Chương 28 Vở Kịch Pygmalion
Lần đầu tiên nhìn thấy trường King’s College tại Cambridge, tôi nghĩ mình đang mơ, chỉ có điều trí tưởng tượng của tôi chưa bao giờ tưởng tượng ra thứ gì đồ sộ đến thế. Ánh mắt tôi đậu trên tháp đồng hồ có những hình chạm khắc bằng đá. Tôi được dẫn đến cái tháp này, sau đó chúng tôi đi qua nó vào trường. Có một bãi cỏ được cắt xén không thể chê vào đâu được, và bên kia bãi cỏ, một tòa nhà màu trắng ngà mà tôi lờ mờ nhận ra kiểu kiến trúc Hy Lạp – La Mã. Nhưng đó là một nhà thờ kiểu Gothic, dài hơn một trăm mét, cao hơn ba mươi mét, một ngọn núi đá nổi bật giữa cảnh quan.
Tôi được dẫn đi qua nhà thờ, tới một cái sân khác, sau đó lên một cầu thang xoáy trôn ốc. Một cánh cửa được mở ra, và người dẫn đường nói cho tôi biết đó là phòng của tôi. Anh ta để tôi lại một mình để tôi được tự nhiên thoải mái. Người đàn ông dẫn đường cho tôi không biết những gì đang xảy ra với tôi là không thể hình dung nổi.
Bữa sáng của ngày hôm sau được phục vụ trong một phòng lớn. Tôi cảm thấy như đang ăn trong một nhà thờ, trần nhà như hang động, và tôi cảm thấy mình bị nhìn chằm chằm, như thể cả phòng đều biết tôi ở đó mà tôi thì không nên ở đó. Tôi chọn một bàn dài đầy các sinh viên khác đến từ BYU. Cánh phụ nữ nói chuyện với nhau về những bộ quần áo họ đã mua. Marianne đã đi mua sắm khi cô biết mình được chương trình đào tạo này nhận. “Các cậu cần những bộ đồ khác khi ở châu Âu đấy,” cô nói.
Heather đồng tình. Bà của cô đã trả tiền vé máy bay cho cô, vậy nên cô dùng số tiền đáng lẽ dành để mua vé vào việc làm mới tủ đồ của mình. “Cách ăn mặc của mọi người ở đây,” cô nói, “tinh tế hơn. Các cậu không thể mặc quần bò đi ra ngoài được.”
Tôi đã nghĩ đến việc chạy về phòng để thay chiếc áo dài tay và quần bò cùng đôi giày vải bố hiệu Keds của mình ra, nhưng tôi chẳng có gì để thay cả. Tôi chẳng có thứ gì giống như Marianne và Heather đang mặc – những chiếc áo khoác len màu tươi sáng phối rất hợp với những chiếc khăn quàng cổ trang nhã. Tôi không mua quần áo mới để tới Cambridge, bởi vì tôi phải dùng khoản vay dành cho sinh viên chỉ để trả học phí. Vả lại, tôi hiểu rằng dù tôi có những bộ đồ của Heather và Marianne chăng nữa, tôi cũng chẳng biết mặc chúng như thế nào.
Tiến sĩ Kerry xuất hiện, thông báo rằng chúng tôi được mời đi tham quan nhà thờ một vòng. Chúng tôi thậm chí được phép lên mái nhà. Chúng tôi trả khay đựng đồ ăn và đổ xô theo tiến sĩ Kerry. Tôi ở gần cuối nhóm khi chúng tôi đi sang bên kia sân.
Bước vào trong nhà thờ, tôi cảm thấy nghẹt thở. Căn phòng – nếu khoảng không gian này được gọi là một căn phòng – rộng mênh mông như có thể chứa cả đại dương. Chúng tôi được dẫn vào trong qua một cánh cửa gỗ nhỏ, sau đó bước lên cầu thang hẹp xoáy trôn ốc có những bậc đá dốc dường như không đếm xuể. Cuối cùng, cầu thang ấy dẫn tới mái nhà có độ nghiêng khá lớn, kiểu mái hình chữ V nghịch đảo được viền bởi lan can bằng đá. Gió thổi mạnh, những đám mây vần vũ trên bầu trời; quang cảnh thật ngoạn mục, thành phố như một bức tiểu họa, bị nhà nguyện thu nhỏ lại một cách tuyệt đối. Tôi quên bản thân mình, trèo lên mái dốc, rồi bước đi dọc chóp mái, để mặc gió đưa mình đi trong khi nhìn không chớp mắt những đường phố quanh co và những khoảng sân bằng đá trải ra.
“Em không sợ ngã,” một giọng nói vang lên. Tôi quay đầu lại. Đó là tiến sĩ Kerry. Ông đi theo tôi, nhưng dường như không đứng vững trên đôi chân của mình, gần như quăng người xuống mỗi khi một trận gió ào qua.
“Chúng ta có thể đi xuống ạ,” tôi nói. Tôi chạy từ chóp mái xuống lối đi bằng phẳng gần trụ tường. Tiến sĩ Kerry lại theo sau tôi nhưng những bước chân của ông không được tự nhiên cho lắm. Thay vì bước về phía trước, ông xoay người và di chuyển theo kiểu xiên nghiêng, như một con cua. Gió tiếp tục những đợt tấn công. Tôi chìa một cánh tay ra phía ông cho những bước cuối cùng dường như rất loạng choạng của ông, và ông bám lấy nó.
“Chỉ là một nhận xét thôi nhé,” ông nói khi chúng tôi đã xuống khỏi cái mái đốc. “Em đứng đó, đứng thẳng, tay xỏ túi.” Ông chỉ tay về phía những sinh viên khác. “Em có thấy họ gập người lại không? Có thấy họ bám vào tường không?” Ông nói đúng. Vài người đang đánh liều đi trên chóp mái nhưng họ đi rất rón rén, bước những bước lóng ngóng như tiến sĩ Kerry ban nãy, đi xiên nghiêng và xoay người trong gió; tất cả những người khác bám chặt lấy lan can đá, đầu gối khòng khòng, lưng cúi lom khom, như không chắc để bước đi hay bò.
Tôi đưa tay ra bám vào tường.
“Em không cần làm thế đâu,” ông nói. “Tôi không hề có ý chỉ trích.” Ông ngừng lời, như không biết nên nói gì thêm. “Tất cả các sinh viên đều thay đổi cả,” ông nói. “ Các sinh viên khác tỏ ra khá thoải mái cho tới khi chúng ta lên đến độ cao này. Giờ đây, ở rìa cao này, họ không thoải mái. Em dường như trái ngược hẳn. Đây là lần đầu tiên tôi thấy em thoải mái với bản thân em. Điều đó bộc lộ trong cách em di chuyển: cứ như em đã ở trên mái nhà này cả đời.”
Một trận gió thổi qua lan can và tiến sĩ Kerry lảo đảo, vội bám vào tường. Tôi bước lên chóp mái để ông có thể đứng dựa người vào trụ tường. Ông tròn mắt nhìn tôi, đợi một lời giải thích.
“Em đã từng lợp mái cho các lán trữ cỏ khô,” cuối cùng tôi nói.
“Vậy nên chân em khỏe hơn ư? Đó là lý do tại sao em có thể đứng vững được trong gió mạnh như thế này chăng?”
Tôi phải nghĩ trước khi tôi có thể trả lời. “Em có thể đứng được trong cơn gió mạnh như thế này, bởi vì em không cố đứng như thế,” tôi nói. “Gió chỉ là gió mà thôi. Thầy có thể đứng vững được trên mặt đất trong những cơn gió mạnh nhường này, vậy thì thầy cũng có thể đứng vững trong những cơn gió ở trên cao. Không có gì khác biệt đâu ạ. Trừ khác biệt mà ta tự nghĩ trong đầu.”
Ông nhìn tôi không chớp. Ông không hiểu.
“Em cứ thế mà đứng thôi ạ,” tôi nói. “Mọi người thì cố gắng giữ thăng bằng, khom người xuống bởi vì độ cao làm họ sợ. Nhưng cúi co ro hoặc bước xiên nghiêng như vậy là không tự nhiên. Mọi người chỉ làm cho bản thân dễ tổn thương mà thôi. Nếu mọi người có thể kiểm soát nỗi hoảng sợ thì cơn gió này chẳng là gì cả.”
“Trận gió này chẳng là gì đối với em,” ông nói.
Tôi muốn có tư duy của một học giả, nhưng dường như tiến sĩ Kerry nhìn thấy ở tôi tư duy của một thợ lợp nhà. Các sinh viên khác ở trong thư viện; tôi thì ở trong buồng lái cần cẩu.
Tuần đầu tiên trôi qua trong cảm giác lờ mờ về những bài giảng. Trong tuần thứ hai, tất cả các sinh viên được chỉ định một người thầy hướng dẫn họ làm nghiên cứu. Tôi được biết thầy hướng dẫn của mình là vị giáo sư lỗi lạc Jonathan Steinberg, nguyên phó Hiệu trưởng một trường thuộc Đại học Cambridge, người nức tiếng nhờ những bài viết về nạn tàn sát người Do Thái thời Hitler.
Tôi gặp giáo sư Steinberg lần đầu vài ngày sau đó. Tôi đợi ở phòng bảo vệ cho tới khi một người đàn ông gầy gò xuất hiện, lấy ra một bộ chìa khóa nặng trĩu và mở cánh cửa gỗ được gắn vào bức tường đá. Tôi đi theo ông lên một cầu thang xoáy trôn ốc và vào tháp đồng hồ, nơi có một căn phòng tràn ngập ánh sáng với những đồ nội thất đơn giản: hai chiếc ghế tựa và một chiếc bàn gỗ.
Tôi có thể nghe thấy máu dồn lên qua mạch đập dồn đập phía sau tai mình khi tôi ngồi xuống. Giáo sư Steinberg ngoài bảy mươi tuổi nhưng tôi sẽ không miêu tả ông là một ông già. Ông nhanh nhẹn, và đôi mắt ông bao quát căn phòng đầy tinh anh. Ông nói năng lưu loát và có chừng mực.
“Tôi là giáo sư Steinberg,” ông nói. “Em muốn đọc gì?”
Tôi nói lí nhí gì đó về việc chép sử. Tôi đã quyết định nghiên cứu không phải lịch sử mà là các nhà sử học. Tôi cho rằng mối quan tâm của tôi bắt nguồn từ việc tôi cảm thấy sự vô căn cứ khi tôi học về cuộc tàn sát người Do Thái thời Hitler và phong trào dân quyền – từ khi tôi hiểu ra rằng những gì con người ta biết về quá khứ bị giới hạn, và sẽ luôn bị giới hạn, trong phạm vi những gì mà ta được những người khác kể cho biết. Tôi đã hiểu quan niệm sai lầm được sửa lại cho đúng nghĩa là gì – một quan niệm trọng đại nhường ấy mà đổi dời nó là đổi dời thế giới. Giờ đây, tôi cần hiểu những người gác cổng vĩ đại của lịch sử đã chịu chấp nhận sự dốt nát và phiến diện của bản thân họ như thế nào. Tôi nghĩ nếu tôi có thể chấp nhận rằng những gì họ đã viết ra là không hoàn toàn đúng sự thật mà là kết quả một quá trình thiên lệch của những đàm luận và duyệt xét, thì có lẽ tôi có thể làm cho chính mình chấp nhận sự thật rằng lịch sử mà hầu hết mọi người đều tán thành không phải là lịch sử mà tôi đã được dạy. Bố tôi có thể đã sai, và các nhà sử học vĩ đại như Carlyle, Macaulay và Trevelyan có thể đã sai, nhưng từ tro tàn của cuộc bàn cãi giữa họ, tôi có thể xây dựng một thế giới để sống trong đó. Biết mặt đất hóa ra chẳng phải là mặt đất, tôi hy vọng mình có thể đứng trên đó.
Tôi không tin mình có thể diễn đạt điều này. Khi tôi nói xong, giáo sư Steinberg nhìn tôi một lát, rồi nói, “Hãy kể cho tôi nghe về quá trình giáo dục của em. Em đã học phổ thông ở đâu?”
Ngay lập tức căn phòng như bị rút hết không khí.
“Em lớn lên ở Idaho,” tôi nói.
“Và em học phổ thông ở đó?”
Nhớ lại cuộc gặp gỡ ấy tôi chợt nảy ra ý nghĩ có thể ai đó đã kể với giáo sư Steinberg về tôi, có lẽ tiến sĩ Kerry đã kể. Hoặc có lẽ ông nhận thấy rằng tôi đang lảng tránh câu hỏi của ông, và điều đó khiến ông tò mò. Dù vì lý do gì chăng nữa, ông cũng không hài lòng cho tới khi tôi thú nhận rằng tôi chưa từng học phổ thông.
“Thật tuyệt,” ông mỉm cười và nói. “Cứ như tôi lạc vào vở Pygmalion của Shaw.”
Tôi gặp giáo sư Steinberg hằng tuần trong hai tháng. Tôi chưa bao giờ được giao cho đọc bất cứ thứ gì. Tôi chỉ đọc những gì tôi xin được đọc, dù là một cuốn sách hoặc một trang tài liệu.
Không vị giáo sư nào của tôi ở BYU từng xem xét các bài viết của tôi như cách giáo sư Steinberg đã làm. Không dấu phẩy, dấu chấm, không tính từ hay trạng từ nào là không đáng quan tâm đối với ông. Ông không phân biệt giữa ngữ pháp và nội dung, giữa hình thức và bản chất. Một câu viết dở là một ý tưởng được hình thành dở ẹc, và theo quan điểm của ông logic ngữ pháp cần được chỉnh sửa nhiều. “Hãy nói cho tôi biết,” ông thường nói, “tại sao em lại đặt dấu phẩy ở đây? Em hy vọng thiết lập mối quan hệ gì giữa những cụm từ này?” Thỉnh thoảng khi tôi đưa ra lời giải thích ông nói, “Hoàn toàn chính xác,” và những lần khác ông sửa cho tôi bằng cách giảng giải rõ dài về cú pháp.
Sau khi gặp giáo sư Steinberg trong một tháng trời, tôi viết một bài luận so sánh Edmund Burke với Publius, bút danh được James Madison, Alexander Hamilton và John Jay sử dụng để viết Tập tiểu luận Liên bang. Trong hai tuần tôi hầu như không ngủ: bất cứ lúc nào mắt tôi mở, tôi đều đọc hoặc nghĩ về tập tiểu luận đó.
Nhờ bố mình, tôi biết rằng những cuốn sách ra đời nếu không được yêu thích thì là để bị đày ải. Những cuốn sách của Chúa – những cuốn sách được các nhà tiên tri Mặc Môn hoặc những nhà lập quốc viết – là để nâng niu hơn là để mổ xẻ, bởi nó vốn đã hoàn hảo. Tôi đã được dạy cách đọc ngôn từ của những con người như Madison, đó tựa như chiếc khuôn mà tôi phải đổ thứ vữa của trí óc mình vào đó, để được tạo hình lại theo những đường nét của hình mẫu hoàn hảo. Tôi đọc họ để biết phải nghĩ gì, chứ không phải nghĩ như thế nào cho bản thân tôi.
Những cuốn sách không thuộc về Chúa thì phải bị lánh xa; những cuốn sách đó là hiểm họa, chứa đựng sự xảo trá đây sức mạnh và mời gọi.
Để viết bài luận tôi phải đọc sách theo cách khác, không để bản thân bị chi phối bởi nỗi sợ hãi hay niềm yêu thích. Vì Burke bảo vệ chế độ quân chủ Anh, bố tôi nói ông là tay sai của chính thể bạo chúa. Bố sẽ không muốn có cuốn sách như vậy trong nhà bố. Tôi cảm thấy rất hồi hộp khi tin tưởng vào bản thân và đọc cuốn sách này. Tôi có cảm giác hồi hộp y như vậy khi đọc Madison, Hamilton và Jay, đặc biệt vào những dịp tôi bác bỏ lập luận của họ vì ủng hộ ý kiến của Burker, hoặc khi dường như đối với tôi ý kiến của họ không thực sự khác biệt ở nội dung, mà chỉ ở hình thức. Có những giả thiết tuyệt vời trong phương pháp đọc này: rằng những cuốn sách không phải là trò bịp bợm, và rằng tôi không phải là kẻ nhu nhược.
Tôi hoàn thành bài luận và gửi nó cho giáo sư Steinberg. Hai ngày sau, khi tôi đến gặp ông theo lịch, ông bình thản như không. Ông chăm chú nhìn tôi từ phía bên kia bàn. Tôi đợi ông nói rằng bài luận của tôi là một thảm họa, một sản phẩm của bộ óc dốt nát, rằng tôi đã chẳng lượng sức mình, đã tham rút ra quá nhiều kết luận từ những tài liệu quá ít ỏi.
“Tôi đã dạy ở Cambridge ba mươi năm,” ông nói. “Và đây là một trong những bài luận xuất sắc nhất mà tôi từng đọc.”
Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho những lời bài bác chứ không phải cho lời khen ngợi này.
Giáo sư Steinberg chắc hẳn đã nói nhiều hơn về bài luận, nhưng tôi không nghe thấy gì cả. Đầu óc tôi tập trung toàn bộ cho nhu cầu khẩn thiết muốn thoát khỏi căn phòng đó. Vào khoảnh khắc ấy tôi không còn ở trong tháp đồng hồ của trường Cambridge nữa. Tôi mười bảy tuổi, trong một chiếc xe jeep màu đỏ, và chàng trai tôi yêu vừa mới chạm vào tay tôi. Tôi chạy trốn.
Tôi có thể chịu đựng bất cứ kiểu tàn nhẫn nào hơn là chịu đựng lòng tốt. Lời ngợi khen là độc dược đối với tôi; tôi không nuốt nổi nó. Tôi muốn giáo sư trách mắng tôi, tha thiết muốn đến nỗi tôi cảm thấy choáng váng vì bị tước đoạt điều đó. Cần có ai đó vạch trần sự xấu xa của tôi. Nếu nó không được biểu đạt trong giọng nói của ông thì tôi cần biểu đạt nó trong giọng nói của chính mình.
Tôi không nhớ mình đã rời khỏi tháp đồng hồ, hoặc đã vượt qua được buổi chiều hôm đó như thế nào. Tối hôm đó có một bữa tối trang trọng. Phòng ăn tắm trong ánh nến, đẹp lung linh, nhưng nó khiến tôi hớn hở vì lý do khác: tôi không ăn vận trang trọng, chỉ mặc một chiếc sơ mi đen và quần tây màu đen, và tôi nghĩ trong ánh sáng lờ mờ mọi người sẽ không chú ý. Laura, bạn của tôi, đến muộn. Cô giải thích rằng bố mẹ cô đến thăm và đưa cô sang Pháp. Cô chỉ vừa mới trở lại trường. Cô mặc một chiếc váy màu tím rịm xếp ly cứng ở phần chân váy. Diềm váy bồng bềnh phía trên đầu gối cô vài phân, và trong phút chốc tôi nghĩ chiếc váy đó trông dâm đãng thế nào ấy, cho tới khi cô nói bố cô đã mua nó cho cô ở Paris. Món quà từ bố của một người thì không thể dâm đãng được. Món quà bố mua cho con, đối với tôi, dường như là dấu hiệu rõ rành rành rằng người con ấy không phải là đĩ điếm. Tôi đấu tranh với mâu thuẫn này – một bộ váy dâm đãng, được tặng cho đứa con gái yêu – cho tới khi bữa ăn kết thúc và những chiếc đĩa được dọn đi.
Trong buổi hướng dẫn tiếp theo, giáo sư Steinberg nói rằng khi tôi nộp đơn đăng ký học sau đại học, ông chắc chắn tôi sẽ được nhận dù tôi chọn trường nào. “Em đã đến thăm Harvard chưa?” Ông hỏi. “Hay em thích Cambridge hơn?”
Tôi mường tượng ra mình ở Cambridge, một sinh viên tốt nghiệp đại học mặc chiếc áo choàng đen dài lụng thụng kêu sột soạt khi tôi sải bước qua những hành lang cổ kính. Sau đó tôi mường tượng mình gập người trong phòng vệ sinh, một cánh tay để sau lưng, đầu ở trong bồn cầu. Tôi cố tập trung vào hình ảnh sinh viên nhưng không thể. Tôi không thể hình dung ra cô gái trong chiếc áo choàng đen xoay tròn mà không nhìn thấy đứa con gái kia. Học giả hay con đĩ, cả hai không thể đều là thực. Một trong hai người đó là giả.
“Em không thể học cao học,” tôi nói. “Em không trả nổi học phí ạ.”
“Cứ để chuyện học phí tôi lo,” giáo sư Steinberg nói.
Vào cuối tháng Tám, trong đêm cuối cùng của chúng tôi ở Cambridge, có một bữa tối chia tay ở hội trường. Những chiếc bàn được bày biện nhiều dao nĩa và ly cốc mà tôi chưa từng thấy; những bức tranh trên tường dường như trông đầy vẻ ma mị trong ánh nến. Tôi cảm thấy bị vẻ tao nhã ở đó bóc trần, nhưng đồng thời cũng được nó làm cho trở nên vô hình. Tôi nhìn không chớp mắt những sinh viên khác khi họ đi qua, dán mắt vào từng chiếc váy lụa, từng con mắt được kẻ mi đậm. Tôi bị vẻ đẹp của chúng ám ảnh.
Trong bữa tối, tôi lắng nghe những cuộc tán gẫu vui vẻ của bạn bè trong khi khát khao được cô lập trong phòng riêng của mình. Giáo sư Steinberg ngồi tại chiếc bàn cao. Mỗi lần tôi liếc nhìn ông, tôi cảm thấy một bản năng cũ trỗi dậy trong tôi, làm cơ bắp của tôi căng lên, chuẩn bị cho tôi trốn chạy.
Tôi rời khỏi phòng lúc món tráng miệng được mang tới. Thật nhẹ cả người khi trốn khỏi khung cảnh tao nhã và đẹp đẽ đó – để được phép vô duyên và không còn là cái tương phản. Tiến sĩ Kerry nhìn thấy tôi rời khỏi phòng bèn đi theo tôi.
Trời tối. Bãi cỏ đen sẫm, bầu trời còn đen hơn. Những cột ánh sáng trắng lóa vươn cao từ mặt đất khiến nhà thờ tắm trong ánh sáng lung linh như ánh trăng trên nền trời đêm.
“Em đã gây ấn tượng với giáo sư Steinberg đấy,” tiến sĩ Kerry nói trong khi bước đi song song với tôi. “Tôi chỉ hy vọng ông ấy gây ấn tượng với em.”
Tôi không hiểu.
“Đi lối này,” ông nói, rẽ về phía nhà thờ. “Tôi có điều muốn nói với em.”
Tôi bước đi sau ông, nhận thấy mình bước đi thật lặng lẽ, ý thức được rằng đôi giày vải của hãng Keds gõ xuống lối đi lát đá không được tao nhã như giày cao gót của các cô gái khác.
Tiến sĩ Kerry nói rằng ông đã quan sát tôi. “Em hành động như người đóng vai kẻ khác. Cứ như em nghĩ cuộc sống của em phụ thuộc vào điều đó.”
Tôi không biết phải nói gì, vậy nên tôi im lặng.
“Em không bao giờ chợt nghĩ rằng,” ông nói, “có lẽ em cũng có quyền ở đây như bất cứ ai khác.”
Ông đợi lời giải thích.
“Em thích phục vụ bữa tối,” tôi nói, “hơn là ăn ạ.”
Tiến sĩ Kerry mỉm cười. “Em nên tin giáo sư Steinberg. Ông ấy nói em là một học giả – ‘là vàng ròng’ – tôi đã nghe thấy ông ấy nói, em là vàng ròng đấy.”
“Nơi đây thật kỳ diệu.” tôi nói. “Ở đây mọi thứ đều tỏa sáng.”
“Em đừng cho phép bản thân mình nghĩ như vậy,” tiến sĩ Kerry nói, giọng ông lên cao. “Em không phải là vàng của kẻ ngốc, chỉ lấp lánh dưới một thứ ánh sáng tầm thường đâu. Dù em trở thành ai, dù em biến bản thân thành điều gì, thì em cũng luôn là vậy. Nó luôn ở trong em. Không phải ở Cambridge. Mà là ở trong em. Em là vàng. Và việc trở lại BYU, hoặc thậm chí trở về dãy núi nơi em sinh ra, cũng sẽ không thay đổi con người thực sự của em. Việc đó có thể làm thay đổi cách nhìn của người khác về em, việc đó thậm chí có thể thay đổi cách em nhìn nhận bản thân – thậm chí vàng có vẻ mờ xỉn trong thứ ánh sáng nào đó – nhưng đó là người ta tưởng vậy thôi. Vàng vẫn cứ là vàng.”
Tôi muốn tin ông, muốn giữ lấy những lời ông nói để làm mới bản thân, nhưng tôi chưa bao giờ có thứ niềm tin đó. Dù tôi chôn vùi những ký ức sâu bao nhiêu, dù tôi nhắm mắt chặt đến mức nào để ngăn chặn chúng, khi tôi nghĩ về bản thân, những hình ảnh về đứa con gái ấy cứ hiện lên trong đầu tôi, những hình ảnh về đứa con gái trong phòng vệ sinh, trong bãi đỗ xe.
Tôi không thể kể với tiến sĩ Kerry về đứa con gái đó. Tôi không thể nói cho ông biết lý do tôi không thể trở lại Cambridge – là vì ở đây mỗi giây phút hứng chịu bạo lực và bị mất giá trị của đời tôi trở nên nổi bật quá. Ở BYU tôi gần như có thể quên, cho phép những gì thuộc về thời gian trước kia hòa trộn vào những gì ở đó. Nhưng ngược lại, ở đây quá tuyệt, thế giới trước mắt tôi tuyệt diệu quá. Những ký ức ấy càng trở nên thật hơn, đáng tin hơn cả những tháp nhọn bằng đá.
Đối với bản thân, tôi giả vờ rằng có những lý do khác mà tôi không thể ở Cambridge được, những lý do liên quan đến đẳng cấp và thân phận: rằng vì tôi nghèo, tôi lớn lên trong cảnh nghèo. Bởi vì tôi có thể đứng trong gió trên nóc nhà thờ mà không nghiêng ngả. Tôi là người không thuộc về Cambridge: một đứa lợp nhà, không phải là con đĩ. Mình có thể đến trường, tôi đã viết trong nhật ký vào buổi trưa hôm đó. Và mình có thể mua những bộ đồ mới. Nhưng mình vẫn là Tara Westover. Mình đã làm những công việc mà không sinh viên Cambridge nào làm. Cứ cho chúng ta ăn vận theo bất cứ cách nào mà bạn thích, nhưng chúng ta vẫn đâu có giống nhau. Quần áo không thể khắc phục được những gì sai hỏng trong tôi. Có gì đó đã thối rữa ở bên trong tôi, và mùi hôi thối quá nặng, cái lõi cũng đã thối hoắc không thể lấy quần áo mà che đậy được.
Tôi không biết tiến sĩ Kerry có nghi ngờ chút nào về phần đó ở tôi hay không. Nhưng ông hiểu rằng tôi đã coi quần áo là biểu tượng cho thấy tại sao tôi đã không và không thể thuộc về nơi này. Đó là điều cuối cùng ông nói với tôi trước khi ông bước đi, bỏ lại tôi đứng chôn chân trong kinh ngạc bên thánh đường đồ sộ ấy.
“Yếu tố quan trọng nhất quyết định em là ai ở bên trong con người em,” ông lên tiếng, Giáo sư Steinberg nói, nơi đây chính là vở Pygmalion đấy. Hãy nghĩ về câu chuyện đó, Tara ạ.” Ông ngừng một lát, ánh mắt sôi sục, giọng nói nhức nhối. “Nàng chỉ là một cô gái quê mùa khoác lên mình bộ cánh đẹp. Cho tới khi nàng tin vào bản thân. Khi đó, nàng ăn vận như thế nào không còn quan trọng.”[1]
Chú thích:
[1] Dường như tiến sĩ Kerry đang nói tới nàng Eliza — cô gái bán hoa trong vở nhạc kịch My Fair Lady do Bernard Shaw chuyển thể từ huyền thoại Hy Lạp cổ - Pygmalion. Nàng từng tâm sự với Pickering rằng: “… nhưng em biết rằng em có thể là một quý bà đối với anh, bởi vì anh luôn trân trọng em như một quý bà.”