← Quay lại trang sách

Chương 24 Hiệp Sĩ, Giang Hồ

Tôi có một nghìn đô-la trong tài khoản. Chỉ nghĩ đến điều đó thôi tôi đã thấy lạ lùng, chứ nói gì đến việc ổmnọc số tiền ấy lên. Một nghìn đô-la. Không chỉ có vậy. Tôi đâu có cần khoản tiền đó ngay lập tức. Phải mất nhiều tuần tôi mới chấp nhận sự thật đó và khi tôi chấp nhận nó, tôi bắt đầu trải nghiệm lợi thế lớn nhất của tiền bạc: cơ hội để nghĩ về những điều ngoài tiền.

Các giáo sư của tôi đột ngột trở thành tâm điểm; cứ như trước khi có khoản trợ cấp tôi nhìn họ qua ống kính bị mờ. Tôi dần hiểu được các cuốn giáo trình, và tôi nhận thấy mình chịu khó tìm tòi nhiều hơn những gì mà tôi được yêu cầu phải đọc.

Chính trong trạng thái đó, lần đầu tiên tôi biết đến thuật ngữ rối loạn lưỡng cực. Tôi đang ngồi ở lớp học môn Tâm lý 101 thì giáo sư của chúng tôi đọc to các triệu chứng từ màn hình phía trên: chán nản, gàn dở, hoang tưởng bộ phận, tính gàn dở, chứng hoang tưởng về uy quyền và chứng lo sợ bị khủng bố, ngược đãi. Tôi dỏng tai nghe.

Bố mình đấy, tôi viết vào số ghi. Ông ấy đang miêu tả bố mình.

Vài phút sau chuông reo, một sinh viên hỏi về vai trò mà các chứng rối loạn tầm thần có thể có trong những phong trào ly khai. “Em đang nghĩ đến những cuộc xung đột nổi tiếng như vụ Waco ở Texas, hoặc vụ Ruby Ridge ở Idaho,” cậu ta nói.

Idaho chẳng có mấy sự kiện nối tiếng, vậy nên tôi nghĩ mình cũng từng nghe láng máng “Ruby Ridge” là gì. Cậu ấy đang nói về một cuộc xung đột. Tôi lục tìm trong trí nhớ, cố nhớ mình đã nghe thấy những từ đó hay chưa. Có điều gì đó quen thuộc trong những từ đó. Thế rồi những hình ảnh xuất hiện trong đầu tôi, mờ nhạt và méo mó, cứ như đường truyền bị vỡ ở nguồn. Tôi nhắm mắt lại và hình ảnh trở nên sống động. Tôi đang ở trong nhà mình, núp đằng sau cái tủ gỗ phong. Mẹ quỳ cạnh tôi, nhịp thở của mẹ chậm và mệt nhọc. Mẹ liếm môi và nói mẹ khát, sau đó, trước khi tôi kịp ngăn lại, mẹ đứng dậy mở vòi nước. Tôi cảm thấy súng máy rung chuyển và nghe thấy tiếng mình thét lên. Có tiếng uỵch khi một vật gì đó rất nặng rơi xuống sàn nhà. Tôi nhấc cánh tay mẹ sang một bên và bế đứa bé lên.

Chuông reo. Giảng đường vắng tanh. Tôi đến phòng máy tính. Tôi lưỡng lự một lát trước bàn phím – sợ hãi trước linh cảm rằng đây là thông tin mình sẽ tiếc vì đã biết – sau đó gõ từ khóa “Ruby Ridge” vào ô tìm kiếm. Theo trang bách khoa thư Wikipedia, Ruby Ridge là địa điểm diễn ra cuộc đối đầu chết chóc giữa Randy Weaver và số đông người của liên bang, bao gồm lực lượng Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ và FBI.

Cái tên Randy Weaver quen thuộc với tôi, và thậm chí khi đọc nó tôi vẫn nghe thấy nó thoát ra từ miệng bố tôi. Sau đó câu chuyện – dường như đã sống trong trí tưởng tượng của tôi mười ba năm – bắt đầu được tái hiện trong đầu tôi: một đứa con trai bị bắn, sau đó đến ông bố, rồi đến bà mẹ. Chính phủ đã giết cả gia đình đó, người bố người mẹ và những đứa con, để bưng bít những gì người của Chính phủ làm.

Tôi lục tìm nơi kí ức mấu chốt dẫn đến phát súng đầu tiên. Nhận viên mật vụ của Liên bang đã bao vây nhà Weaver. Nhiệm vụ của họ chỉ là theo dõi đối tượng bị tình nghi, và gia đình Weaver không hể biết về nhóm mật vụ của Liên bang cho đến khi một con chó bắt đầu sủa. Tin rằng con chó đã đánh hơi thấy một con thú hoang lởn vởn quanh đó, Sammy, đứa con trai mười bốn tuổi của Randy, lao vào rừng. Nhân viên mật vụ của Liên bang đã bắn con chó, và Sammy, bấy giờ đang cầm súng, bắt đầu bắn trả. Cuộc xung đột làm hai người thiệt mạng: một mật vụ của Liên bang và Sammy, cậu trai đang bỏ chạy lên đồi về phía nhà mình thì bị bắn vào lưng.

Tôi đọc tiếp. Ngày hôm sau, Randy Weaver bị bắn, cũng vào lưng, trong khi ông cố tìm đến chỗ xác con mình. Thi thể đó ở trong cái lán, và Randy vừa mới nhấc then cài cửa lán ra thì một tay súng bắn tỉa nhằm vào cột sống ông bóp cò nhưng bắn trượt. Vợ ông, Vicki, chạy ra cửa để giúp chồng và tay súng bắn tỉa đó lại nổ súng.Viên đạn xuyên vào đầu bà, giết chết bà ngay lập tức khi bà đang bế trên tay đứa con gái mười tháng tuổi.

Trong chín ngày gia đình đó đã túm tụm nhau lại trong căn nhà nhỏ cùng với xác của người mẹ, cho tới khi các nhà thương thuyết kết thúc cuộc đối đầu và Randy Weaver bị bắt.

Tôi đọc vài lần mới hiểu được dòng cuối cùng này của câu chuyện. Randy Weaver còn sống ư? Bố tôi có biết điều đó không?

Tôi tiếp tục đọc. Quốc gia phẫn nộ. Các bài báo xuất hiện trên hầu hết mọi tờ báo lớn đều lên án hành vi coi thường mạng sống một cách nhẫn tâm của Chính phủ. Bộ Tư pháp đã mở một cuộc điều tra và Thượng viện tổ chức các phiên điều trần. Cả hai cơ quan này đều đề nghị sửa đổi luật giao chiến, đặc biệt là những điều luật liên quan đến việc sử dụng vũ lực gây tử vong.

Gia đình Weaver đã đệ đơn kiện tội ngộ sát, đòi bồi thường 200 triệu đô-la nhưng đã chịu hòa giải khi Chính phủ đề nghị cấp cho ba người con gái của Vicki mỗi người một triệu đô-la. Randy Weaver được bồi thường 100 nghìn đô-la và mọi phí tổn pháp lý, trừ hai khoản phí trình diện trước tòa, được hủy bỏ. Randy Weaver được các tổ chức truyền thông lớn phỏng vấn và thậm chí còn cùng con gái ông viết một cuốn sách. Hiện giờ ông ta kiếm sống bằng việc đi nói chuyện tại các cuộc triển lãm súng.

Nếu đây là một vụ bưng bít thì quả là dở tệ. Báo chí đưa tin, có các cuộc điều tra chính thức, rồi lại thêm quy trình giám sát. Chẳng phải đó là thước đo của một nền dân chủ ư?

Có một điều tôi vẫn không hiểu: Tại sao ngay từ đầu mật vụ Liên bang lại bao vây nhà của Randy Weaver? Tại sao Randy lại trở thành mục tiêu? Tôi nhớ bố nói rằng chúng tôi cũng rất dễ thành mục tiêu. Bố luôn nói rằng một ngày nào đó Chính phủ sẽ bắt những người chống tẩy não, những người không chịu cho con họ đi học. Suốt mười ba năm, tôi cứ thế mà tin Chính phủ ập đến nhà Randy để buộc con ông ta đến trường công.

Tôi trở lại đầu trang và đọc toàn bộ trang đó một lần nữa, nhưng lần này tôi không bỏ qua tiền truyện. Theo tất cả các nguồn, bao gồm chính bản thân Randy Weaver, cuộc xung đột này bắt đầu khi Randy bán hai khẩu súng đã cưa nòng cho một tay chỉ điểm mà ông ta gặp tại một cuộc họp mặt của Hội anh em chủng tộc Aryan. Tôi đọc câu này hơn một lần, chính xác là nhiều lần. Và tôi đã hiểu: uy thế của người da trắng là cốt lõi của câu chuyện này, chứ không phải chuyện giáo dục tại gia. Dường như Chính phủ chưa bao giờ có thói quen giết người vì không giao con của họ cho hệ thống giáo dục công. Rõ rồi, và tại sao bấy lâu nay tôi lại tin bất cứ điều gì khác, chứ không phải điều này.

Trong phút giây cay đắng, tôi nghĩ bố đã nói dối. Sau đó, tôi nhớ lại nỗi sợ hãi trên mặt bố, nhịp thở nhanh, nặng nề của bố, và tôi cảm thấy chắc chắn rằng bố thực sự tin gia đình tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi dần dần lý giải được, và những từ lạ lùng xuất hiện trong đầu tôi, những từ mà tôi chỉ vừa mới biết vài phút trước đó: hoang tưởng bộ phận, tính gàn dở, chứng hoang tưởng về uy quyền và chủng lo sợ bị khủng bố, ngược đãi. Và cuối cùng câu chuyện trở nên sáng tỏ – câu chuyện trên trang này, và câu chuyện đã sống trong tôi suốt thời thơ ấu. Bố chắc hẳn đã đọc về Ruby Ridge, hoặc theo dõi sự kiện đó qua bản tin, và bằng cách nào đó khi nó đi qua bộ não bất an của bố, nó đã thôi không còn là chuyện về một người nào đó khác mà đã trở thành chuyện về bố. Nếu Chính phủ vây bắt Randy Weaver thì chắc chắn cũng vây bắt Gene Westover, người đang đứng ở tuyến đầu trong cuộc chiến chống lại hội Illuminati suốt nhiều năm. Không còn hài lòng khi đọc về hành động dũng cảm của người khác nữa, bố đã tự rèn cho mình mũ sắt và lên ngựa.

Tôi đâm ra bị ám ảnh bởi chứng rối loạn lưỡng cực. Chúng tôi được giao viết một bài luận môn Tâm lý học và tôi chọn chứng rối loạn lưỡng cực, sau đó lấy bài luận làm cái cớ để cật vấn mọi nhà thần kinh học và mọi chuyên gia về nhận thức tại trường đại học. Tôi miêu tả các triệu chứng của bố mình, nhưng không quy những đặc tính đó cho bố tôi mà nói rằng đó là một người chú của tôi. Một số triệu chứng hoàn toàn khớp; những triệu chứng khác thì không. Các giáo sư nói với tôi rằng mỗi trường hợp mỗi khác.

“Những gì em miêu tả nghe giống bệnh tâm thần phân liệt hơn,” một vị nói. “Chú của em đã bao giờ được chữa trị chưa?”

“Chưa ạ,” tôi nói. “Chú ấy nghĩ các bác sĩ là một phần âm mưu của Chính phủ.”

“Điều đó làm cho vấn đề phức tạp đấy,” ông nói.

Cố gắng hành văn cho khéo ở vị trí của một kẻ đe đọa đến thanh danh gia đình, tôi viết bài luận phân tích ảnh hưởng mà cha mẹ bị chứng rối loạn lưỡng cực gây ra đối với con cái. Bài viết đầy tính buộc tội, tàn bạo. Tôi viết rằng con cái của những người bị rối loạn lưỡng cực phải hứng chịu các nhân tố rủi ro đúp: thứ nhất, bởi vì chúng có xu hướng rối loạn tâm trạng theo di truyền, và thứ hai, vì môi trường sống căng thẳng cũng như vì khi cha mẹ chúng đã mắc các rối loạn này thì họ không thể làm cha mẹ tốt.

Ở trên lớp tôi được dạy về các dẫn truyền thần kinh và tác động của chúng đối với tính chất hóa học của não bộ; tôi hiểu chứng bệnh đó không phải là một lựa chọn. Căn cứ này lẽ ra có thể khiến tôi cảm thông với bố mình, nhưng không. Tôi chỉ cảm thấy giận. Tôi nghĩ, chúng tôi phải trả giá cho nó. Mẹ. Luke. Shawn. Chúng tôi đã bị bầm đập, bị thương, bị đe dọa, bị bỏng chân và bị vỡ đầu. Chúng tôi đã sống trong tình trạng báo động, trong nỗi kinh hoàng triền miên, não của chúng tôi ngập hormone cortisol [1] bởi vì chúng tôi biết bất cứ tai họa nào trong những điều ấy cũng có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Bởi vì bố của chúng tôi luôn đặt niềm tin lên trên sự an toàn. Bởi vì bố tin bản thân bố đúng, và bố luôn luôn tin như thế – sau tai nạn xe lần thứ nhất, sau tai nạn xe lần thứ hai, sau vụ cái thùng rác, vụ cháy, vụ tấm nâng. Và chúng tôi là những người phải trả giá.

Cuối tuần sau khi nộp bài luận, tôi về thăm núi Buck. Tôi ở nhà được gần một tiếng đồng hồ thì bố và tôi cãi vã. Bố nói tôi nợ bố tiền cái ô tô. Thực ra bố chỉ nhắc đến chuyện đó thôi, nhưng tôi nổi điên, trở nên quá kích động. Lần đầu tiên trong đời tôi la lối bố mình – không phải vì chiếc xe, mà vì nhà Weaver. Tôi nghẹn ngào vì tức giận, lời nói của tôi không bật ra thành lời nói, mà thành những tiếng nức nở lắp bắp, ngắc ngứ. Tại sao bố lại như thế này? Tại sao bố lại làm chúng con khiếp sợ như thế? Tại sao bố lại đấu tranh chống lại những quái vật mà bố tưởng tượng ra gay gắt đến thế, mà chẳng làm gì với những quái vật trong nhà của chúng ta?

Bố há hốc miệng nhìn tôi, kinh ngạc. Miệng bố trễ xuống, hai bàn tay bố buông thõng bên sườn, giật giật, như thể bố muốn đưa tay lên để làm điều gì đó. Tôi chưa bao giờ thấy bố trông yếu ớt như thế kể từ khi bố cúi lom khom bên cạnh chiếc xe thùng đổ nát của chúng tôi, nhìn mặt mẹ sưng to, mà thậm chí chẳng thể chạm vào mẹ bởi vì những sợi dây điện đang truyền điện qua thành xe bằng kim loại.

Tôi tháo chạy khỏi nỗi xấu hổ hoặc tức giận. Tôi lái xe quay lại BYU mà không hề dừng lại. Vài giờ sau bố gọi điện. Tôi không trả lời. To tiếng với bố chẳng ích gì; có thể lờ bố đi thì hơn.

Kỳ học kết thúc, tôi ở lại Utah. Đó là mùa hè đầu tiên tôi không trở về núi Buck. Tôi không nói chuyện với bố, thậm chí qua điện thoại cũng không. Thái độ ghẻ lạnh này không phải là làm bộ. Chỉ là tôi cảm thấy không muốn gặp bố hoặc nghe giọng nói của bố, vậy thôi.

Tôi quyết định thử sống bình thường. Mười chín năm tôi đã sống theo cách bố tôi muốn. Bây giờ tôi muốn thử sống khác đi.

Tôi chuyển tới một căn hộ mới ở đầu kia của thành phố nơi không ai biết tôi. Tôi muốn bắt đầu cuộc sống mới. Trong tuần đầu tiên tôi ở đó, tại nhà thờ, vị giám mục mới đón tôi với cái bắt tay ấm áp, sau đó chuyển sang người mới đến tiếp theo. Tôi thích thú với thái độ hờ hững của ông. Nếu có thể giả vờ bình thường trong một thời gian thì biết đâu tôi sẽ cảm thấy như thật.

Chính tại nhà thờ đó tôi gặp Nick. Nick có cặp kính vuông và mái tóc đen mà anh vuốt keo thành những lọn tóc nhỏ giống như những cái gai nhọn gọn ghẽ. Bố tôi đã chế giễu một người đàn ông dùng keo xịt tóc, và đó có thể là lý do tôi lại thích điều ấy. Tôi cũng thích một điều rằng Nick không biết máy phát điện quay tay. Những gì anh biết là những cuốn sách, các trò chơi video và các nhãn hiệu quần áo. Và ngôn từ. Anh có vốn từ vựng đáng kinh ngạc.

Ngay từ đầu Nick và tôi đã là một đôi. Lần thứ hai chúng tôi gặp nhau anh cầm tay tôi. Khi da anh chạm vào da tôi, tôi chuẩn bị đấu tranh với sự thôi thúc thuộc về bản năng muốn đẩy anh ra, nhưng điều đó đã không xảy ra. Điều tôi trải nghiệm mới lạ và thú vị, và tôi hoàn toàn không muốn nó kết thúc. Tôi ước mình vẫn ở trong giáo đoàn cũ, để tôi có thể chạy tới vị giám mục trước kia và kể với ông rằng tôi không bỏ chạy nữa.

Tôi đã đánh giá quá cao tiến bộ của mình. Tôi tập trung vào những gì đang tiến triển, tôi chẳng chú ý đến những gì không. Chúng tôi gắn bó với nhau vài tháng, và nhiều buổi tối tôi ở cùng gia đình anh, trước khi tôi thốt ra một lời về gia đình của tôi. Tôi nhắc đến gia đình tôi mà không hề suy nghĩ, vô tình đề cập đến một trong những loại dầu của mẹ tôi khi Nick nói rằng anh bị đau vai. Anh bị hấp dẫn – anh đợi tôi nói về gia đình tôi – nhưng tôi giận bản thân vì lỗi sơ sảy đó, và không để nó xảy ra nữa.

Cuối tháng Năm tôi bắt đầu cảm thấy khó ở. Một tuần trôi qua trong đó tôi hầu như không thể nhấc thân đi làm thực tập sinh tại một công ty luật. Tôi ngủ từ chập tối đến tận gần trưa hôm sau mà cả ngày vẫn ngáp. Họng tôi bắt đầu đau và giọng tôi nhỏ lí nhí, chỉ còn là những tiếng lọc khọc sâu trong cổ, cứ như dây thanh quản đã biến thành giấy ráp.

Thoạt đầu Nick thích thú khi biết tôi sẽ không đi bác sĩ, nhưng khi chứng bệnh trở nặng niềm thích thú của anh biến thành nỗi lo lắng, sau đó thành thái độ khó hiểu. Tôi lờ anh đi. “Nó không nghiêm trọng đến thế đâu,” tôi nói. “Em sẽ đi nếu nó nghiêm trọng.”

Một tuần nữa trôi qua. Tôi bỏ việc thực tập và bắt đầu ngủ cả ngày cũng như đêm. Một buổi sáng, Nick bất ngờ xuất hiện, “Chúng ta sẽ đi gặp bác sĩ,” anh nói.

Tôi bắt đầu nói tôi sẽ không đi, nhưng sau đó tôi nhìn khuôn mặt của anh. Anh trông như đang có một cầu hỏi nhưng biết rằng có hỏi cũng chẳng ích gì. Nỗi căng thẳng trên nét môi anh, trong đôi mắt nheo lại. Tôi nghĩ, cơn ngờ vực trông như vậy đó.

Phải lựa chọn giữa việc gặp một bác sĩ theo chủ nghĩa xã hội xấu xa và việc thừa nhận với bạn trai rằng tôi tin các bác sĩ là những kẻ theo chủ nghĩa xã hội xấu xa, tôi chọn đi gặp bác sĩ.

“Hôm nay em sẽ đi,” tôi nói. “Em hứa. Nhưng em sẽ đi một mình.”

“Tốt,” anh nói.

Anh rời khỏi đó, nhưng tôi có một vấn đề khác. Tôi không biết đi bác sĩ như thế nào. Tôi gọi điện cho một bạn học và hỏi liệu cô có thể lái xe đưa tôi đi không. Một giờ sau cô đến đón tôi còn tôi thì quan sát, bối rối khi cô lái xe qua cái bệnh viện cách căn hộ của tôi vài khối nhà. Cô đưa tôi tới một tòa nhà nhỏ nằm ở phía Bắc của khu đại học mà cô gọi là “phòng khám chữa bệnh”. Tôi cố giả vờ lãnh đạm, làm như trước đây mình đã đi khám bệnh rồi, nhưng khi chúng tôi đi qua bãi đỗ xe tôi cảm thấy như mẹ tôi đang nhìn tôi.

Tôi không biết phải nói gì với nhân viên tiếp tân. Cô bạn nghĩ tôi im lặng là do tôi đau họng và giải thích các triệu chứng của tôi cho người của bệnh viện nghe. Người ta bảo chúng tôi chờ. Cuối cùng, một cô y tá dẫn tôi vào một phòng nhỏ toàn màu trắng nơi cô kiểm tra cân nặng, đo huyết áp và vệ sinh lưỡi cho tôi. Cô nói chứng viêm họng nặng như vậy thường do khuẩn liên cầu hoặc virus mono gây ra. Vài ngày nữa họ sẽ biết cụ thể.

Khi có kết quả xét nghiệm, tôi lái xe đến phòng khám chữa bệnh đó một mình. Một vị bác sĩ trung tuổi hói đầu trao kết quả cho tôi.

“Chúc mừng,” ông nói. “Cô đương tính với cả khuẩn liên cầu lẫn virus mono. Bệnh nhân duy nhất tôi từng thấy trong vòng một tháng nhiễm cả hai loại này.”

“Cả hai ư?” Tôi thều thào. “Làm sao tôi lại bị nhiễm cả hai được cơ chứ?”

“Rất, rất xui,” ông nói. “Tôi có thể cho cô dùng penicillin để trị khuẩn liên cầu, nhưng tôi không thể làm gì nhiều với virus mono. Cô sẽ phải đợi nó tự hết. Tuy nhiên, khi chúng ta diệt hết khuẩn liên cầu, cô sẽ cảm thấy khá hơn.”

Bác sĩ bảo y tá mang thuốc penicillin tới. “Cô nên dùng kháng sinh ngay,” ông nói. Tôi cầm những viên thuốc trong tay và nhớ đến buổi trưa khi Charles đưa cho tôi mấy viên giảm đau. Tôi nghĩ về mẹ tôi, và về nhiều lần mẹ đã nói với tôi rằng thuốc kháng sinh sẽ đầu độc cơ thể, rằng chúng gây vô sinh và gây ra các dị tật bẩm sinh. Rằng tinh thần của Chúa không thể ở trong những mạch máu bẩn, và rằng không mạch máu nào sạch sẽ khi nó từ bỏ Chúa và dựa vào con người. Hoặc có lẽ bố tôi đã nói phần cuối.

Tôi nuốt những viên thuốc. Có lẽ đó là vì nỗi tuyệt vọng bởi tôi cảm thấy thật tệ, nhưng tôi nghĩ đó là vì lý do trần tục hơn: tò mò.

Tôi ở đó, trung tâm của một cơ sở y tế, và tôi muốn xem xem, rốt cuộc điều mà tôi luôn sợ bấy lâu nay là gì. Mắt tôi sẽ chảy máu tư? Lưỡi tôi sẽ rụng chăng? Chắc chắn một điều gì đó đáng sợ sẽ xảy ra. Tôi cần biết đó là gì.

Tôi trở về căn hộ của mình và gọi điện cho mẹ. Tôi nghĩ việc tự thú sẽ làm giảm nhẹ tội lỗi nơi tôi. Tôi nói với mẹ rằng tôi đã đi khám bác sĩ, và rằng tôi bị nhiễm cả khuẩn liên cầu lẫn virus mono. “Con đang uống penicillin,” tôi nói. “Con chỉ muốn mẹ biết thôi.”

Mẹ bắt đầu nói dồn dập, nhưng tôi không nghe được nhiều, tôi mệt quá. Khi mẹ đường như đã giảm tốc, tôi nói “Con yêu mẹ.” và cúp máy.

Hai ngày sau tôi nhận được một gói bưu phẩm gửi từ Idaho tới, Bên trong là sáu lọ rượu ngâm thảo dược, hai lọ nhỏ tinh dầu, và một túi đất sét trắng. Tôi nhận ra những công thức – tinh dầu và rượu thuốc là để làm gan và thận khỏe, còn đất sét để ngâm chân rút độc tố khỏi cơ thể. Có một mảnh giấy của mẹ: Những thảo dược này sẽ rửa sạch kháng sinh khỏi cơ thể của con. Hãy dùng chúng chừng nào con còn uống thuốc kháng sinh. Yêu con.

Tôi nằm xuống và ngủ gần như ngay lập tức, nhưng trước khi ngủ tôi cười rõ to. Mẹ không gửi một phương thuốc nào để diệt khuẩn liên cầu hay virus mono. Mẹ chỉ gửi thuốc để xử lý penicillin.

Sáng hôm sau tôi thức dậy vì tiếng chuông điện thoại reo. Đó là Audrey gọi.

“Có tai nạn rồi em ạ,” chị nói. Lời nói của chị đưa tôi đến một thời điểm khác, đến với lần gần nhất tôi trả lời một cuộc điện thoại và nghe thấy những lời này thay cho một lời chào. Tôi nghĩ về ngày hôm ấy, và những gì mẹ đã nói tiếp theo đó. Tôi hy vọng Audrey đang đọc một kịch bản khác.

“Là bố,” chị nói. “Nếu em về mau, lên đường ngay lập tức, thì em còn kịp vĩnh biệt bố.”

Chú thích:

[1] Một loại hormone do tuyến thượng thận giải phóng ra khi con người ta quá căng thẳng.