Chương 25 Thuốc Mỡ Lưu Huỳnh
Có một câu chuyện tôi được kể cho nghe hồi bé, được kể nhiều lần đến nỗi tôi không nhớ nổi ai đã kể nó cho tôi nghe đầu tiên. Đó là chuyện về ông-ở-chân-đồi và về vết lõm ở ngay trên thái dương bên phải của ông.
Khi còn trẻ, ông từng có một mùa hè nóng nực ở trên núi, ông cưỡi con ngựa cái màu trắng để chăn thả gia súc. Nó là một con ngựa dáng cao, điềm tĩnh vì đã có tuổi. Mẹ tôi kể rằng con ngựa đó điềm tĩnh như một tảng đá, và ông không phải để ý nhiều khi ông cưỡi nó. Nếu thích, ông thả dây cương ra, có lẽ để nhặt một mẩu đá mài ra khỏi chiếc giày cao cổ của ông hoặc để bỏ cái mũ đỏ trên đầu ông và dùng ống tay áo lau mặt. Con ngựa vẫn đứng yên. Nhưng dù nó bình tĩnh, nó vẫn sợ rắn.
“Chắc nó đã nhìn thấy vật gì đó đang trườn trong đám cỏ,” mẹ kể chuyện đó theo trí nhớ của mẹ, “bởi vì nó hất ông xuống đất.” Có một bộ răng bừa cũ ở phía sau ông. Ông ngã vào đó và bị một vết lõm hình tròn trên trán.
Mỗi lần tôi nghe câu chuyện đó thì cái vật làm vỡ sọ ông thay đổi. Vài lần tôi nghe kể đó là bộ răng bừa, nhưng vào những lần khác nó là một tảng đá. Tôi ngờ rằng chẳng ai biết chắc chắn đó là gì. Chẳng có ai ở đó chứng kiến tai nạn. Cú hất ấy khiến ông bất tỉnh, và ông chẳng nhớ được gì nhiều cho tới khi bà phát hiện thấy ông trước hiên nhà, từ đầu đến chân đầy máu me.
Không ai biết làm thế nào ông lại ở hiên nhà được.
Từ đồng cỏ ở phía trên tới nhà ông bà là khoảng cách chừng một dặm – địa hình có đá lởm chởm với những ngọn đồi dốc, khúc khuỷu, mà trong tình trạng đó ông không thể vượt qua được. Nhưng ông đã ở trên hiên. Bà nghe thấy tiếng kẹt cửa yếu ớt, và khi mở cửa ra bà thấy ông ở đó, nằm một đống, óc rỉ ra khỏi đầu. Bà vội đưa ông vào thị trấn và họ dùng miếng kim loại vá chỗ thủng ở đầu ông.
Sau khi ông về nhà và đang trong quá trình hồi phục, bà đi tìm con ngựa cái trắng. Bà đi khắp núi nhưng rồi lại tìm thấy nó được buộc ở hàng rào phía sau bãi quây gia súc, được buộc thắt nút theo kiểu rắc rối mà không ai sử dụng ngoài cha của bà, cụ Lott.
Thỉnh thoảng, khi tôi ở nhà bà chén những thứ bị cấm như bánh bột ngô với sữa, tôi đòi ông kể cho nghe lần đó ông đã xuống núi như thế nào. Ông luôn nói rằng ông không biết. Rồi ông hít vào một hơi thật sâu – dài và chậm, như ông sắp sửa bắt đầu một trạng thái cảm xúc hơn là một câu chuyện – và ông kể lại chuyện đó từ đầu đến cuối. Ông là một người trầm lặng, gần như im lặng. Bạn có thể trải qua cả một buổi trưa phát quang những mảnh ruộng cùng ông mà không bao giờ nghe thấy mười từ được nối với nhau. Chỉ rặt những “Ừ” và “Không phải thế” và “Ông nghĩ vậy.”
Nhưng hãy hỏi ngày hôm đó ông đã xuống núi thế nào và ông sẽ nói trong mười phút, mặc dù tất cả những gì ông nhớ là nằm trên cánh đồng, không thể mở mắt ra được, trong khi ánh mặt trời bỏng rát làm máu trên mắt ông khô đi.
“Nhưng ông kể cho cháu nghe điều này,” ông thường nói, bỏ mũ ra và lướt ngón tay quanh chỗ lõm trên sọ của ông. “Trong khi ông nằm trong đám cỏ, ông nghe thấy những điều ấy. Những giọng nói, và họ đang nói. Ông nhận ra tiếng của một người, bởi vì đó là cụ Lott của cháu. Cụ đang nói với ai đó rằng con trai của Albert đang gặp chuyện chẳng lành. Cụ Lott nói vậy đấy, ông biết chắc chắn như chính ông đứng ở đó vậy.” Mắt ông sáng lấp lánh một lát, rồi ông nói. “Chỉ có điều, cụ Lott đã chết mười năm trước đó.”
Phần này của câu chuyện khiến người nghe trầm trồ tôn kính. Cả mẹ tôi và bà đều muốn kể câu chuyện này nhưng tôi thích lời kể của mẹ nhất. Giọng mẹ suỵt ở những chỗ cần phải suỵt. Đó là những thiên sứ, mẹ thường nói, và một giọt lệ nhỏ rơi xuống khóe miệng hé cười của mẹ. Cụ Lott đã gửi các thiên sứ xuống và họ đưa ông xuống núi.
Vết lõm đó là một cái hố xấu xí khoảng chừng năm phân trên trán ông. Khi còn nhỏ, nhìn chỗ đó đôi khi tôi tưởng tượng ra một bác sĩ dong dỏng cao, mặc áo choàng trắng dùng búa đóng một miếng kim loại choang choang. Trong trí tưởng tượng của tôi ông bác sĩ sử dụng chính những miếng sắt tây mà bố dùng để lợp mái các lán, xưởng. Nhưng chỉ thỉnh thoảng thôi. Thường thì tôi nhìn thấy thứ khác kia. Bằng chứng cho thấy tổ tiên của tôi đi trên đỉnh núi, theo dõi, chờ đợi, và các thiên sứ làm theo lệnh của họ.
Tôi không biết tại sao ngày hôm đó bố tôi lại ở trên núi một mình.
Cái máy nghiền xe làm phế liệu đang tới. Tôi cho rằng bố muốn tháo rời bình xăng cuối cùng, nhưng tôi không thể tưởng tượng nổi điều gì đã xui khiến bố khiến bố đốt cái đèn cắt mà không rút sạch xăng trong bình trước đã. Tôi không biết bố làm được đến đâu, đã cố cắt được bao nhiêu dây cột bằng sắt trước khi một tia lửa từ đèn hàn bén vào bình xăng. Nhưng tôi biết bố đang đứng cạnh chiếc xe, người bố ép sát ngọn lửa, khi bình xăng phát nổ.
Lúc ấy bố mặc chiếc áo sơ mi dài tay, đeo găng tay da và tấm che của thợ hàn. Mặt và các ngón tay bố bị thương nặng nhất từ vụ nổ. Nhiệt vụ nổ làm nóng chảy tấm che như thể nó là một cái thìa nhựa. Nửa dưới mặt bố hóa lỏng: lửa phá hủy nhựa, rồi đến da, sau đó đến cơ. Quá trình đó lặp lại với các ngón tay của bố – đôi găng tay da không phải là đối thủ của ngọn lửa đã tràn tới và xuyên qua chúng – sau đó các lưỡi lửa liếm ngang vai và ngực bố. Khi bố bò ra khỏi đám cháy ngùn ngụt đó, tôi mường tượng bố trông giống một xác chết hơn là một người sống.
Tôi không thể hiểu nổi trong tình trạng đó bố lại có thể di chuyển, tự mình lết một phần tư dặm qua những cánh đồng và những con mương. Nếu có người nào cần các thiên sứ thì người đó chính là bố. Nhưng bất luận vì lý do gì bố đã làm được điều đó – cũng như bố của bố nhiều năm trước – và nằm một đống ngoài cửa của vợ mình, không thể gõ cửa.
Hôm đó chị họ của tôi, Kylie, đến giúp mẹ tôi pha chế tinh dầu. Vài người phụ nữ khác làm việc gần đó, cân thảo dược phơi khô và lọc rượu thuốc.
Kylie nghe thấy tiếng gõ yếu ớt ở cửa sau, như thể ai đó va khuỷu tay vào cánh cửa. Chị mở cửa ra nhưng chẳng nhớ tẹo nào về những gì bên ngoài cánh cửa. “Chị thấy cửa bị gì đó chặn ở bên ngoài,” về sau chị kể cho tôi nghe.
“Chị không thể nhớ mình đã nhìn thấy gì. Chị chỉ nhớ những gì mình nghĩ, chị nghĩ, Chú ấy không có da.”
Bố tôi được đưa vào ghế sofa. Thuốc giải cứu – thuốc vi lượng đồng căn để chống sốc – được đổ vào cái hốc đã từng là miệng bố. Mọi người cho bố uống thảo dược lobelia và cỏ long ba để giảm đau, y như mẹ đã cho Luke dùng nhiều năm trước.
Bố sặc thuốc. Bố không thể nuốt được. Bố hít phải khí từ vụ nổ khủng khiếp đó và các bộ phận bên trong của bố thấm carbon. Mẹ cố đưa bố đến bệnh viện, nhưng giữa những hơi thở khò khè bố thều thào rằng bố thà chết còn hơn gặp bác sĩ. Trước uy quyền của bố, mẹ đành chịu.
Lớp da chết được thận trọng và nhẹ nhàng hết sức cắt đi, và bố được bôi cơ man nào là thuốc mỡ – chính loại thuốc mỡ mà mẹ đã dùng cho cái chân của Luke nhiều năm trước – bôi từ thắt lưng tới đỉnh đầu, sau đó được quấn băng. Mẹ đưa cho bố những cục đá lạnh để mút, hy vọng cung cấp đủ nước cho cơ thể bố, nhưng bên trong miệng và họng bố bị bỏng nặng, không hấp thu chất lỏng được, vả lại không có môi và cơ bố không thể ngậm đá trong miệng. Đá cứ trượt xuống họng bố và làm bố nghẹn.
Đêm đầu tiên ấy nhiều lần gia đình tôi suýt mất bố. Nhịp thở của bố chậm, sau đó dừng, và mẹ – và cánh phụ nữ làm việc cho mẹ – chạy như chong chóng, điều chỉnh các luân xa, bấm huyệt, làm bất cứ điều gì để dỗ dành hai lá phổi mong manh của bố khôi phục những tiếng khò khè của chúng.
Sáng ra Audrey gọi điện cho tôi.[1] Chị nói trong đêm tim bố đã ngừng đập hai lần. Có thể bố chết vì tim chứ không phải vì phổi. Dù vì điều gì đi nữa, Audrey chắc chắn bố sẽ không sống nổi đến trưa.
Tôi gọi điện cho Nick. Tôi nói với anh rằng tôi phải về Idaho vài ngày vì chuyện gia đình, và rằng không phải chuyện nghiêm trọng. Anh biết tôi sẽ chẳng nói cho anh hay đó là chuyện gì – tôi có thể nghe thấy sự tổn thương trong giọng nói của anh khi anh nói rằng tôi không tin tưởng anh – nhưng tôi gạt anh ra khỏi tâm trí và cúp máy.
Tôi đứng đó, chìa khóa trong tay, tay đặt trên núm cửa, và lưỡng lự. Khuẩn liên cầu. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm nó lây sang bố? Tôi đã uống penicillin gần ba ngày rồi. Bác sĩ nói sau hai mươi tư giờ tôi sẽ không truyền bệnh nữa, nhưng ông ta là một bác sĩ và tôi không tin tưởng ông ta.
Tôi đợi một ngày. Tôi đã uống penicillin theo đơn vài lần, sau đó tôi gọi điện cho mẹ hỏi bây giờ tôi nên làm gì.
“Con nên về nhà,” mẹ nói, và giọng mẹ đứt quãng. “Mẹ không nghĩ ngày mai khuẩn liên cầu sẽ là vấn đề quan trọng đâu.”
Tôi không nhớ quang cảnh trong lúc tôi lái xe. Mắt tôi hầu như không để ý đến những ruộng ngô, những cánh đồng khoai tây hoặc những ngọn đồi xanh sẫm phủ đẩy thông. Thay vào đó tôi nhìn thấy bố mình, cách bố nhìn tôi trong lần gần nhất khi tôi gặp bố, vẻ mặt nhăn nhó của bố. Tôi nhớ cái giọng chói tai, bừng bừng tức giận của tôi khi tôi gào lên với bố.
Giống như Kylie, tôi không nhớ những gì mình đã thấy khi tôi nhìn bố lần đầu tiên lúc tôi về đến nhà. Tôi biết rằng khi mẹ thay gạc cho bố sáng hôm đó, mẹ phát hiện ra tai bố bị bỏng nặng, da đính như keo, bởi chúng đã bị nóng chảy như si-rô và dính về phía sau. Khi tôi bước vào qua cửa sau, điều đầu tiên tôi nhìn thấy là mẹ đang cầm con dao cắt bơ để cạy tai bố khỏi sọ bố. Giờ đây, tôi vẫn có thể hình dung ra cảnh mẹ cầm con dao, mắt mẹ nhìn chăm chú, tập trung, nhưng trong ký ức của tôi chỗ mà đáng lẽ có hình ảnh của bố lúc đó lại chỉ là một lỗ hổng.
Mùi trong phòng xộc vào mũi tôi – mùi da thịt cháy, mùi liên mộc, mùi cây thảo bản bông vàng và cây mã đề. Tôi nhìn mẹ và Audrey thay những mảng băng còn lại cho bố. Họ bắt đầu với hai bàn tay của bố. Những ngón tay đầy nhớt, được phủ lớp dịch từ da nóng chảy, hoặc mủ. Cánh tay bố không bị bỏng, vai và lưng bố cũng không, nhưng bụng và ngực bố được băng một lớp gạc dày. Có vài lỗ thủng ở những chỗ chắc hẳn đã bị ngọn lửa phun vào với một lực rất mạnh. Những chỗ đó bốc ra mùi giống như mùi thịt thiu, và đầy dịch trắng.
Nhưng chính khuôn mặt bố cứ ám ảnh tôi hằng đêm. Bố vẫn có trán và mũi. Da quanh mắt bố và một phần da phía gò má bố hồng hồng, trông có vẻ có sức sống. Nhưng ở dưới mũi, chẳng có gì như trước. Phần đó đỏ lòm, nham nhở, võng xuống trông như một tấm mặt nạ bằng nhựa bị đặt quá gần một ngọn nến.
Bố không nuốt được thứ gì – không nuốt được thức ăn, chẳng nuốt được nước – trong gần ba ngày. Mẹ gọi điện tới một bệnh viện ở Utah xin họ một bộ truyền nước. “Tôi cần bù nước cho ông ấy,” mẹ nói. “Nếu không được truyền nước, ông ấy sẽ chết.”
Bác sĩ nói ông sẽ điều máy bay trực thăng tới ngay nhưng mẹ nói không. “Vậy thì tôi không thể giúp bà được,” bác sĩ nói. “ Bà sẽ giết chết ông ấy mất, và tôi không hề muốn chuyện đó xảy ra chút nào.”
Mẹ cuống lên. Trong một động thái tuyệt vọng cuối cùng, mẹ chọn dùng cách bơm thụt cho bố, đẩy ống vào sâu hết mức mà mẹ dám, cố đưa đủ chất lỏng qua trực tràng để giữ mạng sống cho bố. Mẹ không biết cách đó có tác dụng hay không – liệu có dù chỉ một bộ phận ở phần đó của cơ thể bố có thể hấp thu nước hay không – nhưng đó là đường vào duy nhất không bị tổn thương vì bỏng.
Đêm đó tôi ngủ trên sàn phòng khách để có thể có mặt khi chúng tôi mất bố. Tôi choàng tỉnh vài lần trước những tiếng thở gấp và những bóng người lướt qua, những tiếng lẩm bẩm rằng chuyện đó lại xảy ra nữa rồi, bố lại ngừng thở.
Một lần, một tiếng trước bình minh, bố dứt hơi thở và tôi chắc chắn rằng thế là hết: bố mình chết rồi và sẽ không bao giờ thức dậy nữa. Tôi đặt tay lên những mảng gạc băng trong khi Audrey và mẹ vội chạy đến quanh tôi, cầu kinh và gõ gõ. Căn phòng không bình yên, có lẽ nó như vậy là bởi tôi không bình yên. Trong nhiều năm tôi và bố bị kẹt trong xung đột, một cuộc chiến không hồi kết của những ý muốn. Tôi cứ nghĩ mình đã chấp nhận nó, chấp nhận mối quan hệ của chúng tôi như nó vốn thế. Nhưng lúc đó, tôi mới hiểu mình mong mỏi cuộc xung đột đó kết thúc biết nhường nào, tin tưởng sâu sắc bao nhiêu vào một tương lai mà khi đó chúng tôi sẽ là cha con trong hòa bình.
Tôi nhìn khuôn ngực của bố, nguyện cầu bố thở được, nhưng bố không. Thời gian đằng đẵng trôi qua. Tôi đã toan bước ra chỗ khác để mẹ và chị tôi từ biệt bố, thì bố ho – tiếng ho lọc khọc, giòn nghe như tiếng giấy kếp bị vò nhàu. Thế rồi, như thể hiện tượng Lazarus [2] xảy ra, ngực của bố bắt đầu phập phồng.
Tôi bảo mẹ rằng tôi sẽ đi. Bố có thể sẽ qua khỏi, tôi nói vậy. Và nếu bố qua khỏi thì không thể để khuẩn liên cầu giết chết bố được.
Việc kinh doanh của mẹ buộc phải tạm dừng. Những người phụ nữ làm việc cho mẹ dừng pha chế rượu thuốc và đóng chai tinh dầu, chuyển sang chế những hũ thuốc mỡ – một bài thuốc mới từ cây liên mộc, cây thảo bản hoa vàng và cây mã đề mà mẹ đã chế riêng cho bố tôi. Ngày hai lần mẹ bôi thuốc mỡ lên khắp phần cơ thể phía trên của bố. Tôi không nhớ những bài thuốc khác mà họ sử dụng, và tôi không biết đủ về việc truyền năng lượng để mà kể. Tôi chỉ biết rằng họ đã sử dụng mười bảy gallon thuốc mỡ trong hai tuần đầu tiên và rằng mẹ đã đặt mua một số lượng lớn băng gạc.
Tyler bay từ Purdue về. Sáng sáng anh thay mẹ thay băng trên các ngón tay bố, ban tối loại bỏ những lớp da và cơ chết. Nó không gây đau nữa, Các dây thần kinh đã chết. “Anh đã cắt bỏ nhiều lớp da,” Tyler kể với tôi, “Anh chắc chắn rằng có một buổi sáng anh đã cắt đến xương bố.”
Các ngón tay bố đã bắt đầu cong về phía sau một cách bất thường ở chỗ khớp ngón. Đó là bởi gân đã bắt đầu co rút lại. Tyler cố nắn các ngón tay bố lại, để kéo giãn gân và ngăn không cho cơn biến dạng đó trở thành cố tật, nhưng bố không thể chịu được đau.
Tôi trở về núi Buck khi tôi chắc chắn mình không còn khuẩn liên cầu. Tôi ngồi bên giường bố, dùng cái ống nhỏ thuốc nhỏ nước vào miệng bố và cho bố ăn tinh chất rau quả như thể bố là một đứa trẻ mới chập chững. Bố hiếm khi nói. Đau đớn khiến bố khó tập trung. Bố hầu như không thể nói nổi một câu trước khi cái đầu của bố đầu hàng. Mẹ gợi ý mua dược phẩm cho bố dùng, loại thuốc giảm đau mạnh nhất mà mẹ có thể tìm được, nhưng bố từ chối. Bố nói, đây là cơn đau đớn của Chúa, và bố sẽ cảm nhận mọi phần của nó.
Trong khi vắng nhà, tôi đã sục sạo mọi cửa hàng bán video trong phạm vi một trăm dặm cho tới khi tôi tìm được trọn bộ băng video hài kịch tình huống Những người nghỉ tuần trăng mật. Tôi giơ bộ băng video lên cho bố xem. Bố chớp mắt để cho tôi biết bố đã xem phim đó rồi. Tôi hỏi liệu bố có muốn xem một tập không. Bố lại chớp mắt. Tôi tra cuốn băng đầu tiên vào đầu máy và ngồi bên bố, quan sát khuôn mặt biến dạng của bố, lắng nghe những tiếng rên khe khẽ của bố trong khi trên màn hình Alice Kramden hết lần này đến lần khác tỏ ra láu cá hơn chồng cô ta.
Chú thích:
[1] Có khả năng mốc thời gian của tôi ở đây lệch một hoặc hai ngày. Theo vài người đã có mặt ở đó, dù bố tôi bị bỏng trông rất khủng khiếp, bố dường như không nguy kịch cho tới ngày thứ ba, khi quá trình đóng vảy bắt đầu, khiến bố khó thở. Hiện tượng khử nước làm cho tình hình tồi tệ hơn. Và khi đó mọi người lo sợ cho mạng sống của bố, và đó là khi chị gái tôi gọi điện cho tôi, chỉ có điều tôi hiểu sai và cho rằng vụ nổ mới xảy ra ngày hôm trước. — TG
[2] Lazarus là hiện tượng hệ tuần hoàn hoạt động trở lại một cách tự phát sau nỗ lực hồi sức cấp cứu.