← Quay lại trang sách

Chương 29 Tốt Nghiệp

Chương trình học kết thúc và tôi trở về BYU. Khu đại học trông như nó vốn thế, và luôn thật dễ để quên trường Cambridge và trở lại với cuộc sống mà tôi đã sống ở đó. Nhưng giáo sư Steinberg đã bảo đảm rằng tôi sẽ không quên. Ông gửi cho tôi mẫu đơn xin một thứ được gọi là Học bổng Gates Cambridge, mà ông giải thích là khá giống học bổng Rhodes, nhưng tại trường Cambridge thay vì Oxford. Học bổng đó cung cấp toàn bộ tài chính cho tôi học tại Cambridge, gồm tiền học phí, tiền ăn ở. Theo những gì tôi biết nó nằm ngoài tầm với của những người như tôi, nhưng ông cứ khăng khăng rằng không phải vậy, thế nên tôi nộp đơn.

Không lâu sau, tôi nhận thấy điều sự khác biệt, một sự thay đổi nhỏ nữa. Một buổi tối tôi ngồi với Mark, người bạn đang nghiên cứu ngôn ngữ cổ. Giống như tôi và hầu hết mọi sinh viên ở BYU, Mark là người Mặc Môn.

“Cậu nghĩ người ta có nên nghiên cứu lịch sử hội thánh không?” Cậu hỏi.

“Có,” tôi nói.

“Ngộ nhỡ cái đó khiến họ không vui thì sao?” Tôi nghĩ rằng tôi biết cậu muốn nói gì, nhưng tôi đợi cậu giải thích. “Nhiều phụ nữ đã đấu tranh với đức tin của họ sau khi họ biết về chế độ đa thê,” cậu nói. “Mẹ mình chẳng hạn. Mình không nghĩ mẹ hiểu nó.

“Thì mình cũng có hiểu nó đâu,” tôi nói.

Có một quãng im lặng căng thẳng. Cậu đợi tôi nói câu của mình: rằng tôi đang cầu nguyện cho đức tin. Tôi đã cầu nguyện như thế nhiều, nhiều lần rồi.

Có lẽ cả hai chúng tôi đều đang nghĩ về lịch sử của mình, hoặc có lẽ chỉ tôi nghĩ mà thôi. Tôi nghĩ về Joseph Smith, người có tới bốn mươi bà vợ. Brigham Young có năm mươi lăm người vợ và năm mươi sáu người con. Giáo hội đã xóa bỏ tục đa thê trong thế tục vào năm 1890, nhưng chưa bao giờ công khai xóa bỏ học thuyết này. Khi còn nhỏ tôi đã được dạy – được bố tôi dạy cũng như được dạy ở lớp học giáo lý – rằng cuối cùng Chúa sẽ khôi phục tục đa thê, và ở kiếp sau tôi sẽ là vợ của một người chồng đa thê. Số chị em chung chồng với tôi sẽ phụ thuộc vào sự công bình của chồng tôi: chồng tôi càng sống cao thượng thì anh càng được ban cho nhiều vợ.

Tôi chưa bao giờ chấp nhận điều đó. Khi còn là một cô bé, tôi thường tưởng tượng mình ở trên thiên đường, mặc chiếc váy bồng trắng muốt, đứng đối diện với chồng mình trong màn sương lung linh như ngọc trai. Nhưng khi quang cảnh mở rộng ra tôi thấy có mười người phụ nữ đứng sau chúng tôi, cũng mặc váy trắng y hệt. Trong trí tưởng tượng của mình tôi là vợ cả nhưng tôi biết chẳng có gì bảo đảm điều đó; tôi có thể bị giấu ở bất cứ đâu trong chuỗi dài thê thiếp ấy. Tôi nhớ từ lâu lắm rồi hình ảnh này đã nằm ở trung tâm ý niệm của tôi về thiên đường: chồng tôi và những người vợ của chồng tôi. Có nỗi chua chát trong phép toán này: nhờ sự sắp đặt linh thiêng của thiên đường, một người đàn ông có thể cân bằng phương trình cho vô số phụ nữ.

Tôi nhớ đến cụ tổ của tôi. Lần đầu tiên tôi nghe tên cụ khi tôi mười hai tuổi, cái tuổi mà theo thuyết Mặc Môn, bạn chuyển từ trẻ con sang một phụ nữ. Ở tuổi mười hai, chúng tôi bắt đầu học các bài học giáo lý xuất hiện những từ như trong trắng và trinh bạch.

Đó cũng là độ tuổi mà tôi được yêu cầu tìm hiểu về một trong những bậc tổ tiên của mình – như được giáo hội phân công vậy. Tôi hỏi mẹ tôi nên chọn cụ tổ nào, và không nghĩ ngợi mẹ nói, “Anna Mathea.” Tôi nói to cái tên đó. Nó lơ lửng trên lưỡi tôi như mở ra một câu chuyện cổ tích. Mẹ nói tôi nên tôn kính Anna Mathea bởi vì cụ đã tặng tôi một món quà: giọng của cụ.

“Chính giọng nói của cụ đã đưa gia đình ta đến với giáo hội,” mẹ nói. “Cụ nghe các nhà truyền giáo Mặc Môn giảng đạo trên các đường phố ở Na Uy. Cụ cầu nguyện, và Chúa đã ban cho cụ đức tin, cùng với sự hiểu biết rằng Joseph Smith là nhà tiên tri của Chúa. Cụ nói với cha cụ, nhưng cha cụ đã nghe những câu chuyện về những người Mặc Môn và không cho phép cụ được rửa tội. Vậy nên cụ hát cho cha nghe. Cụ hát một bài thánh ca Mặc Môn có tên là “Cha tôi.” Khi cụ hát xong, mắt cha cụ rớm lệ. Người cha nói rằng bất cứ tôn giáo nào có âm nhạc tuyệt vời như vậy chắc hẳn phải là công việc của Chúa. Cha con cụ rửa tội cùng nhau.”

Sau khi cụ Anna Mathea cải đạo cho cha mẹ mình, gia đình cảm thấy được Chúa kêu gọi đến Mỹ và gặp nhà tiên tri Joseph. Họ tiết kiệm tiền cho hành trình đó, nhưng sau hai năm họ chỉ có thể đưa được nửa gia đình đi. Anna Mathea bị bỏ lại.

Cuộc hành trình dài, đầy gian nan và khi họ đến được Idaho, tới một khu định cư của người Mặc Môn có tên là Worm Creek, mẹ của Anna bị ốm thập tử nhất sinh. Nguyện vọng cuối cùng của cụ là được gặp lại con gái, vậy nên người cha viết thư cho Anna, khẩn nài cụ dùng tất cả những đồng tiền mà cụ có để sang Mỹ. Anna khi ấy đang yêu và sắp kết hôn, nhưng cụ bỏ người yêu ở lại Na Uy và vượt biển. Mẹ của cụ qua đời trước khi cụ đặt chân lên đất Mỹ.

Gia đình lúc bấy giờ rất nghèo túng; không có tiền để Anna về với chồng chưa cưới, về với cuộc hôn nhân mà cụ đã gác lại. Anna là một gánh nặng tài chính đối với cha cụ vậy nên một vị giám mục thuyết phục cụ kết hôn với một chủ trang trại giàu có và làm vợ lẽ của người đó. Người vợ đầu không sinh nở được, và bà ta ghen lồng ghen lộn khi Anna có mang. Anna lo người vợ cả sẽ làm hại con của mình, vậy nên cụ trở về sống với cha, và ở đó cụ sinh đôi, dù chỉ một trong hai đứa con của cụ sống sót qua mùa đông khắc nghiệt ở miền biên viễn.

Mark vẫn đang đợi. Sau đó cậu bỏ cuộc và lẩm bẩm những lời mà đáng lẽ tôi sẽ nói, rằng cậu không hiểu một cách đầy đủ, nhưng cậu biết tục đa thê là một nguyên tắc của Chúa.

Tôi đồng ý. Tôi nói những lời ấy, sau đó tôi gồng mình chuẩn bị chống đỡ cơn sóng nhục nhã tràn tới – vì hình ảnh đó xâm chiếm những ý nghĩ của tôi, về tôi, một trong nhiều người vợ đứng sau một người đàn ông vô danh, cô độc – nhưng nó không tới. Tôi tìm kiếm trong tâm trí và khám phá ra một niềm tin mới: tôi sẽ không bao giờ làm vợ của một người chồng đa thê. Một giọng nói dứt khoát tuyên bố điều này, không nhượng bộ; lời tuyên bố khiến tôi run rẩy. Ngộ nhỡ Chúa bắt phải làm thế thì sao? Tôi hỏi. Mi sẽ không làm, giọng nói đó trả lời. Và tôi biết đó là sự thật.

Tôi lại nghĩ đến cụ tổ Anna Mathea của mình, tự hỏi đó là thế giới kiểu gì mà ở đó cụ, theo một nhà tiên tri, có thể bỏ người yêu, vượt đại dương, bước vào một cuộc hôn nhân không tình yêu, làm vợ lẽ, rồi chôn đứa con đầu lòng, chỉ để rồi sau hai thế hệ, đứa chắt gái của cụ, cũng vượt qua chính đại dương ấy, trở thành một kẻ hoài nghi.

Tôi là hậu duệ của Anna Mathea: cụ đã cho tôi giọng của cụ. Phải chăng cụ đã không cho tôi đức tin?

Tôi lọt vào danh sách chung khảo cho học bổng Gates. Sẽ có một cuộc phỏng vấn vào tháng Hai ở Annapolis. Tôi không biết phải chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn đó như thế nào. Robin lái xe đưa tôi tới Park City, nơi có một cửa hàng giảm giá của hãng Ann Taylor, và giúp tôi mua một bộ âu phục màu xanh hải quân để kết hợp với giày lười. Tôi chẳng có một chiếc túi xách tay nào vậy nên Robin cho tôi mượn chiếc túi của chị.

Hai tuần trước cuộc phỏng vấn, bố mẹ tôi đến BYU. Trước đó bố mẹ chưa bao giờ đến thăm tôi, nhưng họ đang trên đường đi Arizona nên dừng chân để ăn tối. Tôi đưa bố mẹ đến một tiệm ăn của người Ấn ở bên kia đường, đối điện với căn hộ của tôi.

Người bồi bàn nhìn khuôn mặt của bố tôi không chớp một lúc khá lâu, sau đó đôi mắt cô ta lồi ra khi nhìn xuống hai bàn tay của bố. Bố gọi nửa thực đơn. Tôi nói ba món chính là đủ, nhưng bố nháy mắt nói tiền không thành vấn đề. Dường như tin đồn về khả năng hồi phục kỳ diệu của bố đã lan đi, khiến bố mẹ tôi ngày càng có nhiều khách hàng. Các sản phẩm của mẹ được gần như mọi bà đỡ và các thầy lang ở Mountain West lấy về bán.

Chúng tôi đợi thức ăn, và bố hỏi về chuyện học hành của tôi. Tôi nói tôi đang học tiếng Pháp. “Đó là ngôn ngữ của lũ theo chủ nghĩa xã hội,” bố nói, rồi bố giảng hai mươi phút về lịch sử của thế kỷ hai mươi. Bố nói các chủ nhà băng người Do Thái ở châu Âu đã ký những thỏa thuận bí mật châm ngòi Thế Chiến thứ hai, và rằng họ đã thông đồng với người Do Thái ở Mỹ để trả tiền cho cuộc chiến đó. Bố nói bọn họ đã sắp đặt “Diệt chủng”, bởi vì họ sẽ kiếm lợi từ tình hình bất ổn trên khắp thế giới. Vì tiền, họ điều người của họ tới những buồng hơi ngạt.

Những ý kiến này khá quen thuộc đối với tôi, nhưng tôi phải mất một lát để nhớ xem mình đã nghe chúng ở đâu rồi: trong một bài giảng của tiến sĩ Kerry về tập Nghị định thư của các bô lão Zion. Tập Nghị định thư được xuất bản năm 1903, được cho là ghi lại một cuộc gặp bí mật giữa những người Do Thái có quyền lực lập kế hoạch thống trị thế giới. Người ta nghi tài liệu đó bị làm giả nhưng nó vẫn lan truyền, kích động chủ nghĩa bài Do Thái trong nhiều thập kỷ trước Thế Chiến thứ hai. Adolf Hitler đã viết về tập Nghị định thư này trong cuốn Cuộc tranh đấu của tôi, tuyên bố rằng tài liệu đó là thật, rằng chúng tiết lộ bản chất thật của người Do Thái.

Bố nói to, âm lượng phù hợp với vùng núi non trùng điệp đấy nhưng lại như sấm nổ trong một nhà hàng nhỏ. Những người ngồi ở các bàn gần đó đều dừng trò chuyện và im lặng, lắng nghe cuộc trò chuyện của chúng tôi. Tôi tiếc là đã chọn một nhà hàng gần căn hộ của mình như thế.

Từ Thế Chiến thứ hai, bố chuyển sang nói về Liên hợp quốc, về Liên minh châu Âu, và sự hủy diệt sắp xảy ra đối với thế giới. Bố nói như đó là ba từ đồng nghĩa. Món cà ri được mang tới và tôi tập trung vào nó. Mẹ đã mệt với bài giảng của bố, và bảo bố hãy nói chuyện khác.

“Nhưng sắp đến ngày tận thế rồi!” bố nói. Thực ra không phải là nói, mà bố gào lên.

“Hẳn thế,” mẹ nói. “Nhưng đừng bàn về nó suốt bữa tối của chúng ta có được không.”

Tôi đặt nĩa xuống, nhìn bố mẹ chằm chằm. Trong tất cả những câu nói tuôn ra suốt nửa giờ qua, không hiểu sao câu này là câu khiến tôi bị sốc. Sự thật đơn thuần về họ chưa từng khiến tôi bị sốc. Tất cả những gì họ đã làm đối với tôi luôn hợp lý, trung thành với một logic mà tôi hiểu được. Có lẽ đó là tấm phông nền: núi Buck là của họ và nó ngụy trang cho họ, để khi tôi thấy họ ở đó, với những di tích của tuổi thơ tôi vây quanh, họ dường như bị môi trường hấp thu. Chí ít nó cũng hấp thu cái ồn ào. Nhưng ở đây, rất gần trường đại học, họ dường như không có thực đến mức gần như thuộc về thần thoại.

Bố nhìn tôi, đợi tôi đưa ra ý kiến, nhưng tôi cảm thấy bị chính bản thân xa lánh. Tôi không biết mình phải là ai. Ở trên núi, tôi tự động lẩn vào giọng nói của con gái họ và người theo hầu của họ. Nhưng ở đây, dường như tôi không thể tìm thấy cái giọng nói mà, dưới bóng núi Buck, thường đến dễ dàng.

Chúng tôi cuốc bộ về căn hộ của tôi và tôi dẫn bố mẹ tới phòng mình. Mẹ đóng cửa, phát hiện ra một tấm áp-phích chân dung Martin Luther King Jr. mà bốn năm trước tôi đã dán lên khi tôi học về phong trào dân quyền.

“Đó là Martin Luther King phải không?” Bố hỏi. “Con không biết ông ta có quan hệ với cộng sản sao?” Bố cắn mẩu mô như sáp mà trước kia từng là môi bố.

Bố mẹ mau chóng rời khỏi đó để lái xe xuyên đêm. Tôi nhìn họ đi, rồi lấy cuốn nhật ký ra. Thật kinh ngạc là mình đã từng tin điều này mà không gợn chút nghi ngờ, tôi viết. Cả thế giới sai; chỉ bố đúng.

Tôi đã nghĩ về điều mà Stefanie, vợ của Tyler, từng nói với tôi qua điện thoại vài ngày trước. Stefanie nói chị phải mất nhiều năm mới thuyết phục được Tyler cho phép chị đưa các con của anh chị đi tiêm chủng, bởi vì anh phần nào vẫn tin vaccine là một âm mưu của hệ thống y tế. Giờ đây nhớ lại điều đó, với giọng nói của bố vẫn ong ong trong đầu, tôi cười nhạo anh trai mình. Anh ấy là một nhà khoa học cơ đấy! Tôi viết. Sao anh lại không thể vượt thoát chứng hoang tưởng của bố mẹ nhỉ! Tôi đọc lại những gì mình đã viết, và khi tôi làm vậy thái độ khinh thường của tôi nhường chỗ cho nỗi mỉa mai. Có nghĩa là, tôi viết. Hẳn mình có thể chế nhạo Tyler một cách thuyết phục nếu mình không nhớ, như mình vừa mới nhớ, rằng cho đến ngày hôm nay mình chưa từng được tiêm chủng.

Cuộc phỏng vấn giành học bổng Gates của tôi diễn ra tại trường Đại học St. John ở Annapolis. Khuôn viên của nó khiến tôi choáng, với những bãi cỏ không chê vào đâu được và lối kiến trúc thời thuộc địa cầu kỳ. Tôi căng thẳng ngồi ở hành lang, đợi được gọi vào phỏng vấn. Tôi cảm thấy cứng người trong bộ đồ tây và tôi ngượng nghịu cầm chiếc túi xách tay của Robin. Nhưng cuối cùng giáo sư Steinberg đã viết một bức thư giới thiệu thuyết phục đến nỗi tôi chẳng còn gì nhiều để làm.

Ngày hôm sau tôi nhận được thư xác nhận: tôi đã giành được học bổng đó.

Những cuộc gọi bắt đầu – từ báo sinh viên của trường BYU và từ các báo địa phương. Tôi trả lời phỏng vấn năm, sáu cuộc. Tôi lên truyền hình. Tôi thức dậy lúc một giờ sáng thấy ảnh mình tràn ngập trên trang web của BYU. Tôi là sinh viên thứ ba của BYU từng giành học bổng Gates, và trường đại học đang tận dụng báo chí. Tôi được phỏng vấn xem tôi đã học trung học ra sao, và giáo viên nào đã giúp tôi đạt được thành tích như ngày nay. Tôi lẩn tránh, đánh trống lảng, nói dối khi tôi buộc phải thế. Tôi không nói cho bất cứ phóng viên nào biết mình chưa từng học phổ thông.

Tôi không biết tại sao mình lại không thể kể với họ. Tôi chỉ không thể chịu nổi ý nghĩ mọi người vỗ lưng tôi, nói với tôi rằng tôi thật ấn tượng. Tôi không muốn là Horatio Alger trong sự thần phục đẫm nước mắt đối với giấc mơ Mỹ. Tôi muốn cuộc đời mình là có thể hiểu được, mà với tôi trong chuyện đó chẳng gì có thể hiểu nổi.

Một tháng trước khi tốt nghiệp đại học, tôi về thăm núi Buck. Bố đã đọc các bài báo về học bổng của tôi, và những gì bố nói là, “Con chẳng nhắc đến chuyện con học ở nhà gì cả. Bố nghĩ con nên tỏ ra biết ơn hơn vì mẹ con và bố đã không để con đi học ở những cái trường đó, và con thấy thành quả rồi đấy. Con nên kể với mọi người nguồn cơn của thành quả đó: học ở nhà.”

Tôi không nói gì. Bố hiểu đó là một lời xin lỗi.

Bố không ủng hộ việc tôi đến Cambridge. “Tổ tiên của chúng ta đã đánh liều mạng sống mà vượt đại dương, trốn khỏi đất nước của bọn theo chủ nghĩa xã hội. Còn con thì làm gì nào? Con lại đâm đầu trở lại đó ư?”

Một lần nữa, tôi im lặng.

“Bố mong chờ lễ tốt nghiệp của con,” bố nói. “Chúa truyền đến bố vài lời quở trách để dành cho lũ giáo sư đây.”

“Bố sẽ không làm thế, bố ạ” tôi điềm tĩnh nói.

“Nếu Chúa giao phó cho bố thì bố sẽ đứng lên và nói.”

“Bố sẽ không làm thế,” tôi nhắc lại.

“Bố sẽ không đến bất cứ đâu mà tinh thần của Chúa không được hoan nghênh.”

Chuyện là như vậy đó. Tôi hy vọng nó sẽ qua đi, nhưng bố bị tổn thương vì trong các cuộc phỏng vấn tôi không nhắc đến chuyện học ở nhà đến mức vết thương mới này mưng mủ.

Đêm trước lễ tốt nghiệp của tôi có một bữa tiệc mà tôi sẽ được trao phần thưởng “sinh viên xuất sắc nhất” của khoa Lịch sử. Tôi đợi bố mẹ ở cổng, nhưng bố mẹ không xuất hiện. Tôi gọi điện cho mẹ, nghĩ rằng bố mẹ đến muộn. Mẹ nói bố mẹ không đến. Tôi tới dự tiệc và được trao tặng tấm bảng đồng. Bàn của tôi là bàn duy nhất trong phòng tiệc có ghế trống. Tôi nói bố mẹ tôi bị hỏng xe.

Sau bữa tiệc trưa tôi gọi điện cho mẹ.

“Bổ sẽ không đến trừ khi con xin lỗi,” mẹ nói. “Và mẹ cũng sẽ không đến.”

Tôi xin lỗi. “Bố có thể nói bất cứ điều gì bố muốn. Nhưng làm ơn hãy đến.”

Bố mẹ để lỡ mất phần lớn buổi lễ; tôi không biết họ có nhìn thấy tôi nhận bằng hay không. Những gì tôi nhớ được là tôi đứng đợi cùng bạn bè trước khi tiếng nhạc nổi lên, nhìn các ông bố chụp ảnh còn các bà mẹ thì sửa tóc cho con cái. Tôi nhớ bạn bè tôi đeo tràng hoa rực rỡ quanh cổ cùng những món đồ trang sức mới được tặng.

Sau buổi lễ tôi đứng một mình trên bãi cỏ, nhìn những sinh viên khác ríu rít bên gia đình. Cuối cùng tôi nhìn thấy bố mẹ. Mẹ ôm tôi. Laura, bạn tôi chụp hai bức ảnh. Một bức tôi và mẹ gượng cười; một bức tôi đứng giữa bố mẹ tôi, trông căng thẳng, cứng đơ.

Đêm hôm đó tôi rời khỏi Mountain West. Trước lễ tốt nghiệp tôi đã gói ghém đồ đạc rồi. Căn hộ của tôi trống không, những chiếc túi của tôi để ở bên cửa. Laura ngỏ ý lái xe đưa tôi ra sân bay, nhưng bố mẹ hỏi liệu họ có thể chở tôi tới đó không.

Tôi nghĩ bố mẹ sẽ thả tôi xuống lề đường, nhưng bố khăng khăng rằng bố mẹ sẽ đi cùng tôi vào trong sân bay. Họ đợi tôi kiểm tra những túi hành lý, sau đó đi theo tôi đến cổng an ninh. Cứ như bố muốn chờ đến giây cuối cùng để tôi thay đổi quyết định. Chúng tôi bước đi trong im lặng. Khi tới cổng an ninh tôi ôm bố, ôm mẹ và nói lời tạm biệt. Tôi tháo giày, bỏ máy tính, máy ảnh lên bàn kiểm tra, sau đó đi qua cửa kiểm soát, nhặt hành lý, và bước về phía phòng chờ.

Chỉ đến lúc đó tôi mới liếc nhìn lại phía sau và thấy bố, vẫn đang đứng ở cổng kiểm soát, dõi theo tôi bước đi xa dần, hai tay bố xỏ túi quần, đôi vai bố chùng xuống, miệng bố cũng trễ xuống. Tôi vẫy chào và bố bước về phía trước, như để đi theo tôi, và tôi chợt nhớ đến khoảnh khắc của nhiều năm trước, khi những sợi dây điện giăng trên chiếc xe thùng có mẹ ngồi bên trong, và bố đứng bên ngoài, gần cạnh mẹ, trơ trọi.

Bố giữ nguyên tư thế đó khi tôi rẽ đi khuất. Hình ảnh bố sẽ luôn ở trong tôi: vẻ mặt bố, vẻ mặt ẩn chứa tình yêu thương, nỗi sợ hãi và mất mát. Tôi biết tại sao bố sợ. Bố đã để lộ điều đó trong đêm cuối cùng tôi ở núi Buck, chính cái đêm bố nói bố sẽ không đến dự lễ tốt nghiệp của tôi.

“Nếu con ở lại Mỹ,” bố thì thầm, “thì bố mẹ có thể đến đón con. Dù con ở đâu trên đất Mỹ. Bố có hàng nghìn gallon xăng chôn ở ngoài cánh đồng. Bố có thể đến đón con vào Ngày Tận Thế, và đưa con về nhà, để con được an toàn. Nhưng nếu con vượt đại dương thì…”