← Quay lại trang sách

Chương 27 Nếu Tôi Là Phụ Nữ

Tôi đã đến BYU để học âm nhạc, để một ngày nào đó tôi có thể chỉ huy dàn hợp xướng của nhà thờ. Nhưng kỳ học đó – kỳ học mùa thu của năm thứ nhất – tôi đã không đăng ký một khóa học âm nhạc nào. Tôi không thể giải thích tại sao tôi lại bỏ môn Lý thuyết âm nhạc nâng cao để nghiêng về môn Địa lý và Chính trị đối sánh, hoặc bỏ học xướng âm để học Lịch sử về người Do Thái. Nhưng khi tôi thấy những khóa học này trong danh mục, và đọc to tên của chúng lên, tôi cảm thấy một điều gì đó vô tận, và tôi muốn nếm trải sự vô tận đó.

Trong bốn tháng tôi dự các lớp địa lý, lịch sử và chính trị. Tôi biết về Margaret Thatcher và vĩ tuyến 38, Cách mạng Văn hóa; tôi biết về chính trị Nghị viện và các hệ thống bầu cử trên thế giới. Tôi biết về cộng đồng người Do Thái và lịch sử lạ lùng của Nghị định thư của các bô lão Zion. Đến cuối kỳ học tôi cảm thấy thế giới thật rộng lớn, và thật khó mà tưởng tượng nổi việc quay trở về núi, về với phòng bếp, hoặc thậm chí với một chiếc đàn dương cầm trong căn phòng cạnh bếp.

Điều này gây ra một cuộc khủng hoảng trong tôi. Tình yêu âm nhạc của tôi, và khát khao học nhạc, tương thích với ý niệm của tôi về một phụ nữ là gì. Tình yêu đối với môn lịch sử và chính trị, các sự kiện thế giới thì không. Tuy nhiên chúng vẫy gọi tôi.

Vài ngày trước kỳ thi cuối năm, tôi ngồi một tiếng đồng hồ với Josh, một người bạn của tôi, trong một phòng trống. Cậu ấy đang xem lại đơn đăng ký vào trường luật của mình. Tôi đang chọn các khóa học cho kỳ tới.

“Nếu cậu là một phụ nữ,” tôi hỏi, “thì cậu vẫn học luật chứ?”

Josh không nhìn lên. “Nếu tớ là phụ nữ,” cậu nói, “tớ sẽ không muốn học luật.”

“Nhưng trong suốt thời gian quen biết cậu, tớ thấy cậu chẳng nói gì ngoài trường luật,” tôi nói. “Đó là ước mơ của cậu, đúng không?”

“Đúng vậy,” cậu thừa nhận. “Nhưng nó sẽ không phải là mơ ước của tớ nếu tớ là phụ nữ. Phụ nữ được tạo ra khác cơ. Họ không có tham vọng này. Tham vọng của họ là dành cho những đứa con.” Cậu mỉm cười với tôi như thể tôi biết cậu đang nói về điều gì. Tôi biết chứ. Tôi mỉm cười, và trong vài giây chúng tôi đồng tình với nhau.

Sau đó: “Nhưng điều gì xảy ra nếu cậu là một phụ nữ, và chẳng hiểu sao cậu vẫn cảm nhận y hệt như bây giờ, khi cậu là đàn ông con trai?”

Đôi mắt Josh nhìn dán vào tường một lát. Rồi cậu nói, “Vậy thì tớ biết có điều gì đó không ổn đối với tớ.”

Tôi thì từ đầu kỳ học đã tự hỏi phải chăng có điều gì đó không ổn đối với tôi, khi tôi dự bài giảng đầu tiên về các vấn đề thế giới. Tôi cứ tự hỏi làm sao tôi có thể là phụ nữ mà lại bị cuốn hút bởi những thứ không hợp với phụ nữ cơ chứ.

Tôi biết người chắc hẳn có câu trả lời, vậy nên tôi quyết định hỏi một trong những vị giáo sư của mình. Tôi chọn giáo sư giảng dạy Lịch sử Do Thái, bởi vì ông trầm tĩnh và nói năng hòa nhã. Tiến sĩ Kerry thấp người, ông có đôi mắt thẫm màu và vẻ mặt nghiêm nghị. Ông giảng bài, mặc một áo khoác len dày thậm chí trong tiết trời nóng nực. Tôi gõ cửa văn phòng ông rất khẽ, như thể tôi hy vọng ông sẽ không trả lời, và lát sau tôi đã ngồi im lặng đối diện với ông. Tôi không biết vấn đề của mình là gì, và tiến sĩ Kerry không hỏi. Thay vì thế ông đưa ra những câu hỏi chung chung – về điểm của tôi, về những khóa học mà tôi chọn. Ông hỏi tại sao tôi lại chọn học Lịch sử Do Thái, và không nghĩ một giây tôi thốt ra rằng, chỉ vài kỳ học trước thôi tôi mới biết về “Diệt chủng” (Holocaust) và muốn biết phần còn lại của câu chuyện.

“Em biết về ‘Diệt chủng’ khi nào?” ông hỏi.

“Ở BYU ạ.”

“Ở trường phổ thông các thầy cô không dạy về nó tư?”

“Có thể họ có dạy,” tôi nói. “Chỉ có điều em không đến trường.”

“Vậy em đã ở đâu?”

Tôi giải thích một cách rõ nhất có thể, rằng bố mẹ tôi không tin tưởng hệ thống giáo dục công, rằng bố mẹ giữ anh chị em tôi ở nhà. Khi tôi kể xong, ông đan các ngón tay của mình lại như thể ông đang suy ngẫm về một vấn đề hóc búa. “Tôi nghĩ em nên nỗ lực vươn tới. Rồi hãy xem chuyện gì xảy ra.”

“Vươn tới bằng cách nào ạ?”

Bỗng nhiên ông rướn người về phía trước, như thể ông có một. ý tưởng. “Em đã từng nghe về Cambridge rồi chứ?” Tôi chưa. “Đó là một trường đại học ở Anh,” ông nói. “Một trong những trường đại học tốt nhất thế giới. Tôi đã tổ chức một chương trình du học ở đó cho sinh viên. Chương trình đó có tính cạnh tranh và đòi hỏi rất cao. Em có thể sẽ không được chấp nhận, nhưng nếu em được chấp nhận, thì nó có thể cho em một ý niệm nào đó về các khả năng của em.”

Tôi cuốc bộ về căn hộ của mình, băn khoăn không hiểu cuộc trò chuyện ấy có ý nghĩa gì. Tôi muốn một lời khuyên về đạo đức, muốn ai đó điều hòa thiên hướng làm vợ, làm mẹ của tôi với sự vẫy gọi của một điều khác mà tôi nghe thấy. Nhưng ông đã gạt chuyện đó sang một bên. Dường như ông nói, “Trước hết hãy khám phá xem khả năng của em là gì, sau đó hãy quyết định em là ai.”

Tôi nộp đơn ứng viên cho chương trình đào tạo đó.

Emily có mang, nhưng không ổn lắm. Chị đã suýt sảy thai trong ba tháng đầu tiên, và giờ khi cái thai sắp được hai mươi tuần, chị bắt đầu có những cơn co thắt. Mẹ tôi, một bà đỡ, đã cho chị dùng cỏ thánh John và các bài thuốc khác. Chứng co thắt giảm đi nhưng vẫn tiếp diễn.

Khi tôi về núi Buck nghỉ Giáng sinh, tôi nghĩ sẽ thấy Emily nằm trên giường nghỉ ngơi. Nhưng không. Chị đang đứng ở bàn bếp lọc thảo dược cùng với nửa tá phụ nữ khác. Chị hiếm khi nói, cười lại càng hiếm hơn, chỉ đi lại trong nhà bê những hũ vỏ cây kim ngân và cây ích mẫu. Chị lặng lẽ đến mức như vô hình, và sau vài phút tôi quên rằng chị có mặt ở đó.

Đã sáu tháng kể từ vụ nổ ấy, và trong khi bố tôi đã đi lại được, rõ ràng bố không bao giờ trở lại như bố trước kia. Bố thậm chí không thể đi từ đầu này sang đầu kia của một căn phòng mà không thở đốc, phổi của bố đã bị tổn thương quá nặng.

Da ở nửa dưới mặt bố đã tái sinh, nhưng nó mỏng và nhợt nhạt, như thể ai đó đã cầm giấy ráp và chà lên nó đến mức nó trở nên trong suốt. Tai bố dày đặc những vết sẹo. Bố vốn dĩ có đôi môi mỏng và miệng bố trễ xuống, tạo cho bố vẻ phờ phạc của một người đàn ông nhiều tuổi hơn biết bao. Nhưng hơn cả khuôn mặt, chính bàn tay phải của bố thu hút những cái nhìn chòng chọc: mỗi ngón tay cứng lại theo một kiểu, ngón thì vặn vẹo, ngón thì cong queo, xoắn vào nhau thành bộ móng vuốt xương xẩu. Bố có thể cầm thìa bằng cách chèn nó vào giữa ngón tay trỏ cong lên phía trên, và ngón đeo nhẫn vẹo xuống phía dưới, nhưng bố ăn rất vất vả. Tuy nhiên, tôi băn khoăn không biết có phải với các loại thảo dược như liên mộc và thuốc mỡ chế từ hoa cây cúc lobelia, mẹ đã thành công trong việc cấy ghép da hay không. Mọi người nói đó là một điều kỳ diệu, vậy nên họ đặt cho bài thuốc của mẹ một cái tên mới: sau vụ bố bị bỏng loại thuốc mỡ của mẹ được gọi là Thuốc Mỡ Thần Kỳ.

Đêm đầu tiên tôi về núi, vào bữa tối, bố miêu tả vụ nổ là một niềm hạnh phúc dịu dàng Chúa ban cho. “Đó là một diễm phúc,” bố nói. “Một phép màu. Chúa tha mạng cho bố và dành cho bố một sứ mệnh quan trọng. Để làm chứng cho sức mạnh của Chúa. Để mọi người thấy ngoài bệnh viện còn có cách khác.”

Tôi nhìn bố cố gắng mà không kẹp nổi con dao đủ chặt để cắt miếng thịt nướng. “Bố chưa bao giờ gặp nguy hiểm,” bố nói. “Bố sẽ chứng minh điều đó cho các con thấy. Ngay khi bố đi bộ được từ bên này sang bên kia bãi phế liệu mà không choáng váng ngất xỉu, bố sẽ cầm đèn hàn và cắt một bình xăng khác.”

Sáng hôm sau, khi tôi ra ăn sáng, có một đám phụ nữ vây quanh bố tôi. Họ lắng nghe với những tiếng suỵt và đôi mắt lấp lánh khi bố kể về những cuộc thăm viếng từ thiên đường mà bố nhận được trong khi bố ở giữa lằn ranh sinh tử. Bố nói rằng bố được các thiên sứ, giống như các nhà tiên tri thời xa xưa, che chở. Có điều gì đó trong mắt những người phụ nữ khi họ nhìn bố. Một điều gì đó giống như lòng tôn sùng.

Suốt buổi sáng tôi quan sát những người phụ nữ ấy và nhận ra rằng chuyện kỳ diệu của bố tôi đã tác động đến họ ra sao. Trước đó, những người phụ nữ làm việc cho mẹ tôi luôn tỏ ra xuề xòa trước mẹ, với những câu hỏi thường nhật về công việc của họ. Giờ đây họ nói năng khẽ khàng, đầy ngưỡng mộ. Kịch tính nổ ra giữa họ khi họ ganh đua để chiếm cảm tình của mẹ tôi, và của bố tôi. Sự thay đổi có thể được tóm tắt đơn giản như sau: trước đây họ là người làm thuê; bây giờ họ là môn đồ.

Chuyện bố bị bỏng đã gần như trở thành một thần thoại: nó được kể đi kể lại, cho những người mới đến nhưng cũng cho những người quen cũ. Thực ra, ở trong nhà của chúng tôi một buổi trưa mà không nghe kể lại chuyện kỳ diệu đó là hiếm thấy, và thỉnh thoảng những lời kể ấy không chính xác cho lắm. Tôi nghe mẹ kể cho cả một phòng đầy những gương mặt sốt sắng rằng 65% nửa người trên của bố bị bỏng độ ba. Đó không phải là những gì tôi nhớ được. Trong ký ức của tôi phần tổn thương chính là tổn thương ngoài da – cánh tay, lưng, và vai bố không bị bỏng. Chính nửa dưới khuôn mặt và hai bàn tay bố mới bị bỏng độ ba. Nhưng tôi im lặng.

Lần đầu tiên bố mẹ tôi dường như có cùng quan điểm. Mẹ không còn làm giảm nhẹ những tuyên bố của bố sau khi bố rời khỏi phòng, không khe khẽ đưa ra ý kiến cá nhân của mình nữa. Mẹ đã bị “phép màu” ấy làm biến đổi – biến thành bố. Tôi nhớ mẹ từng là một bà đỡ trẻ, rất thận trọng, không ồn ào khoa trương về những mạng sống mà mẹ đón chào. Bây giờ mẹ chẳng mấy trầm tĩnh như vậy nữa. Chính Chúa đã hướng dẫn đôi bàn tay mẹ, và không có rủi ro nào xảy ra trừ khi đó là ý Chúa.

Một tuần sau Giáng sinh, Đại học Cambridge viết thư cho tiến sĩ Kerry, từ chối đơn của tôi.

“Cạnh tranh rất gay gắt,” tiến sĩ Kerry nói với tôi khi tôi đến văn phòng ông. Tôi cảm ơn ông và đứng dậy dợm bước đi.

“Khoan đã,” ông nói. “Trường Cambridge yêu cầu tôi viết thư phản ánh nếu tôi cảm thấy có bất cứ biểu hiện thiếu công bằng rõ rệt nào.”

Tôi không hiểu, vậy nên ông nhắc lại. “Tôi chỉ có thể giúp một sinh viên,” ông nói. “Họ dành cho em một chỗ, nếu em muốn.”

Thật không thể tin nổi tôi sẽ được nhận. Sau đó tôi hiểu rằng mình cần hộ chiếu, rằng không có giấy khai sinh thật tôi sẽ không thể lấy hộ chiếu. Một người như tôi không thuộc về trường Cambridge. Cứ như vũ trụ hiểu điều đó và cố ngăn tôi đi du học bởi việc đó khôi hài và báng bổ quá.

Tôi trực tiếp đi làm hộ chiếu. Người thư ký cười rõ to trước giấy khai sinh chậm trễ của tôi. “Chín năm!” bà ấy nói. “Chín năm thì đâu phải là chậm trễ nữa cơ chứ. Cô có giấy tờ gì khác không?”

“Có ạ,” tôi nói. “Nhưng trong mỗi giấy tờ đó ngày sinh của tôi một khác. Mỗi cái có một cái tên khác.”

Bà vẫn cười. “Ngày khác và tên khác ư? Không, như vậy không được đâu. Cô không thể làm hộ chiếu được đâu.”

Tôi đến gặp người thư ký đó thêm vài lần nữa, càng ngày càng trở nên thất vọng hơn cho tới khi, cuối cùng, một giải pháp được tìm ra. Bác Debbie của tôi đến tòa án và làm một bản khai có tuyên thệ rằng tôi là người mà tôi đã khai. Tôi được cấp hộ chiếu.

Emily sinh con vào tháng Hai. Đứa bé chỉ nặng sáu trăm gam.

Hồi Giáng sinh khi Emily bắt đầu có những cơn co thắt, mẹ tôi nói rằng cái thai sẽ phát triển theo ý Chúa. Hóa ra ý Chúa là Emily sinh tại nhà vào tuần thứ hai mươi sáu của thai kỳ.

Đêm đó có một trận bão tuyết, một trong những trận bão tuyết lớn ở vùng núi khiến các con đường vắng tanh và các thị trấn gần như khép kín. Emily sắp đẻ đến nơi mẹ tôi mới hiểu ra rằng chị cần bệnh viện. Đứa bé, mà gia đình tôi đặt tên là Peter, chào đời vài phút sau đó, tụt ra khỏi Emily dễ dàng đến mức mẹ tôi nói mẹ tóm được nó hơn là đỡ nó. Nó bất động, và xám đen như tro. Shawn nghĩ nó đã chết. Sau đó mẹ sờ và cảm nhận được nhịp tim yếu ớt của nó – thực ra mẹ nhìn thấy tim nó đập qua lớp da mỏng. Bố vội chạy tới cái xe bán tải và bắt đầu cào tuyết và băng. Shawn bế Emily và đặt chị vào băng ghế sau, sau đó mẹ để đứa bé lên ngực Emily và bọc khăn cho nó, tạo một lồng ấp tạm thời. Sau này mẹ gọi đó là phương pháp Kangaroo.

Bố tôi lái xe; bão tuyết dữ dội. Ở Idaho chúng tôi gọi đó là “bão trắng”: khi gió quất tuyết rơi mạnh đến mức nó tẩy trắng, bao phủ các con đường như bằng một tấm mạng, và bạn không thể nhìn thấy lớp nhựa đường, cũng như đồng ruộng và sông ngòi; bạn không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoài những lớp sóng tuyết trắng xóa. Bằng cách nào đó, trượt qua tuyết và mưa đá, họ vẫn đến thị trấn được, nhưng bệnh viện ở đó là bệnh viện ở vùng nông thôn, không có đủ trang thiết bị để chăm sóc cho sinh linh yếu ớt ấy. Các bác sĩ nói rằng họ phải chuyển thằng bé tới bệnh viện McKay-Dee ở Ogden sớm nhất có thể, rằng không còn thời gian. Vì bão tuyết người ta không thể đưa nó tới đó bằng máy bay trực thăng được, vậy nên các bác sĩ đưa nó tới đó bằng xe cứu thương. Thực ra họ điều hai xe cứu thương, chiếc thứ hai để phòng trường hợp chiếc thứ nhất không chống chọi nổi với bão tuyết.

Nhiều tháng trôi qua, vô số các cuộc phẫu thuật tim và phổi cho thằng bé được tiến hành trước khi Shawn và Emily mang về nhà một sinh linh bé xíu mà tôi được bảo cho biết là cháu trai mình. Khi ấy thằng bé đã qua giai đoạn nguy hiểm, nhưng các bác sĩ nói phổi của nó có thể không bao giờ phát triển đầy đủ. Có thể nó sẽ luôn ốm yếu.

Bố tôi nói Chúa đã sắp xếp cuộc chào đời này ngay khi Ngài sắp xếp vụ nổ đó. Mẹ tôi phụ họa, nói rằng Chúa đã đặt một tấm mạng lên mắt mẹ để mẹ không can thiệp vào những cơn co thắt của Emily. “Peter phải chào đời theo cách này,” mẹ nói. “Nó là một món quà từ Chúa, và Chúa ban những món quà của Ngài theo bất cứ cách nào Ngài chọn.”