← Quay lại trang sách

Phần 3 - Chương 30 Bàn Tay Của Đấng Toàn Năng

Một cái cổng đá chắn ngang lối vào trường Đại học Trinity. Một cánh cửa gỗ nhỏ gắn vào cổng. Tôi bước qua nó. Người bảo vệ mặc áo bành tô đen, đội mũ quả dưa đưa tôi đi thăm trường, dẫn tôi qua Great Court, khoảng sân rộng nhất trong các sân của trường đại học. Chúng tôi cuốc bộ qua một lối đi lát đá và bước vào một hành lang ốp đá màu lúa mì chín có mái che.

“Đây là hành lang phía bắc,” người bảo vệ nói. “Ở chính nơi đây Newton đã giậm chân để đo âm thanh dội lại, lần đầu tiên ông tính được tốc độ âm thanh.”

Chúng tôi quay lại cổng lớn. Phòng tôi đối điện với nó, ở phía trên ba dãy bậc thang. Người bảo vệ đi rồi tôi đứng đó, giữa những chiếc vali và nhìn cái cổng đá như trong thần thoại và những bức tường lỗ châu mai kỳ dị của nó không chớp mắt qua ô cửa nhỏ. Cambridge vẫn thế, như tôi hằng nhớ: cổ kính và đẹp đẽ. Chỉ tôi đã khác. Tôi không còn là người tham quan, không còn là khách nữa. Tôi là thành viên của trường. Tên tôi được sơn trên cánh cửa. Trên giấy tờ, tôi thuộc về nơi này.

Tôi mặc đồ tối màu để đi nghe giảng buổi đầu tiên, hy vọng mình không nổi bật, nhưng dẫu thế tôi không nghĩ mình trông giống các sinh viên khác. Tôi chắc chắn rằng mình ăn nói nghe không giống họ, và đó chẳng phải chỉ bởi vì tôi không phải là người Anh. Họ có ngữ điệu du dương khiến tôi nghĩ họ hát hơn là nói. Đối với đôi tai của tôi họ nói năng nghe tinh tế và lịch thiệp; ; tôi có thói quen lẩm bẩm, và khi căng thẳng tôi nói lắp.

Tôi chọn chỗ ngồi quanh một chiếc bàn hình vuông lớn và lắng nghe hai sinh viên ngồi gần tôi nhất trao đổi với nhau chủ đề bài giảng – hai khái niệm về tự do của Isaiah Berlin. Người sinh viên ngồi cạnh tôi nói anh đã nghiên cứu Isaiah Berlin tại Oxford; còn người kia nói anh đã nghe giảng viên này nhận định về Berlin khi anh là sinh viên năm cuối tại Cambridge. Tôi chưa bao giờ nghe nói đến Isaiah Berlin.

Giảng viên bắt đầu phần trình chiếu. Ông nói điềm tĩnh nhưng chuyển học liệu rất nhanh, như thể ông cho rằng chúng tôi đã quen với nó. Điều này được những sinh viên khác xác nhận, hầu hết họ không ghi chép gì cả. Tôi viết vội từng chữ.

“Vậy hai khái niệm của Isaiah Berlin là gì?” Giảng viên của chúng tôi hỏi. Gần như tất cả mọi người đều giơ tay. Giảng viên gọi người sinh viên đã từng học ở Oxford. “Tự do tiêu cực,” anh nói, “là tự do khỏi những trở ngại hoặc ràng buộc từ bên ngoài. Một cá nhân là tự do theo nghĩa này nếu về mặt thể chất anh ta không bị ngăn cản thực hiện các hành động.” Trong chốc lát tôi nhớ đến Richard, người dường như luôn có thể đọc thuộc lòng chính xác bất cứ điều gì anh đã từng đọc.

“Rất tốt,” giảng viên nói. “Vậy còn khái niệm thứ hai?”

“Tự do tích cực,” một sinh viên khác nói, “là tự do khỏi những ràng buộc từ bên trong.”

Tôi viết định nghĩa này vào vở ghi, nhưng tôi không hiểu.

Giảng viên của chúng tôi cố làm rõ khái niệm đó. Ông nói tự do tích cực là tự chủ – phép tắc của bản thân, do bản thân. Ông giải thích, có tự do tích cực nghĩa là kiểm soát suy nghĩ của bản thân; được giải phóng khỏi những nỗi sợ hãi phi lý và những tín điều, khỏi say cuồng, mê tín và tất cả mọi hình thức áp chế bản thân khác.

Tôi không hiểu áp chế bản thân nghĩa là gì. Tôi nhìn quanh phòng. Dường như chẳng ai mù tịt như tôi. Tôi là một trong số ít sinh viên cắm cúi ghi chép. Tôi muốn đề nghị giảng viên giải thích thêm, nhưng một điều gì đó đã ngăn tôi lại – vì làm như vậy có nghĩa là nói lớn cho cả phòng biết tôi không thuộc về nơi này.

Sau bài giảng, tôi trở về phòng, đứng nhìn đăm đăm ra cái cổng đá với những lỗ châu mai. Tôi nghĩ về tự do tích cực, rồi tự hỏi áp chế bản thân có thể có nghĩa là gì, cho tới khi đầu tôi giật giật vì cảm giác đau âm ỉ.

Tôi gọi điện về nhà. Mẹ trả lời. Giọng mẹ lanh lảnh đầy phấn khích khi mẹ nhận ra hai tiếng “Chào mẹ.” nghẹn ngào. Tôi nói với mẹ rằng đáng lẽ tôi không nên đến Cambridge, rằng tôi chẳng hiểu gì cả. Mẹ nói mẹ đã thử trên cơ bắp và phát hiện ra một trong những luân xa của tôi không cân bằng. Mẹ nói sẽ điều chỉnh nó. Tôi nhắc mẹ nhớ rằng tôi đang ở cách xa năm nghìn dặm.

“Điều đó không quan trọng,” mẹ nói. “Mẹ sẽ điều chỉnh luân xa trên người Audrey và chắp cánh cho nó đến với con.”

“Mẹ sẽ làm gì đến với con cơ?”

“Chắp cánh cho nó,” mẹ nói. “Khoảng cách chẳng là gì đối với năng lượng sống. Mẹ có thể truyền năng lượng điều chỉnh tới con từ đây.”

“Năng lượng đi với vận tốc nhanh thế cơ ạ?” Tôi hỏi, “Bằng vận tốc âm thanh, hoặc nhanh hơn cả máy bay phản lực cơ ạ? Nó bay thẳng, hay nó dừng ở Minneapolis vậy mẹ?”

Mẹ cười và gác máy.

Hầu hết các buổi sáng tôi học trong thư viện của trường, ngồi gần một ô cửa sổ nhỏ. Một buổi sáng tôi đang ở đó thì Drew, một người bạn từ BYU, gửi cho tôi một bài hát qua email. Anh nói đó là một tác phẩm âm nhạc cổ điển nhưng tôi chưa từng biết đến nó cũng như ca sĩ. Tôi nghe bài hát đó qua tai nghe. Nó lôi cuốn tôi ngay lập tức. Tôi nghe đi nghe lại trong khi nhìn đăm đăm ra hành lang phía bắc.

Hãy giải phóng bản thân khỏi đời nô lệ tinh thần.

Không ai ngoài chúng ta có thể giải phóng tinh thần của chính mình.

Tôi viết tháu những dòng này vào vở ghi, bên lề của bài luận mà tôi đang viết dở. Khi mà đáng lẽ tôi phải đang đọc sách thì tôi lại ngồi băn khoăn về chúng. Qua Internet tôi đã biết về bệnh ung thư mà bác sỹ phát hiện ở bàn chân của Bob Marley. Tôi cũng biết Marley là một tín đồ theo đạo Rastafari [1] và rằng người Rasta tin vào “một cơ thể toàn vẹn”, và đó là lý do tại sao ông từ chối phẫu thuật cắt bỏ ngón chân. Bốn năm sau, ở tuổi ba mươi sáu, ông qua đời.

Hãy giải phóng bản thân khỏi đời nô lệ tinh thần. Marley đã viết dòng đó một năm trước khi ông chết, khi mà chứng bệnh ung thư hắc tố có thể phẫu thuật được đang di căn vào phổi, gan, dạ dày và não của ông. Tôi hình dung ra một bác sĩ phẫu thuật tham lam với những chiếc răng dài và nhọn, những ngón tay xương xẩu hối thúc Marley chịu phẫu thuật cắt bỏ ngón chân. Tôi co rúm người trước hình ảnh tay bác sĩ đáng sợ và thứ thuốc tây bẩn thỉiu của ông ta, và chỉ khi đó tôi mới hiểu, bởi vì trước đó tôi không hiểu, rằng dù tôi đã từ bỏ thế giới của bố mình, tôi vẫn không bao giờ có đủ can đảm để sống trong thế giới này.

Tôi lật cuốn vở tới trang tôi ghi chép bài giảng về khái niệm tự do tích cực và tiêu cực. Tôi viết nguệch ngoạc dòng chữ, Không ai ngoài chúng ta có thể giải phóng tinh thần của chính mình lên một góc giấy trắng. Sau đó tôi cầm điện thoại lên và bấm số.

“Tôi cần tiêm vaccine,” tôi nói với người y tá.

Vào các buổi trưa tôi tham dự những hội thảo chuyên đề, và ở đó tôi để ý thấy hai phụ nữ, Katrina và Sophie, gần như luôn ngồi cùng nhau. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với họ cho tới một buổi chiều trước Giáng sinh vài tuần, khi họ rủ tôi đi uống cà phê. Trước đó tôi chưa bao giờ “đi uống cà phê” – tôi chưa từng nếm vị cà phê, bởi vì đó là thứ mà giáo hội cấm – nhưng tôi đi theo họ sang bên kia đường, tới một quán cà phê. Người đứng quầy sốt ruột đến nỗi tôi chọn bừa. Cô ta mang cho tôi một cốc nhỏ xíu chứa khoảng một thìa canh chất lỏng màu bùn, và tôi nhìn tách cà phê trào bọt Katrina và Shophia bê ra bàn mà thèm. Họ tranh luận về các khái niệm trong bài giảng; tôi tranh luận với bản thân có nên uống tách cà phê của mình hay không.

Họ tự nhiên và thoải mái dùng những thuật ngữ phức tạp. Tôi từng nghe đến vài từ như “làn sóng thứ hai”, dù chẳng hiểu nổi; còn thì tôi không phát âm cho ra hồn những từ khác, như “nam tính bá quyền”, chứ nói gì đến hiểu. Tôi nhấp vài ngụm nhỏ thứ chất lỏng hăng hăng, lẩn nhẩn trước khi tôi hiểu rằng họ đang nói về thuyết nam nữ bình quyền. Tôi nhìn họ chằm chằm như họ ở đằng sau tấm kính. Tôi chưa bao giờ nghe bất cứ ai sử dụng từ “nam nữ bình quyền” với một ý gì khác ngoài quở trách. Ở BYU, câu nói “Cậu nói nghe cứ như nhà nữ quyền ý nhỉ.” báo hiệu cuộc tranh luận kết thúc. Nó cũng báo hiệu rằng tôi đã thua.

Tôi rời quán cà phê và tới thư viện. Sau năm phút vào mạng Internet và vài lần chạy tới các chồng sách, tôi ngồi ở chỗ quen thuộc với một đống sách được các tác giả mà giờ đây tôi đã hiểu là thuộc làn sóng thứ hai viết – Betty Friedan, Gernaine Greer, Simone de Beauvoir. Mỗi cuốn tôi chỉ đọc vài trang rồi gấp sách lại. Tôi chưa bao giờ thấy từ “âm đạo” được in trong sách, chưa bao giờ nói từ đó thành tiếng.

Tôi lại vào Internet, rồi lại đi tới các giá sách, nơi tôi đổi những cuốn sách bàn về làn sóng thứ hai để lấy những cuốn sách bàn về làn sóng thứ nhất – Mary Wollstonecraft và John Stuart Mill. Tôi đọc xuyên trưa tới chiều tối, lần đầu tiên thu nạp được một vốn từ vựng mà tôi từng cảm thấy không thoải mái thốt lên từ tấm bé.

Từ lần đầu tiên tôi hiểu ra rằng anh Richard của tôi là con trai, còn tôi là con gái, tôi muốn đổi tương lai của anh lấy tương lai của tôi. Tương lai của tôi là làm mẹ; tương lai của anh là làm cha. Nghe thì giống nhau đấy nhưng thực ra không phải vậy. Làm người này là làm người quyết định. Chỉ huy. Ra lệnh cho cả gia đình. Làm người kia là để nằm trong số những người phục tùng mệnh lệnh.

Tôi biết nỗi khao khát của mình là quái đản. Nhận thức này, cũng giống nhiều lần tự nhận thức khác, đến với tôi bằng giọng của những người tôi biết, những người tôi yêu. Trong từng ấy năm giọng nói đó ở trong tôi, thì thầm, băn khoăn, lo lắng. Rằng tôi không đúng. Rằng những mơ ước của tôi là lầm lạc. Cái giọng đó có nhiều âm sắc, nhiều sắc thái. Đôi khi đó là giọng bố tôi; phần nhiều là giọng tôi.

Tôi mang những cuốn sách về phòng mình và đọc thâu đêm. Tôi thích những trang sách dữ dội của Mary Wollstonecraft, nhưng có một dòng do John Stuart Mill viết, mà khi đọc tôi thấy nó làm rung chuyển thế giới: “Đó là một chủ thể mà trong đó rốt cuộc ta chẳng thể biết được gì.” Chủ thể mà MiII nói đến là bản chất của phụ nữ. Mill khẳng định rằng phụ nữ bị tán tỉnh, phỉnh phờ, bị xô đẩy và chèn ép vào một loạt tình trạng méo mó kiểu nữ tính trong nhiều thế kỷ đến mức giờ đây hoàn toàn không thể xác định được khả năng tự nhiên hay khát vọng của họ.

Máu dồn lên não tôi; tôi cảm thấy sự dâng trào dữ dội của adrenalin, của khả năng, của một giới hạn bị đẩy về phía trước. Về bản chất của phụ nữ, rốt cuộc ta chẳng thể biết được gì. Tôi chưa bao giờ tìm thấy niềm an ủi như thế trong tình trạng thiếu hiểu biết đến vô vọng và trống rỗng như vậy. Dường như nó nói rằng: bất kể bạn là gì, bạn cũng là phụ nữ.

Vào tháng Mười hai, sau khi nộp bài luận cuối cùng, tôi bắt tàu hỏa đi London rồi lên máy bay. Mẹ tôi, Audrey và Emily đón tôi tại sân bay ở Salt Lake City, và chúng tôi cùng trượt tuyết bằng xe hơi trên đường xuyên bang. Gần nửa đêm núi lờ mờ hiện ra trong tầm nhìn. Tôi chỉ có thể nhận ra hình dáng đồ sộ của núi in lên bầu trời đen như mực.

Khi bước vào bếp tôi để ý thấy một khoảng trống trên tường dẫn tới phần mở rộng mà bố tôi đang xây dựng. Mẹ đi với tôi qua chỗ đó và bật đèn lên.

“Ngạc nhiên chưa?” mẹ nói. “Ngạc nhiên” là từ chính xác.

Đó là một phòng lớn cỡ bằng một cái nhà nguyện, với trần nhà kiểu mái vòm vươn cao tới năm mét trong không khí. Kích thước của căn phòng phi lý đến mức tôi phải mất một lúc mới để ý tới cách trang trí. Các bức tường bằng đá phiến không trát tương phản lồ lộ với lớp gỗ ván trên trần vòm. Những bộ sofa bằng da lộn màu đỏ thẫm yên vị một cách thân mật bên cạnh chiếc sofa nhồi hai chỗ thẫm màu mà bố đã lôi từ bãi phế liệu về từ nhiều năm trước. Những tấm thảm dày có họa tiết rối rắm phủ một nửa diện tích sàn, trong khi nửa kia là nền xi măng trần trụi. Có mấy chiếc đàn piano, mà trong đó chỉ có một chiếc trông có vẻ có thể chơi được, và một chiếc TV cỡ bằng bàn ăn. Căn phòng hợp với bố một cách hoàn hảo: nó đồ sộ khác thường và cực kỳ phi lý.

Bố luôn nói rằng bố muốn xây một căn phòng to bằng một con tàu tuần tra nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ bố sẽ có đủ tiền. Tôi nhìn mẹ, mong mẹ giải thích nhưng chính bố là người trả lời. Bố bảo việc sản xuất kinh doanh của bố mẹ thành công vang dội. Các loại tinh dầu trở nên nổi tiếng, và mẹ là nhà cung cấp tốt nhất trên thị trường. “Tỉnh dầu của bố mẹ tốt,” bố nói, “bố mẹ bắt đầu kiếm được cả lợi nhuận của những nhà sản xuất lớn. Tất cả mọi người đều biết về tinh dầu của nhà Westover ở Idaho.” Bố kể với tôi rằng một công ty đã hoảng sợ trước thành công của mẹ đến mức họ đề nghị trả mẹ ba triệu đô-la để mẹ khỏi làm tinh dầu nữa. Bố mẹ thậm chí không thèm quan tâm đến lời đề nghị đó. Chữa lành là sứ mệnh của bố mẹ. Bao nhiêu tiền cũng không cám dỗ nổi họ. Bố giải thích rằng bố mẹ đang dùng phần lớn lợi nhuận để dâng Chúa dưới dạng các đồ dự trữ như thức ăn, xăng dầu, và thậm chí một hầm tránh bom. Tôi cố nén để khỏi cười ngoác miệng. Theo như tôi biết, bố đang trở thành người điên có kinh tế rủng rỉnh nhất ở Moutain West.

Richard xuất hiện ở đầu cầu thang. Anh sắp lấy bằng cử nhân ngành hóa học tại Đại học Quốc gia Idaho. Anh về nhà nghỉ Giáng sinh, và anh đưa Kami, vợ anh cùng đứa con trai một tháng tuổi Donavan về cùng. Một năm trước, ngay trước đám cưới của họ, gặp Kami, tôi sửng sốt trước sự bình thường của chị. Giống như Stefanie, vợ của Tyler, Kami là dân ngoại: chị theo phái Mặc Môn, nhưng chị là người mà bố tôi gọi là “số đông chủ đạo”. Chị cảm ơn mẹ vì đã khuyên chị dùng thảo dược nhưng dường như quên béng niềm kỳ vọng rằng chị sẽ bỏ các bác sĩ. Donavan chào đời ở bệnh viện.

Tôi tự hỏi làm thế nào Richard có thể vượt qua những bất đồng không kiểm soát được giữa người vợ bình thường và người bố người mẹ bất thường của anh. Tối hôm đó tôi quan sát anh thật kỹ, và đối với tôi dường như anh đang cố gắng sống ở cả hai thế giới, để làm môn đồ trung thành với mọi tín điều. Khi bố tôi quy kết các bác sĩ là tay sai của quỷ Satan, Richard quay sang Kami trao một tiếng cười khe khẽ, như thể bố nói đùa ấy mà. Nhưng khi bố tôi nhướn mày, mặt của Richard chuyển sang vẻ trầm tư và nghiêm túc chấp nhận. Anh dường như ở trong trạng thái chuyển đổi liên tục, ở bên trong hoặc bên ngoài các chiều, không dám chắc mình là con trai của bố tôi hay là chồng của vợ anh.

Mẹ bị quá tải với các đơn đặt hàng vào dịp nghỉ lễ, vậy nên tôi dành những ngày của mình ở núi Buck y như khi tôi còn bé: ở trong bếp, làm thuốc vi lượng đồng căn. Tôi rót nước cất và thêm vài giọt từ công thức cơ bản, sau đó đưa cái lọ thủy tỉnh nhỏ xíu qua ngón cái và ngón trỏ đang chụm vòng, đếm đến năm mươi hoặc một trăm, sau đó chuyển sang lọ tiếp theo. Bố vào bếp uống nước. Bố mỉm cười khi nhìn thấy tôi.

“Ai biết bố mẹ cho con đến Cambridge để rồi lại có con ở trong căn bếp nơi con thuộc về nhỉ?” Bố nói.

Vào các buổi trưa, tôi và Shawn đóng yên cương cho ngựa và xoay xở để lên núi, những con ngựa nửa đi nửa nhảy qua những đống tuyết chất cao đến bụng chúng. Núi đẹp và khô lạnh. Không khí có mùi da thú và mùi gỗ thông. Shawn nói về những con ngựa, về việc huấn luyện chúng, về những con ngựa non mà anh mong đợi ra đời vào mùa xuân, và tôi nhớ rằng anh luôn tốt đẹp nhất khi ở bên những con ngựa.

Tôi đã ở nhà khoảng một tuần khi núi bị kìm kẹp bởi cái lạnh khủng khiếp. Nhiệt độ giảm sâu, xuống tới 0 độ, sau đó vẫn tiếp tục giảm. Chúng tôi cho lũ ngựa ở trong chuồng, biết rằng nếu chúng đổ mồ hôi thì mồ hôi sẽ đóng băng trên lưng chúng. Máng ăn đóng băng cứng. Chúng tôi đập băng ra nhưng nó lại mau chóng đóng băng trở lại, vậy nên chúng tôi mang từng xô nước cho mỗi con ngựa.

Đêm đó mọi người đều ở trong nhà. Mẹ tôi pha tinh dầu trong bếp. Bố ở trong cái phòng được xây thêm mà tôi bắt đầu gọi đùa là Nhà nguyện. Bố nằm trên ghế sofa màu đỏ thẫm, với cuốn Kinh Thánh để trên bụng, trong khi Kami và Richard chơi vài bản thánh ca trên đàn dương cầm. Tôi ngồi với máy tính xách tay đặt trên chiếc ghế tôi yêu thích ở gần bố, và nghe nhạc. Tôi vừa mới bắt đầu nhắn tin cho Drew thì thứ gì đó đập vào cửa sau. Cánh cửa bật mở, và Emily lao vào phòng.

Đôi cánh tay gầy của chị ôm quanh người chị và chị vừa run rẩy vừa há mồm để thở. Chị không mặc áo khoác, không đi giày, chẳng mặc gì ngoài chiếc quần bò cũ mà tôi để lại cùng chiếc áo phông sờn cũ. Mẹ dìu chị vào ngồi trên sofa, choàng chiếc chăn gần nhất lên người chị. Emily khóc nức nở, và trong vài phút ngay cả mẹ cũng không thể khiến chị nói rõ chuyện gì đã xảy ra. Mọi người ổn cả chứ? Peter đâu? Thằng bé yếu ớt, người chỉ bằng nửa những đứa cùng tuổi, và nó phải mang ống thở oxy bởi vì phổi nó không phát triển đầy đủ. Hai lá phổi nhỏ xíu của nó xẹp, và nó ngừng thở rồi chăng?

Chuyện được kể ngắt quãng, giữa những tiếng nức nở lúc to lúc nhỏ và tiếng răng va vào nhau lập cập. Theo như tôi biết, khi tới cửa hàng tạp hóa Stokes để mua các thứ, Emily trở về với những túi bánh quy không thích hợp cho Peter. Shawn nổi điên. “Làm sao thằng bé phát triển được nếu cô không thể mua loại thức ăn thích hợp cho nó!” Anh gào lên, rồi túm lấy chị, ném chị ra khỏi xe, ném vào một đống tuyết. Chị đập cửa xe, van xin anh cho chị lên xe, sau đó chị chạy lên đồi vào nhà. Tôi nhìn đăm đăm đôi chân trần của chị trong khi chị kể điều này. Chân chị đỏ ửng, trông như bị bỏng.

Bố mẹ tôi ngồi với Emily trên sofa, mỗi người ngồi một bên, vỗ vai chị, siết chặt tay chị. Richard đi đi lại lại phía sau họ. Anh dường như đang chán nản, lo âu, như thể anh muốn bùng nổ thành hành động và chỉ đang kiểm chế mà thôi.

Kami vẫn ngồi trước cây đàn dương cầm. Chị nhìn không chớp mắt mấy người đang túm tụm vào nhau trên ghế sofa, chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì. Chị không thể hiểu Emily. Chị không thể hiểu tại sao Richard cứ đi đi lại lại, cũng chẳng hiểu tại sao anh dừng lại vài giây để liếc nhìn bố, đợi một lời nói hoặc một cử chỉ – bất cứ dấu hiệu nào cho thấy nên làm gì.

Tôi nhìn Kami và cảm thấy lồng ngực bị bóp nghẹt. Tôi giận chị vì đã chứng kiến cảnh này. Tôi hình dung mình ở vào vị trí của Emily, điều thật dễ làm – tôi không thể không đặt mình vào vị trí của chị – và trong chốc lát tôi thấy mình đang ở một bãi đỗ xe, cười tiếng cười the thé, cố thuyết phục thế giới rằng cổ tay mình không bị gãy. Tôi bước tới trước khi kịp có ý thức mình đang làm gì. Tôi nắm cánh tay anh trai mình, kéo anh đi cùng tới chỗ cây đàn. Emily vẫn đang khóc, và tôi dùng tiếng nức nở của chị để lấn át tiếng thì thầm của mình. Tôi nói với Kami rằng những gì chúng tôi đang chứng kiến là chuyện riêng, và rằng ngày mai Emily sẽ cảm thấy ngượng. Tôi nói rằng, vì Emily, tất cả chúng tôi nên về phòng mình và để việc đó cho bố giải quyết.

Kami đứng dậy. Chị đã quyết định tin tôi. Richard lưỡng lự, trao cho bố một cái nhìn thật lâu, rồi bước theo chị ra khỏi phòng.

Tôi đi với họ dọc hành lang rồi quay lại. Tôi ngồi ở bàn bếp nhìn đồng hồ treo tường. Năm phút trôi qua, rồi mười phút. Đến đây nào, Shawn, tôi lẩm bẩm. Đến đi.

Tôi đã thuyết phục bản thân rằng nếu Shawn xuất hiện trong vài phút tới thì đó là bởi anh muốn chắc chắn Emily đã về được tới nhà – rằng chị không bị trượt ngã trên băng, không bị gãy chân, không bị chết cóng trên cánh đồng. Nhưng anh không xuất hiện.

Hai mươi phút sau, khi Emily cuối cùng đã ngừng run, bố nhấc điện thoại lên. “Đến đón vợ mày đi!” Bố quát vào máy. Mẹ đang ôm đầu Emily để chị gục vào vai mẹ. Bố trở lại ghế sofa và vỗ vỗ cánh tay Emily. Khi tôi nhìn ba người túm tụm vào nhau, tôi có cảm giác rằng trước đây chuyện này đã từng xảy ra, và rằng vai của mỗi người đều được thể hiện lại thuần thục. Thậm chí của tôi.

Nhiều năm trước tôi đã hiểu những gì sẽ xảy ra đêm đó, và vai trò của tôi trong chuyện ấy là gì. Tôi đã mở miệng khi đáng lẽ tôi nên im lặng, và đã câm như hến khi mà đáng lẽ tôi phải lên tiếng. Những gì chúng tôi cần là một cuộc cách mạng, một thay đổi hoàn toàn các vai mỏng manh, cũ rích mà chúng tôi đã đóng từ khi tôi còn bé. Những gì chúng tôi cần – những gì Emily cần – là một phụ nữ được giải phóng khỏi nếp giả vờ, một phụ nữ có thể bộc lộ bản thân là một người đàn ông. Nói lên một quan điểm. Hành động trong thái độ khinh miệt sự phục tùng. Một người cha.

Hai cánh cửa kiểu Pháp mà bố tôi đã lắp kêu kèn kẹt khi mở ra. Shawn lúng túng trong đôi giày ống nặng trịch và chiếc áo khoác dày. Peter lấp ló từ sau những vòng quấn của tấm chăn len dày. Shawn đã che cho thằng bé khỏi lạnh, để đi tìm Emily. Chị ôm chặt lấy thằng bé. Bố đứng dậy. Bố ra hiệu cho Shawn ngồi xuống cạnh Emily. Tôi đứng dậy đi về phòng mình, dừng lại một lát để nhìn bố tôi lần cuối đang lấy hơi thật sâu, chuẩn bị cho bài lên lớp thật dài của bố.

“Rất nghiêm khắc,” hai mươi phút sau mẹ quả quyết với tôi khi mẹ xuất hiện ở cửa phòng, bảo tôi cho Emily mượn một đôi giày và một chiếc áo khoác. Tôi lấy những thứ đó mang ra cho họ, và từ phòng bếp tôi nhìn chị đi khuất, rúc người dưới cánh tay anh trai tôi.

Chú thich:

[1] Rastafari là một nền văn hóa của những người Rasta sống tại Jamaica.