← Quay lại trang sách

Chương 32 Cánh Phụ Nữ Ồn Ào Trong Một Ngôi Nhà Rộng

Lần tiếp theo khi tôi trở về núi Buck, đó là mùa thu và bà-ở-chân-đồi sắp mất. Bà đã chống chọi với bệnh ung thư tủy xương trong chín năm; giờ đây cuộc chiến sắp kết thúc. Tôi vừa mới biết rằng mình đã giành được một suất học tiến sĩ tại Cambridge thì mẹ viết thư cho tôi. “Bà lại vào viện rồi,” mẹ thông báo. “Về mau đi. Mẹ nghĩ đây sẽ là lần cuối.”

Khi tôi xuống sân bay ở Salt Lake, bà lúc tỉnh lúc mê. Drew đón tôi ở sân bay. Khi đó quan hệ của chúng tôi đã vượt trên mức bạn bè, và Drew nói rằng anh sẽ lái xe đưa tôi về Idaho, tới bệnh viện của thị trấn.

Từ khi đưa Shawn tới bệnh viện ấy nhiều năm trước, tôi chưa quay lại đó, và khi tôi bước đi trong hành lang trắng toát sực mùi thuốc khử trùng, tôi khó mà không nghĩ đến anh. Tôi tìm thấy phòng của bà. Ông tôi đang ngồi bên giường bà, nắm bàn tay trơ xương của bà. Mắt bà mở và bà nhìn tôi. “Tara bé bỏng của bà từ tận bên Anh đã về đây rồi,” bà nói, rồi mắt bà nhắm lại. Ông siết tay bà nhưng bà đã thiếp đi. Người y tá nói với chúng tôi rằng bà có thể sẽ ngủ trong nhiều giờ.

Drew nói rằng anh sẽ lái xe đưa tôi về núi Buck. Tôi đồng ý và khi ngọn núi chưa hiện ra trong tầm nhìn tôi đã tự hỏi liệu có phải mình đã phạm một sai lầm hay không. Drew đã nghe những câu chuyện của tôi, nhưng vẫn có rủi ro trong việc đưa anh tới đây: đây không phải là một câu chuyện, và tôi không chắc những ai sẽ đóng vai mà tôi đã viết sẵn cho họ.

Nhà tôi nhốn nháo, lộn xộn. Chỗ nào cũng có những phụ nữ, vài người đang nhận đơn đặt hàng qua điện thoại, những người khác pha chế tinh dầu hoặc lọc rượu thuốc. Có một phòng mới được xây thêm ở phía nam của ngôi nhà, nơi những phụ nữ trẻ đang đóng chai và gói hàng để chuyển đi. Tôi để Drew ngồi trong phòng khách và đi vào phòng vệ sinh, nơi duy nhất trong nhà trông có vẻ vẫn như những gì tôi đã nhớ. Khi tôi bước ra khỏi đó tôi gặp một bà già có mái tóc xơ loăn xoăn, đeo đôi kính mắt vuông to tướng.

“Buồng vệ sinh này chỉ dành cho người quản lý cấp cao,” bà nói. “Thợ đóng chai dùng buồng vệ sinh ở phòng phụ kia.”

“Cháu không làm việc ở đây,” tôi nói.

Bà nhìn tôi chằm chằm. Tất nhiên tôi làm việc ở đây. Mọi người đều làm việc ở đây.

“Buồng vệ sinh này chỉ dành cho người quản lý cấp cao,” bà nhắc lại, cố đứng thẳng người hết mức có thể. “Cô không được phép rời khỏi phòng phụ.”

Bà bỏ đi trước khi tôi kịp trả lời.

Tôi vẫn chưa nhìn thấy bố hay mẹ đâu cả. Tôi quay vào trong nhà và thấy Drew đang ngồi trên sofa nghe một phụ nữ giải thích rằng thuốc giảm đau aspirin có thể gây vô sinh. Tôi nắm tay anh, kéo anh đi theo mình, mở đường đi qua chỗ những người lạ.

“Nơi này là thật đấy chứ?” Anh hỏi.

Tôi tìm thấy mẹ trong một phòng không có cửa sổ ở dưới tầng hầm. Tôi có cảm giác rằng mẹ đang trốn ở dưới đó. Tôi giới thiệu mẹ với Drew và mẹ nở nụ cười ấm áp. “Bố đâu ạ?” Tôi hỏi. Tôi ngờ rằng bố ốm phải nằm trên giường, bởi vì bố hay bị các bệnh về phổi từ khi vụ nổ làm tổn thương phổi của bố.

“Mẹ chắc chắn bố đang phấn khích đấy,” mẹ nói, ngước nhìn lên trần nhà có những tiếng bước chân thình thịch.

Mẹ cùng chúng tôi đi lên cầu thang. Vừa thò mặt ra khỏi tầng hầm, mẹ bị mấy nhân viên gọi dồn dập để trả lời thắc mắc của khách hàng. Tất cả mọi người dường như đều muốn hỏi ý kiến của mẹ – về các vết bỏng, về chứng hồi hộp, về những đứa trẻ sơ sinh thiếu cân của họ. Mẹ phẩy tay bảo họ đi chỗ khác và dấn bước về phía trước. Ấn tượng mà mẹ cho thấy khi mẹ di chuyển trong nhà của mình là ấn tượng về một người nổi tiếng trong một nhà hàng đông khách, cố gắng không để ai nhận ra mình.

Bàn của bố tôi to cỡ bằng một chiếc ô tô. Nó được đặt ở trung tâm của đống lộn xộn. Bố đang nói chuyện qua chiếc điện thoại mà bố kẹp giữa má và vai để nó không trượt qua hai bàn tay nhợt nhạt của bố. “Với bệnh tiểu đường thì lũ bác sĩ chẳng thể giúp gì được đâu,” bố nói oang oang. “Nhưng Chúa có thể!”

Tôi liếc nhìn Drew đang mỉm cười. Bố gác máy quay sang chúng tôi. Bố đón chào Drew với nụ cười rộng đến mang tai. Bố tỏa ra thứ năng lượng được cảnh hỗn loạn ồn ào trong nhà làm tiếp cho. Drew nói rằng anh ấn tượng với việc kinh doanh của gia đình, và bố dường như cao thêm hơn chục phân. “Chúng tôi được ban phước vì làm công việc của Chúa,” bố nói.

Điện thoại lại đổ chuông. Ít nhất ba nhân viên có nhiệm vụ trả lời điện thoại, nhưng bố nhảy bố tới, chộp lấy ống nghe như thể bố đang đợi một cuộc gọi quan trọng. Tôi chưa bao giờ thấy bố đầy sinh lực như thế.

“Sức mạnh của Chúa trên trái đất,” bố gào vào điện thoại. “Những loại tinh dầu đó là thế đấy: Thuốc của Chúa!”

Không khí ồn ào trong nhà khiến tôi mất phương hướng, vậy nên tôi dẫn Drew lên núi. Chúng tôi đi dạo qua những cánh đồng lúa mì mọc hoang và từ đó tới vạt thông ở chân núi. Sắc màu của mùa thu thật dịu êm, chúng tôi ở trên đó nhiều giờ nhìn xuống thung lũng yên tĩnh. Xế trưa chúng tôi mới quay về nhà và Drew lên đường trở về thành phố Salt Lake.

Tôi bước vào Nhà nguyện qua ô cửa kiểu Pháp và ngạc nhiên bởi sự tĩnh lặng. Nhà tôi vắng vẻ, điện thoại đều bị tháo cáp hết, mọi phòng thuốc đều bị bỏ không. Mẹ tôi ngồi một mình ở giữa phòng.

“Bệnh viện gọi điện tới,” mẹ nói. “Bà mất rồi.”

Bố tôi mất hứng làm ăn. Bố bắt đầu dậy muộn, càng ngày càng muộn hơn, và khi bố dậy, dường như chỉ để sỉ nhục và buộc tội. Bố gầm lên với Shawn về bãi phế liệu, lên lớp cho mẹ về cách quản lý nhân viên của bà. Bố tát Audrey khi chị cố làm bữa trưa cho bố, và quát mắng tôi vì gõ bàn phím quá ồn. Cứ như thể bố muốn đánh nhau, muốn trừng phạt bản thân vì cái chết của bà tôi. Hoặc có lẽ sự trừng phạt là dành cho cuộc đời bà, cho cuộc xung đột giữa họ, cuộc xung đột mà chỉ bây giờ, khi bà chết, mới kết thúc.

Ngôi nhà dần dần đông đúc trở lại. Những chiếc máy điện thoại lại được kết nối, và những phụ nữ xuất hiện để trả lời điện thoại. Bàn của bố tôi vẫn trống không. Bố nằm lì trên giường hết ngày này qua ngày khác, nhìn đăm đăm lên trần nhà trát vữa. Tôi mang bữa tối vào cho bố, như tôi vẫn làm khi còn bé, và y như hồi bé – bây giờ tôi cũng tự hỏi liệu bố có biết tôi đang ở đó hay không.

Mẹ tôi chạy qua chạy lại với sinh lực của mười người, pha rượu thuốc và tinh dầu, chỉ đạo các nhân viên thu xếp tang lễ và nấu ăn cho từng người anh em họ, từng bà cô ghé qua để tưởng nhớ bà tôi mà không báo trước. Trong hầu hết thời gian tôi thấy mẹ đeo tạp dề, đứng trông một mẻ thịt nướng, mỗi tay cầm một chiếc điện thoại, một dành cho khách hàng, chiếc còn lại để trả lời một ông chú hoặc một người bạn gọi tới chia buồn. Trong khi tất cả những việc đó diễn ra, bố tôi vẫn nằm lì trên giường.

Bố phát biểu tại đám tang. Bài điếu văn của bố là một bài giảng đạo kéo dài hai mươi phút về những lời hứa của Chúa với Abraham. Bố nhắc đến bà hai lần. Đối với những người lạ, dường như bố tôi hầu như không bị ảnh hưởng khi mất đi mẹ đẻ của bố, nhưng chúng tôi biết rõ hơn, chúng tôi có thể thấy được nỗi suy sụp.

Sau lễ tang, khi chúng tôi về đến nhà, bố nổi giận vì bữa trưa chưa được chuẩn bị xong. Mẹ nhoài ra để phục vụ món thịt hầm mà mẹ đã để chế độ nấu chậm, nhưng sau bữa ăn bố dường như vẫn tức giận không kém vì đống bát đĩa bẩn, và mẹ vội vã cất dọn, sau đó lại bực tức vì mấy đứa cháu chơi đùa quá ồn ào trong khi mẹ vội lao ra, cố bảo chúng trật tự.

Tối hôm đó, khi nhà đã vắng vẻ và im ắng, từ phòng khách tôi lắng nghe bố mẹ mình to tiếng ở trong bếp.

“Việc tối thiểu ông có thể làm,” mẹ nói, “là điền chữ vào những tấm thiếp cảm ơn. Dù sao đó cũng là mẹ của ông.”

“Đó là việc của người vợ,” bố nói. “Tôi chưa bao giờ nghe nói một người đàn ông nào lại ngồi viết thiếp cả.”

Bố nói không phải chút nào. Trong mười năm, mẹ là lao động chính có thu nhập trong gia đình, trong khi vẫn phải nấu ăn, lau dọn nhà cửa, giặt giũ, và tôi chưa bao giờ nghe thấy mẹ biểu lộ điều gì có thể gọi là oán giận. Cho đến bây giờ.

“Vậy thì ông nên làm việc của người chồng đi,” mẹ nói, giọng mẹ cất cao.

Chẳng bao lâu sau cả bố và mẹ đều gầm lên. Bố cố dồn mẹ, cố khuất phục mẹ bằng cơn giận dữ, như bố thường thể hiện, nhưng điều này chỉ càng khiến mẹ bướng bỉnh hơn. Cuối cùng mẹ quẳng những tấm thiếp lên bàn và nói, “Viết hay không thì tùy. Nhưng nếu ông không viết thì chẳng ai viết đâu.” Rồi mẹ bước xuống cầu thang. Bố đi theo, và trong một tiếng đồng hồ tiếng quát tháo của họ vọng lên qua sàn nhà.

Tôi chưa bao giờ nghe thấy bố mẹ mình gầm lên như thế – ít nhất, mẹ không như vậy. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ không chịu nhượng bộ.

Sáng hôm sau tôi thấy bố ở trong bếp, đổ bột ra thành thứ gì đó trông như keo dán mà tôi đoán chắc là bột nhão để làm bánh kếp. Nhìn thấy tôi, bố bỏ túi bột xuống và ngồi vào bàn. “Mày là phụ nữ, đúng không nhỉ?” Bố hỏi. “Vậy thì đây là bếp đấy.” Bố con tôi nhìn nhau trừng trừng và tôi nghĩ về khoảng cách vừa mới nảy nòi ra giữa chúng tôi – những từ đó đối với đôi tai của bố nghe mới tự nhiên làm sao, còn đối với đôi tai của tôi thì khó chịu biết nhường nào.

Không có vẻ như mẹ để kệ bố tự làm bữa sáng. Tôi nghĩ có lẽ mẹ ốm, vậy nên tôi đi xuống cầu thang để xem mẹ ra sao. Vừa mới tới đầu cầu thang tôi đã nghe thấy âm thanh đó: tiếng nức nở nghẹn ngào vọng ra từ buồng vệ sinh, bị tiếng máy sấy tóc dìm xuống. Tôi đứng bên ngoài cánh cửa, lắng nghe hơn một phút và chết lặng. Mẹ muốn tôi đi khỏi đó, làm như tôi không nghe thấy gì chăng? Tôi đợi mẹ bình tĩnh lại, nhưng những tiếng nức nở của mẹ chỉ càng dữ dội hơn.

Tôi gõ cửa. “Con đây,” tôi nói.

Cánh cửa mở, và mẹ tôi ở đó, thoạt đầu là một phần sau đó là một phần lớn hơn, da mẹ sáng lấp lánh khi vừa tắm, chiếc khăn tắm quá nhỏ để che phủ người mẹ. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy mẹ mình như thế này và theo bản năng tôi nhắm mắt lại. Thế giới biến thành màu đen. Tôi nghe thấy một tiếng thịch, tiếng cạch của nhựa, và mở mắt ra. Mẹ đánh rơi chiếc máy sấy và nó đập xuống sàn nhà, tiếng ồn mà nó gây ra được nhân đôi khi nó nảy lên trên sàn xi măng không trải thảm. Tôi nhìn mẹ, và nhìn mẹ, khi mẹ kéo tôi về phía mẹ và ôm tôi. Nước từ người mẹ thấm vào quần áo tôi, và tôi cảm thấy từng giọt nước từ tóc mẹ nhỏ xuống vai mình.