Chương 31 Bi Kịch Rồi Thì Trò Hề
Trước ngày quay lại nước Anh, tôi lái xe mười bảy dặm dọc dãy núi, sau đó rẽ vào một con đường đất hẹp và dừng trước một ngôi nhà màu xanh lơ. Tôi đỗ xe đằng sau một chiếc RV rộng gần bằng ngôi nhà. Tôi gõ cửa; chị gái tôi ra mở cửa.
Chị đứng ở cửa trong bộ đồ ngủ bằng nỉ, một đứa bé đang tuổi chập chững ở trên hông chị và hai đứa con gái nhỏ bám lấy chân chị. Con trai chị, khoảng sáu tuổi, đứng phía sau. Audrey bước sang một bên để lấy chỗ cho tôi bước vào, nhưng các động tác của chị thiếu tự nhiên, và chị tránh nhìn thẳng vào mắt tôi. Từ khi chị lấy chồng chị em tôi ít có thời gian ở bên nhau.
Tôi bước vào trong nhà, dừng khựng lại ở lối đi khi nhìn thấy một hố rộng khoảng một mét trên lớp vải sơn lót sàn ăn sâu xuống gian hầm. Tôi bước qua cái hố đó và vào trong căn bếp sực mùi các loại tinh dầu của mẹ tôi – tinh dầu bạch dương, khuynh diệp, tinh dầu nguyệt quế.
Cuộc trò chuyện rề rà, ngắc ngứ. Audrey chẳng hỏi tôi câu nào về nước Anh hay Cambridge. Chị không có hệ quy chiếu cho cuộc sống của tôi, vậy nên chúng tôi nói về cuộc sống của chị – hệ thống trường công thối nát vậy nên chị tự dạy các con, tại nhà. Giống như tôi, Audrey chưa bao giờ đi học ở trường công. Mười bảy tuổi, chị đã nỗ lực chớp nhoáng để thi lấy chứng chỉ GED. Chị thậm chí còn nhờ Missy, chị họ của chúng tôi, giúp đỡ; vậy là Missy đã từ thành phố Salt Lake đến dạy kèm cho chị. Missy dạy kèm cho Audrey suốt mùa hè, và khi mùa hè qua đi chị tuyên bố rằng trình độ của Audrey ở khoảng giữa lớp bốn và lớp năm, và rằng việc lấy chứng chỉ GED là không thể. Tôi cắn môi, nhìn con gái chị mang ra cho mình một bức vẽ, tự hỏi nó có thể hy vọng được giáo dục thế nào nhờ một người mẹ chẳng được học hành gì.
Chúng tôi làm bữa sáng cho bọn trẻ, sau đó chơi với chúng trong tuyết. Chúng tôi nướng bánh, xem phim trinh thám và kết những chiếc vòng đeo tay bằng hạt. Cứ như tôi đã bước qua một tấm gương và đang sống một ngày trong cuộc đời mà tôi có lẽ đã sống, nếu tôi ở lại núi. Nhưng tôi đã không ở lại. Cuộc sống của tôi khác cuộc sống của chị, và tôi có cảm giác như không có nền tảng chung nào giữa chúng tôi. Nhiều giờ trôi qua; đã quá trưa; và chị vẫn cảm thấy xa cách với tôi, chị vẫn không chịu nhìn thẳng vào mắt tôi.
Tôi mang tới cho bọn trẻ một bộ đồ trà nhỏ bằng sứ, và khi chúng bắt đầu tranh nhau cái ấm trà, tôi thu cả bộ lại. Đứa con gái lớn nhất của chị nhắc tôi nhớ rằng nó lên năm tuổi rồi, và nó muốn nói rằng nó đủ lớn nên tôi không được tước đồ của con bé. “Nếu con cư xử như trẻ ranh,” tôi nói, “thì dì sẽ đối xử với con như với một đứa trẻ ranh.”
Tôi không biết tại sao mình lại nói thế; tôi cho rằng Shawn ở trong đầu tôi. Vừa buột miệng nói ra những lời đó tôi đã ân hận, ghét bản thân mình vì đã nói thế. Tôi đưa bộ đồ trà cho chị gái mình, để chị có thể phân xử công bằng và thích hợp, nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt chị tôi suýt đánh rơi bộ đồ trà. Miệng chị há hốc, tròn vo.
“Shawn đã từng nói câu đó,” chị nói, nhìn thẳng vào mắt tôi.
Giây phút đó ám ảnh tôi mãi. Ngày hôm sau, khi tôi lên máy bay ở thành phố Salt Lake tôi nhớ đến nó, và nó vẫn ở trong đầu tôi khi tôi hạ cánh xuống London. Chính sức ép của nó khiến tôi không thể lung lay. Không hiểu sao tôi chưa bao giờ chợt nghĩ rằng chị gái tôi có thể đã sống cuộc đời của tôi trước khi tôi sống.
Học kỳ đó, tôi đến trường đại học như chất dẻo tổng hợp đến với nhà điêu khắc. Tôi tin mình có thể được tái tạo, tâm trí tôi được đúc lại. Tôi ép bản thân làm bạn với các sinh viên khác, lúng túng giới thiệu mình hết lần này đến lần khác cho tới khi tôi có một vòng tròn nhỏ bạn bè. Sau đó, tôi xóa bỏ những rào chắn giữa tôi và họ. Tôi nếm rượu vang đỏ lần đầu tiên và những người bạn mới của tôi cười ồ lên trước vẻ mặt nhăn như bị cấu của tôi. Tôi bỏ những chiếc áo sơ mi cổ cao và bắt đầu mặc những chiếc áo hợp mốt hơn – những chiếc áo bó sát người, thường là áo khoét nách, với cổ áo thoáng rộng hơn. Trong những bức ảnh ở giai đoạn này tôi choáng váng trước vẻ tương xứng ấy: tôi trông giống như tất cả những người khác.
Tháng Tư tôi bắt đầu làm tốt. Tôi viết một bài luận về khái niệm quyền tự quyết của John Stuart Mill, và thầy hướng dẫn của tôi, tiến sĩ David Ruciman, nói rằng nếu luận văn của tôi cũng đạt được chất lượng như thế thì trường Cambridge sẽ nhận tôi vào chương trình đào tạo tiến sĩ. Tôi choáng váng: tôi, cái đứa len lén thò mặt tới nơi tuyệt vời này như một kẻ mạo danh, bây giờ lại có thể đàng hoàng bước vào qua cửa chính cơ đấy. Tôi bắt đầu làm luận văn, lại chọn Mill làm chủ đề.
Gần cuối học kỳ, một buổi trưa, khi tôi đang ăn trưa tại quán ăn tự phục vụ của thư viện, tôi nhận ra một nhóm sinh viên học chung chương trình với tôi. Họ ngồi cùng nhau tại một chiếc bàn nhỏ. Tôi hỏi liệu tôi có thể ngồi cùng họ không và một người Ý cao lớn tên là Nick gật đầu. Qua cuộc trò chuyện tôi được biết rằng Nick đã mời những người khác tới thăm anh ở Rome vào kỳ nghỉ xuân. “Bạn cũng có thể đến,” anh nói.
Chúng tôi nộp những bài luận cuối cùng cho kỳ học, sau đó lên máy bay. Trong buổi tối đầu tiên tôi ở Rome, chúng tôi leo lên một trong bảy quả đồi, nhìn ra thành phố. Những mái vòm của đế chế Đông La Mã lơ lửng phía trên thành phố như những quả khinh khí cầu đang bay lên. Lúc đó trời đã gần tối; các đường phố tắm trong ánh sáng màu hổ phách. Đó không phải là màu của một thành phố hiện đại, của thép, thủy tỉnh và xi măng. Đó là màu hoàng hôn. Nó trông thật hư ảo. Nick hỏi tôi nghĩ gì về thành phố quê hương anh, và đó là tất cả những gì tôi có thể nói: trông thật hư ảo.
Hôm sau, vào bữa sáng, những người khác nói về gia đình họ. Bố của một người là nhà ngoại giao; bố của một người khác là giảng viên ở trường Oxford. Họ hỏi về bố mẹ tôi. Tôi nói bố tôi sở hữu một bãi phế liệu.
Nick đưa chúng tôi tới trường âm nhạc nơi anh học chơi vĩ cầm. Nó nằm ở trung tâm thành Rome và được trang bị đồ nội thất phong phú với cầu thang đồ sộ và những phòng cộng hưởng âm thanh. Tôi cố hình dung học nhạc ở một nơi như thế này sẽ như thế nào, cảm giác hằng ngày rảo bước trên sàn lát đá cẩm thạch mỗi buổi sáng, để kết hợp việc học tập với cái đẹp ra sao. Nhưng tôi chịu, không hình dung nổi. Tôi chỉ có thể mường tượng ra ngôi trường tôi đang trải nghiệm, một dạng bảo tàng, một di tích từ cuộc sống của ai đó khác.
Chúng tôi khám phá Rome trong hai ngày, một thành phố vừa là một sinh thể vừa là một hóa thạch. Những tòa kiến trúc đã bạc màu vì cổ kính nằm đó như những khúc xương khô, với những dây cáp điện được gắn chìm và mạng lưới giao thông ầm ì, những huyết mạch của cuộc sống hiện đại. Chúng tôi thăm đền Pantheon, quảng trường Roman Forum, nhà nguyện Sistine. Bản năng của tôi là tôn thờ, sùng kính. Đó là cảm xúc của tôi về toàn thành phố: tôi cảm thấy nó nên được đặt vào sau khung kính, để chiêm ngưỡng từ xa, không bao giờ bị chạm vào, không bao giờ bị sửa đổi. Những người bạn đồng hành của tôi đi thăm thành phố theo cách khác, ý thức được tầm quan trọng của nó nhưng không bị nó chinh phục. Họ không bị đài phun nước Trevi làm cho nín thinh, không bị đấu trường Colosseum làm cho im lặng. Thay vì thế khi chúng tôi di chuyển từ di tích này đến di tích tiếp theo, họ bàn luận – về triết học – Hobbes và Descarts, Aquinas và Machiavelli. Có sự cộng sinh trong mối quan hệ của họ với những nơi cổ kính này: họ truyền sự sống cho kiến trúc cổ bằng cách biến nó thành nền tảng cho bài thuyết trình của họ, bằng cách không chịu sùng bái trước bệ thờ của nó như thể nó là một thứ đã chết.
Vào đêm thứ ba có một cơn mưa giông. Tôi đứng trên ban công của Nick nhìn những tia chớp rạch kèm theo tiếng sấm nổ vang trời. Cứ như tôi đang ở núi Buck, cảm nhận sức mạnh đó ở trái đất và trên bầu trời.
Sáng hôm sau trời trong vắt không một gợn mây. Chúng tôi có một bữa ăn dã ngoại với rượu vang và bánh bột nhồi trong vườn Villa Borghese. Mặt trời ấm nóng, những chiếc bánh bột nhồi thơm ngon như thức ăn của thiên sứ. Tôi không nhớ có bao giờ mình cảm nhận sâu sắc hơn thế về hiện tại như khi đó hay không. Một người bạn nói điều gì đó về Hobbes và không nghĩ ngợi tôi đọc một dòng của Mill. Dường như đưa tiếng nói này từ quá khứ tới một khoảnh khắc vốn đã thấm đẫm quá khứ là tự nhiên, dù tiếng nói đó trộn lẫn với tiếng của tôi. Mọi người im lặng một lát khi họ nhìn xem ai vừa nói, rồi một người hỏi câu đó trích từ đâu, và cuộc trò chuyện tiếp tục.
Trong thời gian còn lại của tuần đó, tôi trải nghiệm Rome giống như họ: như một địa danh lịch sử, nhưng cũng là một nơi của đời sống, của ẩm thực, giao thông, của xung đột và đe dọa. Thành phố không còn là một viện bảo tàng nữa; đối với tôi nó sống động như núi Buck. Quảng trường Piazza del Pololo. Nhà tắm Caracalla. Bảo tàng Castel Sant'Angelo. Những điểm đến này trở nên rất thật đối với trí óc tôi, như nàng công chúa da đỏ, như toa tàu hỏa màu đỏ, như cái máy Xén. Thế giới mà chúng đại diện, thế giới của triết học, khoa học, văn học – cả một nền văn minh – mang một đời sống khác biệt so với đời sống mà tôi đã biết. Tại phòng Trưng bày Nghệ thuật Cổ đại Quốc gia, tôi đứng trước tác phẩm Judith chặt đầu Holoferner của Caravaggio mà không một lần nghĩ tới những con gà.
Tôi không biết điều gì đã tạo ra thay đổi này, tại sao bỗng nhiên tôi có thể tiếp xúc với những nhà tư tưởng vĩ đại của quá khứ hơn là tôn sùng họ đến mức im bặt. Nhưng có điều gì đó về thành phố này, với lớp nhựa đường đen và đá cẩm thạch trắng đậm màu lịch sử, sáng chói trong ánh đèn giao thông, đã cho tôi thấy tôi có thể thán phục quá khứ mà không bị nó làm cho câm lặng.
Tôi vẫn đang thở trong mùi ẩm mốc của những lớp đá cổ kính khi tôi đến Cambridge. Tôi chạy vội lên cầu thang, lo lắng kiểm tra hộp thư điện tử, biết rằng thế nào cũng sẽ có thư của Drew. Khi mở máy tính ra, tôi thấy quả là Drew có gửi thư cho tôi, nhưng cũng có thư của người khác nữa: chị của tôi.
Tôi mở thư nhắn của chị Audrey. Bức thư được viết thành một đoạn đài, hầu như không có chấm câu, đầy lỗi chính tả, và thoạt đầu tôi quanh quẩn với những lỗi ngữ pháp kì cục mà nhờ đó bức thư trở nên câm bặt. Nhưng từ ngữ trong thư không hề câm bặt; chúng gào lên với tôi từ màn hình máy tính.
Audrey nói đáng lẽ chị nên ngăn chặn Shawn từ nhiều năm trước, trước khi anh có thể làm với tôi những gì mà anh đã làm với chị. Chị nói rằng khi chị còn nhỏ, chị muốn kể cho mẹ biết, muốn cầu cứu mẹ, nhưng chị nghĩ mẹ sẽ không tin chị. Chị nói đúng. Trước đám cưới của chị, chị đã trải nghiệm những cơn ác mộng, những cảnh hồi tưởng, và chị đã kể với mẹ. Mẹ nói rằng những ký ức đó là tưởng tượng, không thể có chuyện đó được. Đáng lẽ chị nên giúp em, Audrey viết. Nhưng khi chính mẹ đẻ của chị không tin chị, chị không tin vào bản thân mình nữa. [1]
Đó là một sai lầm mà chị định sửa chữa. Chị viết, Chị tin rằng Chúa sẽ truy cứu trách nhiệm của chị nếu chị không ngăn Shawn gây tổn thương cho người khác. Chị sẽ đương đầu với Shawn, với bố mẹ, và chị bảo tôi hãy đứng về phía chị. Em đứng về phía chị hay không thì chị vẫn sẽ làm. Nhưng không có em, có thể chị sẽ thất bại.
Tôi ngồi trong bóng tối hồi lâu. Tôi giận chị vì đã viết thư cho tôi. Tôi cảm thấy chị đã giật tôi khỏi một cuộc sống, nơi tôi đang hạnh phúc, và kéo tôi trở lại một cuộc sống khác.
Tôi gõ thư trả lời. Tôi bảo với chị rằng chị đúng, rằng tất nhiên chúng tôi nên ngăn Shawn lại, nhưng tôi bảo chị đừng làm gì hết cho tới khi tôi có thể trở về Idaho. Tôi không biết tại sao tôi lại bảo chị đợi, tôi không biết tôi nghĩ thời gian sẽ mang lại lợi ích gì mà bảo chị đợi. Tôi không biết tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng tôi nói chuyện với bố mẹ, nhưng bằng trực giác tôi hiểu những gì đang bị đe dọa. Chừng nào chúng tôi chưa hỏi thì chừng đó vẫn còn khả năng để tin rằng bố mẹ sẽ giúp. Nói với bố mẹ là đánh liều với điều không thể tưởng tượng nổi: đó là đánh liều với rủi ro của việc biết rằng bố mẹ đã biết tất cả rồi.
Audrey đã không đợi, dù chỉ một ngày. Sáng hôm sau chị cho mẹ xem thư của tôi. Tôi không thể hình dung ra mọi chi tiết của cuộc trò chuyện đó, nhưng tôi biết rằng, đối với Audrey, quả là nhẹ nhõm khôn tả khi đặt những lời lẽ của tôi trước mẹ, cuối cùng để có thể nói, con không điên. Và Tara cũng vậy.
Suốt ngày hôm đó, mẹ ngẫm nghĩ về bức thư của tôi. Tầm chiều ở Idaho, tức là gần nửa đêm ở Anh, mẹ, vốn không biết gọi điện thoại quốc tế, lại có thể tìm được tôi trên mạng. Những con chữ trên màn hình nhỏ xíu, bị giới hạn trong hộp nhắn tin nhỏ xíu ở góc trình duyệt, nhưng bằng cách nào đó chúng dường như nuốt cả căn phòng. Mẹ kể với tôi rằng mẹ đã đọc thư của tôi. Tôi gồng mình chuẩn bị hứng cơn tam bành của mẹ.
Mẹ viết, thật khó để đối mặt với hiện thực. Để hiểu ra rằng có một điều gì đó thật xấu xí, và mẹ đã từ chối nhìn nhận nó.
Tôi phải đọc những dòng này không biết bao nhiêu lần trước khi tôi hiểu. Trước khi tôi hiểu ra rằng mẹ không tức giận, không trách tôi, cũng không cố thuyết phục tôi tin rằng chỉ là tôi tưởng tượng ra chuyện ấy. Mẹ tin tôi.
Tôi nói với mẹ, mẹ đừng tự trách bản thân. Từ khi bị tai nạn đầu óc mẹ không còn được như trước nữa.
Có lẽ vậy, mẹ nói. Nhưng đôi khi mẹ nghĩ chúng ta đã chọn căn bệnh của mình, bởi vì về một mặt nào đó chúng có lợi cho chúng ta.
Tôi hỏi mẹ tại sao mẹ chưa bao giờ ngăn Shawn làm tổn thương tôi.
Shawn luôn nói con chọn đối đầu, và mẹ nghĩ mẹ tin điều đó, bởi vì điều đó dễ hơn. Bởi vì con mạnh mẽ, có lý trí, và bất cứ ai cũng có thể thấy. Shawn thì không.
Mẹ giải thích không hợp lý chút nào. Nếu tôi dường như có lý trí thì tại sao mẹ lại tin Shawn khi anh nói với mẹ rằng tôi chọn đối đầu? Rằng tôi cần bị khuất phục, bị trừng phạt.
Mẹ nói [2], mẹ là một người mẹ. Những người mẹ che chở. Mà Shawn là đứa bị hư tổn như thế.
Tôi muốn nói rằng mẹ cũng là mẹ của tôi nhưng tôi không nói. Tôi nhắn rằng tôi không nghĩ bố sẽ tin chuyện này.
Mẹ viết, Bố sẽ tin. Nhưng thật khó cho bố. Nó nhắc bố nhớ đến những thương tổn mà chứng rối loạn lưỡng cực của bố đã gây ra cho gia đình ta.
Trước đó tôi chưa từng nghe thấy mẹ thừa nhận rằng bố có thể bị bệnh tâm thần. Nhiều năm trước tôi đã nói với mẹ những gì tôi học được ở lớp học tâm lý về chứng rối loạn lưỡng cực và tâm thần phân liệt, nhưng mẹ gạt đi. Giờ đây, nghe mẹ nói đến chứng bệnh đó tôi có cảm giác như được giải phóng. Chứng bệnh ấy đã cho tôi một lý do để lao vào bên cạnh bố, vậy nên khi mẹ hỏi tại sao tôi không tìm đến mẹ sớm hơn, tại sao tôi không xin mẹ giúp, tôi đã trả lời thật lòng.
Tôi nói, bởi vì mẹ cũng bị bố bắt nạt. Ở trong nhà chúng tôi, mẹ không có sức mạnh. Bố cầm trịch tất cả và bố sẽ không giúp chúng tôi.
Mẹ nói, bây giờ mẹ mạnh mẽ hơn rồi. Mẹ không sợ hãi nữa.
Khi tôi đọc dòng đó, tôi hình dung ra mẹ mình là một phụ nữ trẻ, thông minh, đầy năng lượng, nhưng cũng đầy lo âu và dễ phục tùng. Sau đó hình ảnh ấy thay đổi, mẹ gầy, thon, tóc mẹ buông dài, thẳng mượt và có màu sáng bạc.
Tôi viết, Emily đang bị bắt nạt.
Mẹ viết, Đúng vậy. Giống như mẹ.
Chị ấy là mẹ, tôi nói.
Nó là mẹ đấy. Nhưng bây giờ chúng ta biết nhiều hơn rồi. Chúng ta có thể viết lại câu chuyện này.
Tôi hỏi về một chuyện cũ. Đó là chuyện xảy ra nhiều tuần trước khi tôi rời nhà đến BYU, sau khi Shawn có một đêm đặc biệt tồi tệ. Anh làm mẹ khóc, sau đó ngồi phịch xuống sofa bật TV. Tôi thấy mẹ khóc ở bàn bếp, và mẹ bảo tôi đừng tới BYU. “Con là người duy nhất đủ mạnh mẽ để điều khiển nó,” mẹ nói. “Mẹ không thể, bố con cũng không thể. Chỉ có con.”
Tôi gõ chậm, ngập ngừng: Mẹ có nhớ đã bảo con đừng đi học, rằng con là người duy nhất có thể điều khiển Shawn không?
Có, mẹ nhớ.
Tạm ngừng, sau đó những con chữ xuất hiện – những từ mà tôi không biết là mình cần nghe, nhưng khi nhìn thấy chúng, tôi hiểu rằng cả đời tôi đã tìm kiếm chúng.
Con là con của mẹ. Đáng lẽ mẹ nên bảo vệ con.
Tôi tưởng chừng mình đã sống cả một cuộc đời trong khoảnh khắc tôi đọc những dòng chữ đó, một cuộc đời khác với cuộc đời mà tôi thực sự đã sống. Tôi trở thành một con người khác, nhớ một tuổi thơ khác. Lúc đó tôi không hiểu được sự màu nhiệm của những từ đó, và bây giờ tôi cũng không hiểu được. Tôi chỉ biết điều này: rằng khi mẹ nói với tôi rằng mẹ không phải là người mẹ mà mẹ mong ước trở thành đối với tôi, lần đầu tiên mẹ đã trở thành người mẹ đó.
Con yêu mẹ, tôi viết, và đóng máy tính lại.
Mẹ và tôi chỉ nhắc đến cuộc chuyện trò đó duy nhất một lần, trên điện thoại, một tuần sau đó. “Chuyện sẽ được giải quyết thôi con,” mẹ nói. “Mẹ đã kể với bố con điều mà con và chị con nói rồi. Shawn sẽ được giúp đỡ.”
Tôi gạt chuyện đó ra khỏi đầu. Mẹ đã đứng lên đấu tranh. Mẹ mạnh mẽ. Mẹ đã gây dựng cơ sở kinh doanh của mình, với tất cả những người ấy làm việc cho mẹ, và nó vượt trội so với việc của bố cũng như các cơ sở kinh doanh khác trong thị trấn. Mẹ, người phụ nữ để phục tùng ấy, có nội lực mà tất cả những người còn lại trong gia đình tôi không thể đoán trước được. Còn bố. Bố đã thay đổi. Bố đã ôn hòa hơn, dễ cười hơn. Tương lai có thể khác quá khứ: tôi không còn nhớ mẹ ở trong bếp lắng nghe khi Shawn ghìm tôi xuống sàn nhà, ép chặt khí quản tôi. Tôi không còn nhớ hình ảnh mẹ quay nhìn đi chỗ khác nữa.
Cuộc sống của tôi ở Cambridge đã thay đổi – hoặc đúng hơn, tôi đã thay đổi thành một người khác biết tin tưởng rằng mình thuộc về Cambridge. Gần như chỉ sau một đêm nỗi hổ thẹn mà tôi cảm thấy về gia đình đã chuồn khỏi tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi có thể thoải mái giới thiệu mình từ đâu đến. Tôi thừa nhận với các bạn mình rằng tôi chưa bao giờ đến trường học phổ thông. Tôi miêu tả núi Buck, với những bãi phế liệu, khu chuồng trại và bãi quây gia súc. Tôi thậm chí kể với họ về cái hầm chứa đầy đồ dự trữ ở ngoài cánh đồng lúa mì, và thùng phuy xăng được chôn ở gần nhà kho cũ.
Tôi kể với họ rằng tôi nghèo, tôi kể với họ tôi từng dốt nát lắm, và khi kể những điều đó tôi không gợn chút xấu hổ. Chỉ khi đó tôi mới hiểu cảm giác xấu hổ bắt nguồn từ đâu: đó không phải là bởi tôi đã không học ở một trường nhạc xây bằng đá cẩm thạch hay bởi bố tôi không phải là một nhà ngoại giao. Đó không phải bởi bố tôi điên điên dở dở, hay bởi mẹ tôi phục tùng bố. Cảm giác xấu hổ bắt nguồn từ việc có một người cha đã đẩy tôi về phía những lưỡi xén rào rạo của cái máy Xén, thay vì đẩy tôi ra xa khỏi nó. Cảm giác xấu hổ bắt nguồn từ những lúc tôi bị ghìm trên sàn nhà, biết rằng mẹ ở ngay phòng bên, nhắm mắt, bịt tai, trong khoảnh khắc đó lựa chọn tuyệt nhiên không làm mẹ của tôi.
Tôi tạo một lịch sử mới cho bản thân. Tôi trở thành một vị khách thường xuyên của những bữa tối, với những câu chuyện săn bắn và về loài ngựa, về việc thu phế liệu, đấu tranh với những trận hỏa hoạn trên núi. Về người mẹ thông minh của tôi, một bà đỡ, một doanh nhân; về người cha lập dị của tôi, một người bán đồng nát và là người cuồng tín. Tôi nghĩ cuối cùng tôi cũng đã trung thực về cuộc sống mà tôi đã sống trước kia. Đó không phải là sự thật tuyệt đối, nhưng nó thật theo một nghĩa rộng hơn: thật đối với những gì sẽ diễn ra trong tương lai, giờ thì mọi chuyện đã thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn. Bởi giờ đây mẹ tôi đã tìm được sức mạnh của bản thân.
Quá khứ là một bóng ma, không có thực, không có sức ảnh hưởng. Chỉ tương lai mới có trọng lượng mà thôi.
Chú thích:
[1] Các dòng in nghiêng có hàm ý nội dung trong thư điện tử được trích dẫn theo trí nhớ, không phải được trích dẫn trực tiếp, tuy nhiên vẫn giữ đúng ý nghĩa. — TG
[2] Nguyên văn: Có lúc tác giả dùng said, và có lúc dùng wrote.