt một tiếng liền, Chủ nhật nào giám mục và tôi cũng gặp nhau cho đến tận mùa xuân. Đối với tôi ông là vị giáo trưởng có uy quyền đối với tôi, nhưng dường như khi tôi bước vào cửa văn phòng ông, ông lập tức từ bỏ uy quyền đó. Tôi nói hoài nói hoài còn ông lắng nghe, lôi nỗi xấu hổ ra khỏi tôi như một thầy thuốc loại bỏ ổ nhiễm trùng khỏi một vết thương.
Khi kỳ học kết thúc, tôi nói với ông rằng tôi sẽ về nhà trong dịp nghỉ hè. Tôi hết tiền; tôi không thể trả tiền thuê nhà. Khi tôi nói điều đó ông trông có vẻ mệt mỏi. Ông nói, “Tara, đừng về nhà. Giáo hội sẽ trả tiền thuê nhà cho con.”
Tôi không muốn nhận tiền của giáo hội. Tôi đã quyết định rồi. Giám mục bắt tôi hứa duy nhất một điều: rằng tôi sẽ không làm việc cho bố tôi.
Ngày đầu tiên ở Idaho, tôi kiếm được việc làm trước kia của mình tại cửa hàng Stokes. Bố cười nhạo, nói rằng tôi sẽ chẳng bao giờ kiếm được đủ tiền để trở lại trường. Bố nói đúng, nhưng giám mục nói rằng Chúa sẽ bày cách cho tôi và tôi tin điều đó. Suốt mùa hè tôi bày hàng hóa lên giá và xách giúp đồ ra xe cho các phụ nữ lớn tuổi.
Tôi tránh gặp Shawn. Việc đó cũng dễ thôi bởi vì anh đã có bạn gái mới, Emily, và đã bàn đến chuyện cưới xin. Shawn hai mươi tám tuổi; Emily đang học năm cuối ở trường trung học. Tính cô nhu mì, dễ bảo. Shawn đem cô ra làm trò chơi y như đã làm với Sadie, thử nghiệm khả năng điều khiển người khác của anh. Cô chưa bao giờ thất bại khi tuân theo các mệnh lệnh của anh tôi, run như cầy sấy khi anh cao giọng, cuống quýt xin lỗi khi bị anh la mắng. Tôi ngờ rằng cuộc hôn nhân của họ sẽ đầy mánh khóe và bạo lực – mặc dù những lời này không phải là của tôi. Đó là lời mà vị giám mục đã truyền cho tôi, và tôi vẫn đang cố moi ý nghĩa từ những từ đó.
Mùa hè kết thúc, tôi quay trở lại BYU với vỏn vẹn hai nghìn đô-la. Trong tối đầu tiên trở lại đó, tôi viết trong nhật ký: Mình có nhiều hóa đơn đến nỗi mình không thể tưởng tượng nổi sẽ thanh toán chúng bằng cách nào. Nhưng Chúa gieo những thử thách để con người trưởng thành lên, hoặc là Người ban cho những phương cách để con người dựa vào đó mà thành công. Giọng điệu của những dòng nhật ký đó dường như kiêu ngạo, kẻ cả, nhưng trong đó tôi phát hiện thấy hơi hướng của thuyết định mệnh. Có thể tôi sẽ phải nghỉ học. Được thôi. Có những cửa hàng bách hóa ở Utah. Tôi sẽ làm người gói hàng, và một ngày nào đó tôi sẽ trở thành nhà quản lý.
Tôi bị sốc vì sự thoái lui này trong hai tuần đầu của kỳ học mới, và rồi một đêm tôi tỉnh giấc vì đau ở đâu đó trong hàm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy nhức buốt và bị kích thích như thế. Tôi muốn xé hàm mình khỏi miệng, chỉ để tống khứ cái đau. Tôi loạng choạng tìm tới một chiếc gương. Một chân răng đã vỡ từ nhiều năm trước, nhưng bây giờ nó lại vỡ tiếp, và vỡ sâu. Tôi đến nha sĩ và ông ấy nói rằng cái răng đó bị sâu nhiều năm rồi. Chi phí chữa cái răng đó là một nghìn bốn trăm đô-la. Tôi chẳng thể trả nổi nửa khoản đó và vẫn tiếp tục học.
Tôi gọi điện về nhà. Mẹ đồng ý cho tôi mượn tiền, nhưng bố đưa ra một điều kiện kèm theo: Mùa hè tới tôi sẽ phải làm việc cho bố. Tôi thậm chí không suy nghĩ. Tôi nói tôi đã xong việc với cái bãi phế liệu đó rồi, kết thúc vĩnh viễn, và gác máy.
Tôi cố quên đau và tập trung vào các môn học, nhưng tôi có cảm giác như tôi đang buộc phải ngồi nghe giảng trong khi một con sói gặm hàm mình.
Tôi chưa bao giờ dùng thêm một viên thuốc giảm đau nào kể từ hôm ở nhà Charles, nhưng khi đau răng tôi bắt đầu nuốt chúng như những viên bạc hà dùng để làm hơi thở thơm tho. Chúng chỉ giúp ích được chút ít. Cái đau ở trong dây thần kinh và nó gây nhức buốt quá. Tôi không thể ngủ được từ khi chứng đau bắt đầu, và tôi bắt đầu bỏ bữa bởi vì tôi nào dám nghĩ đến chuyện nhai. Rồi Robin kể với giám mục.
Ông gọi tôi đến văn phòng vào một buổi chiều nắng ráo. Từ phía bên kia bàn làm việc ông điềm tĩnh nhìn tôi và nói, “Chúng ta sẽ làm gì với những cái răng của con đây?” Tôi cố gắng giữ vẻ mặt thư giãn.
“Con không thể trải qua cả năm học trong tình trạng như thế này,” ông nói. “Nhưng có một giải pháp dễ dàng hơn. Thực ra, rất dễ. Bố của con kiếm được bao nhiêu?”
“Không nhiều đâu ạ,” tôi nói. “Bố con nợ nần từ khi các anh con làm hỏng các thiết bị hồi năm ngoái.”
“Tốt,” ông nói. “Ta có hồ sơ xin trợ cấp ở đây. Ta chắc chắn con đủ điều kiện nhận trợ cấp, và điều tốt nhất là, con sẽ không phải lo trả khoản trợ cấp này.”
Tôi đã nghe nói về các khoản trợ cấp của Chính phủ. Bố tôi nói rằng nhận trợ cấp là đem bản thân mình đi gán nợ cho hội Illuminati. “Đó là cách bọn chúng có được con,” bố nói. “Bọn chúng cho con tiền, sau đó thì điều tiếp theo con biết là, bọn chúng sở hữu con.”
Những lời đó vang vọng trong đầu tôi. Tôi đã nghe các sinh viên khác nói về các khoản trợ cấp của họ, và tôi tránh xa họ. Tôi thà bỏ học còn hơn cho phép mình bị mua chuộc.
“Con không tin vào các khoản trợ cấp của Chính phủ,” tôi nói.
“Tại sao không?”
Tôi kể với ông những gì bố tôi đã nói. Ông thở dài và ngước nhìn lên cao, “Tiền chữa rằng hết bao nhiêu hả con?”
“Một nghìn bốn trăm đô-la ạ,” tôi nói. “Con sẽ kiếm tiền.”
“Giáo hội sẽ trả,” ông nói khẽ. “Ta có một quỹ được tùy ý sử dụng.”
“Tiền đó là bất khả xâm phạm.”
Giám mục giơ hai tay lên không khí. Chúng tôi ngồi im lặng, sau đó ông mở ngăn kéo bàn và lấy ra một tập ngân phiếu. Tôi nhìn vào đó. Đó là tài khoản cá nhân của ông. Ông điền thông tin vào một tấm ngân phiếu, cho tôi, một nghìn năm trăm đô-la.
“Ta sẽ không cho phép con bỏ học vì chuyện này,” ông nói.
Tấm ngân phiếu ở trong tay tôi. Tôi bị cám dỗ, cái đau trong hàm tôi khủng khiếp đến nỗi tôi cầm tấm ngân phiếu trong mười giây rồi mới đưa trả lại giắm mục.
Tôi tìm được việc làm ở hiệu bánh và sản phẩm bơ sữa của khu đại học, chuyên lật bánh kẹp thịt và xúc kem. Tôi tồn tại bằng những đồng tiền công tính theo ngày và phớt lờ những hóa đơn quá hạn thanh toán, mượn tiền của Robin, để mỗi tháng hai lần, khi vài trăm đô-la được chuyển vào tài khoản của tôi, tiền biến mất trong vòng vài giờ. Cuối tháng Chín tôi bước sang tuổi mười chín, không một xu dính túi. Tôi đã từ bỏ việc chữa răng; tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ có nổi một nghìn bốn trăm đô-la. Ngoài ra, cơn đau đã giảm: vì dây thần kinh đã chết hoặc vì não tôi đã thích nghỉ với những cơn sốc đau răng.
Tuy nhiên, tôi vẫn có những hóa đơn khác phải thanh toán, vậy nên tôi quyết định bán thứ duy nhất có chút giá trị mà tôi có – con ngựa của tôi, con Bud. Tôi gọi điện cho Shawn và hỏi anh con ngựa của tôi có thể bán được bao nhiêu tiền. Shawn nói một con ngựa giống lai chẳng có giá lắm đâu, nhưng tôi có thể đem nó đi bán đấu giá như những con ngựa làm thức ăn cho chó của ông nội. Tôi hình dung Bud ở trong một cái máy xay thịt, rồi nói, “Hãy thử tìm xem có ai mua nó không đã.” Vài tuần sau Shawn gửi cho tôi một tấm ngân phiếu trị giá vài trăm đô. Khi tôi gọi điện cho Shawn hỏi anh đã bán con Bud cho ai, anh lẩm bẩm điều gì đó nghe không rõ về một người đàn ông đến từ Tooele.
Kỳ học đó tôi không phải là một sinh viên ham hiểu biết. Sự ham hiểu biết là điều xa xỉ dành riêng cho những ai chẳng vướng bận gì về tài chính: tâm trí tôi rối bời với những mối lo trước mắt, phải cân đối tài khoản ngân hàng, tôi nợ ai bao nhiêu, và liệu có gì trong phòng mình mà tôi có thể bán được mười hoặc hai mươi đô-la hay không. Tôi nộp bài tập về nhà và ôn thi, nhưng tôi làm những việc đó vì sợ – sợ mất học bổng nếu điểm trung bình môn của tôi giảm dù chỉ một phần mấy điểm – chứ không phải vì thực sự quan tâm đến các môn học.
Vào tháng Mười Hai, sau khi nhận khoản tiền công lao động cuối cùng của tháng, tôi có 60 đô-la trong tài khoản. Tiền thuê nhà là 110 đô-la, hạn nộp là ngày 7 tháng Một. Tôi cần tiền mặt gấp. Tôi nghe nói một bệnh viện tư ở gần khu mua sắm trả tiền cho những người cung cấp huyết tương. Một bệnh viện tư nghe như một phần của hệ thống y tế, nhưng tôi lập luận rằng miễn là họ lấy thứ gì đó ra chứ không bơm thứ gì vào người tôi, thì tôi sẽ chẳng sao cả. Người y tá chọc ven của tôi khoảng hai mươi phút, rồi nói ven của tôi quá nhỏ.
Với 30 đô-la cuối cùng của mình tôi mua đầy bình xăng và lái xe về nhà nghỉ Giáng sinh. Vào buổi sáng ngày Giáng sinh, bố tặng tôi một khẩu súng trường – tôi để nguyên nó trong hộp, vậy nên tôi không biết nó là loại gì. Tôi hỏi Shawn có muốn mua khẩu súng đó không, nhưng bố tịch thu khẩu súng và nói bố sẽ giữ nó an toàn.
Thế đấy. Chẳng còn gì để bán, không có những người bạn thời thơ ấu, cũng chẳng có quà Giáng sinh. Đã đến lúc bỏ học và tìm việc làm. Tôi chấp nhận điều đó. Anh trai Tony của tôi sống ở Las Vegas, là lái xe tải đường dài, vậy nên vào ngày Giáng sinh tôi gọi điện cho anh. Anh nói tôi có thể sống với anh vài tháng và làm việc cho tiệm bánh In-N-Out ở bên kia đường.
Tôi gác máy và bước dọc hành lang, đang ước giá mà trong lúc nói chuyện điện thoại tôi đã hỏi mượn tiền anh để đến Vegas, thì một giọng cộc cằn gọi tôi. “Này, ‘gai ém’. Lại đây một lát.”
Phòng ngủ của Shawn như ổ lợn. Quần áo bẩn nằm rải rác trên sàn, và tôi có thể nhìn thấy đầu của một khẩu súng ngắn thò ra dưới một đống áo phông bẩn. Các ngăn giá sách quá tải dưới sức nặng của những hộp đạn và những tập truyện Louis L’Amour. Shawn đang ngồi trên giường, khom vai, chân giạng ra hai bên. Anh trông như đã ngồi trong tư thế đó một lúc lâu, suy ngẫm về tình trạng bẩn thỉu. Anh trút ra một tiếng thở dài, rồi đứng dậy và bước về phía tôi, giơ cánh tay phải của anh lên. Tôi bước lùi lại một bước theo phản xạ, nhưng anh chỉ nhấc cánh tay lên để cho tay vào túi áo. Anh mở ví, rút ra tờ một trăm đô-la nhàu nhò.
“Chúc Giáng sinh vui vẻ,” anh nói. “Nhóc sẽ không lãng phí nó như anh.”
Tôi tin 100 đô-la đó là dấu hiệu của Chúa. Tôi phải học tiếp. Tôi lái xe trở lại BYU và trả tiền thuê nhà. Sau đó, vì biết mình sẽ không có khả năng trả tiền thuê nhà vào tháng Hai, tôi làm thêm một việc làm nữa, việc dọn dẹp nhà cửa, tôi lái xe hai mươi phút về phía Bắc ba ngày mỗi tuần để lau dọn những ngôi nhà đắt tiền ở Draper.
Giám mục và tôi vẫn gặp nhau vào mỗi Chủ nhật. Robin đã kể với ông rằng tôi không mua giáo trình cho kỳ học mới. “Thật buồn cười,” ông nói. “Hãy đăng ký xin trợ cấp đi! Con nghèo mà! Đó là lý do tại sao các khoản trợ cấp tồn tại!”
Sự phản đối của tôi nằm ngoài lý trí, nó là bản năng.
“Ta kiếm được nhiều tiền,” giám mục nói. “Ta đã đóng thuế nhiều. Hãy nghĩ đó là tiền của ta.” Ông in mẫu đơn xin trợ cấp ra và đưa cho tôi. “Hãy suy nghĩ đi. Con cần học cách nhận giúp đỡ, thậm chí từ Chính phủ.”
Tôi cẩm lấy tờ mẫu đơn. Robin điền vào đơn cho tôi. Tôi không chịu gửi chúng đi.
“Hãy cứ lo giấy tờ,” chị nói. “Rồi hãy xem cảm giác đó như thế nào.”
Tôi cần tờ khai thuế của bố mẹ mình. Tôi thậm chí không chắc bố mẹ có khai thuế, nhưng nếu họ có thì tôi biết bố sẽ không đưa tờ khai cho tôi nếu bố biết lý do tôi muốn có nó. Tôi ngẫm nghĩ cả tá lý do giải thích tại sao tôi lại cần giấy tờ đó, nhưng không lý do nào đáng tin cả. Tôi hình dung ra tờ khai thuế nằm trong cái tủ lớn đựng giấy tờ ở trong bếp. Rồi tôi quyết định lấy trộm.
Tôi lên đường về Idaho ngay trước lúc nửa đêm, hy vọng sẽ về đến nhà quãng ba giờ sáng và lúc đó nhà vẫn im ắng. Về tới núi Buck, tôi cho xe bò lên lối dành cho xe đỗ, co rúm người lại trước mỗi viên sỏi bật lách tách dưới lốp xe của mình.
Tôi mở cửa xe thật khẽ để không gây tiếng động, sau đó đi bộ qua bãi cỏ, luồn vào nhà bằng lối cửa sau, di chuyển lặng lẽ trong nhà, dùng tay lần tìm đường tới cái tủ đựng giấy tờ.
Tôi chỉ vừa mới bước được vài bước thì nghe thấy tiếng cách quen thuộc.
“Đừng bắn!” Tôi kêu lên. “Em đây mà!”
“Ai?”
Tôi bật đèn lên và nhìn thấy Shawn đang ngồi ở đầu kia của căn phòng chĩa súng vào tôi. Anh hạ khẩu súng xuống. “Anh cứ nghĩ mày là… ai khác.”
“Hẳn thế,” tôi nói.
Chúng tôi đứng trong lúng túng một lát, sau đó tôi đi ngủ, Sáng hôm sau, sau khi bố đã rời khỏi nhà đến bãi phế liệu, tôi nói dối mẹ rằng trường BYU cần tờ khai thuế của mẹ. Mẹ biết tôi nói dối – tôi có thể biết điều đó bởi vì bố đột nhiên bước vào và hỏi tại sao mẹ lại in tờ khai thuế, mẹ nói mẹ in để lưu.
Tôi cầm bản sao tờ khai thuế và trở lại BYU. Shawn và tôi không nói với nhau lời nào trước khi tôi lên đường. Anh không bao giờ hỏi tại sao tôi lại lén lút mò vào nhà của chính mình lúc ba giờ sáng, còn tôi chưa bao giờ hỏi anh đang đợi ai mà đêm hôm ngồi đó với khẩu súng đã nạp đạn.
Đơn xin trợ cấp nằm trên bàn của tôi trong một tuần trước khi Robin đi cùng tôi đến bưu điện và nhìn tôi đưa chúng cho nhân viên ở đó. Không mất nhiều thời gian, một tuần, có lẽ là hai. Tôi đang lau nhà ở Draper thì thư đến, vậy nên Robin để lá thư lên giường của tôi cùng với mảnh giấy ghi rằng giờ đây tôi đã là một người cộng sản.
Tôi xé phong bì thư và một tấm ngân phiếu rơi xuống giường tôi. Tấm ngân phiếu bốn nghìn đô-la. Tôi cảm thấy mình tham lam, sau đó tôi sợ lòng tham của mình. Có số điện thoại để liên lạc. Tôi bấm số.
“Có vấn đề ạ,” tôi nói với người phụ nữ trả lời điện thoại. “Tấm ngân phiếu trị giá bốn nghìn đô-la, nhưng tôi chỉ cần một nghìn bốn trăm đô-la thôi.”
Đường dây im lặng.
“A lô? A lô?”
“Cho phép tôi nói thẳng nhé,” người phụ nữ nói. “Cô nói rằng tấm ngân phiếu đó trị giá quá nhiều tiền ư? Cô muốn tôi làm gì nào?”
“Tôi sẽ gửi trả lại tấm ngân phiếu này, bà có thể gửi cho tôi một tấm khác không ạ? Tôi chỉ cần một nghìn bốn trăm đô-la thôi. Để chữa tủy răng.”
“Nghe này, cưng,” bà nói, “Cô được nhận trợ cấp nhiều như vậy bởi vì đó là số tiền cô được nhận. Đổi nó ra tiền mặt hoặc không, tùy cô thôi.”
Tôi đi chữa răng. Tôi mua giáo trình, trả tiền thuê nhà, mà vẫn còn tiền. Giám mục nói tôi nên mua cho bản thân một thứ gì đó, nhưng tôi nói tôi không thể, tôi phải tiết kiệm tiền. Ông nói tôi có thể chỉ tiêu nhiều hơn một chút. “Nhớ nhé,” ông nói, “con có thể xin một khoản trợ cấp như thế vào năm tới.” Tôi mua một chiếc váy mới để mặc đi nhà thờ.
Tôi tin rằng khoản tiền đó được sử dụng để điều khiển tôi, nhưng điều mà nó làm là cho phép tôi giữ lời hứa với bản thân: lần đầu tiên, khi tôi nói tôi sẽ không bao giờ làm việc cho bố mình nữa, tôi tin điều đó.
Bây giờ tôi tự hỏi phải chăng cái ngày tôi lấy trộm tờ khai thuế không phải là lần đầu tiên tôi rời khỏi nhà để đi lên núi Buck. Đêm đó tôi đã bước vào nhà của bố mình như một kẻ xâm nhập. Đó là một thay đổi trong ngôn ngữ tinh thần, một sự từ bỏ nơi mình xuất thân.
Ngôn từ của chính tôi đã xác nhận điều đó. Khi những sinh viên khác hỏi quê quán tôi, tôi đáp, “Tớ ở Idaho,” một câu nói chưa từng thuận miệng tôi dù tôi đã nhắc đi nhắc lại nó bao năm qua. Khi bạn là một phần của nơi đâu, khi đất đai nơi đó trở thành máu thịt bạn, sẽ chẳng cần phải nói bạn từ đâu đến. Tôi chưa bao giờ thốt ra câu “Tớ ở Idaho.” cho đến khi tôi rời khỏi đó.
Chú thích:
[1] Nguyên văn: “Wordless as a brick”. Tương tự thành ngữ “Câm như hến” của người Việt.