← Quay lại trang sách

Chương 33 Bùa Phép Của Vật Lý

Tôi không ở lại núi Buck lâu, có lẽ chỉ một tuần. Hôm tôi rời núi, Audrey bảo tôi đừng đi. Tôi không nhớ cuộc trò chuyện đó, nhưng tôi nhớ đã viết nhật ký về nó. Tôi viết về nó trong buổi tối đầu tiên tôi trở lại Cambridge, trong khi ngồi trên cây cầu đá nhìn lên Nhà thờ ở trường Kings College. Tôi nhớ khi đó dòng sông phẳng lặng; tôi nhớ những chiếc lá thu bay la đà đậu xuống mặt nước trong như gương. Tôi nhớ tiếng ngòi bút của mình lạo xạo trên mặt giấy, kể lại kín tám trang, kể chính xác những gì chị gái tôi đã nói. Nhưng ký ức về chị nói rằng cuộc trò chuyện đó đã biến mất rồi: như thể tôi viết ra để quên.

Audrey bảo tôi hãy ở lại. Chị nói, Shawn khỏe quá, có sức thuyết phục quá nên một mình chị không thể đương đầu với anh. Tôi bảo chị rằng chị không cô đơn, chị có mẹ. Audrey nói tôi không hiểu. Rốt cuộc không ai tin chúng tôi hết. Nếu chúng tôi đề nghị bố giúp thì chị dám chắc bố sẽ gọi cả hai chúng tôi là lũ điêu trá. Tôi bảo chị rằng bố mẹ đã thay đổi và chúng tôi nên tin tưởng họ. Rồi tôi lên máy bay và đi cách xa đó năm nghìn dặm.

Nếu tôi cảm thấy có lỗi vì đã ghi lại những nỗi sợ hãi của chị gái mình từ một khoảng cách an toàn, được vây quanh bởi những thư viện lớn và những nhà thờ cổ kính, thì tôi chỉ bộc lộ một dấu hiệu duy nhất về điều đó, ở dòng cuối mà tôi đã viết tối hôm ấy: tối nay Cambridge bớt đẹp hơn.

Drew đã đến Cambridge với tôi, anh được nhận vào chương trình đào tạo thạc sĩ nghiên cứu về Trung Đông. Tôi đã kể với anh cuộc trò chuyện giữa tôi và Audrey. Anh là người bạn trai đầu tiên được tôi kể cho nghe về gia đình tôi – kể thật sự, kể sự thật chứ không phải là những chuyện vặt vãnh gây cười. Tôi nói, tất nhiên toàn bộ những chuyện tôi kể đều thuộc về quá khứ. Gia đình em bây giờ khác rồi. Nhưng anh vẫn nên biết. Để anh có thể trông chừng em. Phòng khi em làm chuyện gì đó điên rồ.

Kỳ học đầu tiên trôi qua trong những bữa tối nhộn nhịp và những bữa tiệc khuya, bị ngắt quãng bởi những tối thậm chí còn khuya hơn ở trong thư viện. Để đạt tiêu chuẩn lấy bằng tiến sĩ, tôi phải tạo ra một nghiên cứu học thuật nguyên bản của chính mình. Nói cách khác, đã dành năm năm đọc lịch sử, bây giờ tôi được yêu cầu phải viết về nó.

Nhưng viết về cái gì cơ chứ? Trong khi đọc để làm luận văn thạc sĩ, tôi đã ngạc nhiên khi phát hiện ra dư âm của thuyết thần học Mặc Môn ở những nhà triết học nổi tiếng của thế kỷ mười chín. Tôi đề cập điều này với thầy hướng dẫn, giáo sư David Runciman. “Đó là công trình của em đấy,” ông nói. “Em có thể làm điều mà chưa ai từng làm: em có thể nghiên cứu chủ nghĩa Mặc Môn không chỉ dưới góc độ là một phong trào tôn giáo, mà là phong trào trí thức.”

Tôi bắt đầu đọc lại những bức thư của Joseph Smith và Brigham Young. Khi còn nhỏ tôi đã đọc những bức thư này – để tỏ lòng thờ phụng; giờ đây tôi đọc chúng bằng con mắt khác, không phải con mắt của một nhà phê bình, nhưng cũng chẳng phải con mắt của một môn đồ. Tôi nghiên cứu tục đa thê, không phải dưới góc độ là một học thuyết mà là một chính sách xã hội. Tôi so sánh nó với những mục tiêu của riêng mình, cũng như với những phong trào và học thuyết khác trong cùng giai đoạn. Tôi cảm thấy việc đó giống như một hành động cực đoan.

Những người bạn ở Cambridge đã trở thành gia đình của tôi, và tôi có cảm giác mình hòa hợp với họ, cảm giác mà trong nhiều năm đã thiếu vắng ở núi Buck. Đôi khi tôi cảm thấy mình đáng ghét vì những cảm giác như thế. Tôi nghĩ thật không tự nhiên khi đứa em gái lại yêu quý một người lạ hơn anh trai nó, và loại con gái gì lại thích một thầy giáo hơn bố đẻ của nó?

Nhưng dù tôi ước thực tế khác kia, tôi vẫn không muốn về nhà. Tôi thích cái gia đình mà mình đã lựa chọn hơn gia đình mà mình được ban cho, vậy nên tôi càng hạnh phúc hơn ở Cambridge, thì niềm hạnh phúc của tôi càng bị làm ô uế bởi cảm giác rằng tôi đã phản bội núi Buck. Cảm giác đó trở thành một phần thân thể tôi, một thứ gì đó mà tôi có thể nếm trên lưỡi, hoặc ngửi thấy từ hơi thở.

Tôi mua một vé đi Idaho cho dịp Giáng sinh. Tối trước hôm tôi bay, có một bữa tiệc ở trường. Một trong những người bạn của tôi đã lập một đội hợp xướng để hát thánh ca trong bữa tiệc. Đội hợp xướng đã luyện tập trong nhiều tuần, nhưng đúng hôm bữa tiệc diễn ra, giọng nữ cao của đội bị viêm phế quản. Trưa hôm đó điện thoại của tôi đổ chuông. Một người bạn gọi tới. “Hãy nói với tớ rằng cậu biết người nào đó có thể hát đi,” cậu ấy nói.

Đã nhiều năm rồi tôi không hát, và chưa bao giờ tôi hát mà không có bố tôi nghe, nhưng vài giờ sau tôi tham gia đội hợp xướng trên một bục cao gần những thanh xà mái nhà, phía trên cây thông Giáng sinh khổng lồ thống trị hội trường. Tôi trân quý khoảnh khắc đó, thích thú với niềm lâng lâng mà tôi cảm thấy khi một lần nữa lại có âm nhạc dâng trào từ lồng ngực mình, và tự hỏi nếu bố tôi ở đây thì bố có bất chấp trường đại học và chủ nghĩa xã hội để nghe tôi hát hay không. Tôi tin là có.

Núi Buck không thay đổi. Nàng công chúa bị chôn vùi trong tuyết nhưng tôi có thể nhìn thấy những đường nét bí ẩn của đôi chân nàng. Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi đang ở trong bếp, một tay khuấy nồi thịt hầm, một tay cầm điện thoại giải thích các đặc tính của cây ích mẫu. Bàn của bố vẫn trống không. Mẹ nói, bố đang nằm trên giường, ở dưới tầng hầm. Có gì đó đã kìm hãm lá phổi của bố.

Một người lạ lực lưỡng ngật ngưỡng bước vào qua cửa sau. Vài giây trôi qua tôi mới nhận ra đó là anh trai mình. Râu của Luke quá rậm, anh trông giống một trong những con dê của anh. Mắt trái anh trắng dã, không có sự sống: vài tháng trước anh bị một cái súng sơn bắn trúng mặt. Anh đi qua phòng và vỗ vào lưng tôi, còn tôi nhìn không chớp bên mắt còn lại của anh, tìm kiếm một nét quen thuộc. Nhưng phải đến khi tôi nhìn thấy cái sẹo gồ lên trên cẳng tay anh, và một vết sẹo hình dấu kiềm cong cong rộng năm phân nơi cái máy xén đã cắn mất thịt anh tôi mới chắc chắn người đàn ông này là anh trai mình. [1]

Anh kể với tôi rằng anh đang sống với vợ và một đàn con trong cái nhà lắp ghép ở sau khu chuồng trại, anh kiếm tiền nhờ khoan dầu ở Bắc Dakota.

Hai ngày trôi qua. Tối nào bố cũng từ tầng hầm đi lên, ngồi xuống sofa ở trong Nhà nguyện, vừa ho khù khụ vừa xem TV hoặc đọc Kinh Cựu Ước. Tôi dành thời gian trong ngày của mình học và giúp mẹ.

Vào tối thứ ba tôi đang ngồi ở bàn ăn đọc sách thì Shawn và Benjamin bước vào qua cửa sau. Benjamin đang nói với Shawn về cú đấm mà anh tung ra sau một tai nạn nhỏ ở trong thành phố. Anh nói rằng trước khi trèo ra khỏi xe tải để đối mặt với tay lái xe kia, anh đã giất khẩu súng ngắn vào cạp quần bò. “Gã đó không biết gã phải đối mặt với điều gì đâu,” Benjamin nói, cười toe toét.

“Chỉ một thằng ngốc mới mang súng trong một vụ va chạm kiểu như thế,” Shawn nói.

“Em mang thì mang thôi chứ có dùng đâu,” Benjamin càu nhàu.

“Vậy thì đừng có mang,” Shawn nói. “Khi mà mày biết mày sẽ không dùng nó. Nếu mày mang súng thì mày có thể sẽ dùng nó, thực tế là vậy. Một vụ đấm nhau có thể biến thành một vụ đấu súng nhanh lắm đấy.”

Shawn nói một cách điềm tĩnh và có suy nghĩ. Mái tóc vàng của anh bẩn và chưa được cắt, mọc dài bù xù, còn mặt anh đầy râu ria lởm chởm màu diệp thạch. Mắt anh sáng lấp lánh dưới lớp dầu mỡ và bụi bẩn như những ngọn lửa màu xanh dương trong đám tro. Vẻ mặt cũng như lời nói của anh dường như thuộc về một người đàn ông già dặn hơn nhiều, một người đàn ông có bầu máu nóng đã nguội bớt, giờ đây đã yên bình.

Shawn quay sang tôi. Tôi luôn tránh mặt anh, nhưng bỗng nhiên điều đó dường như không công bằng. Anh đã thay đổi; thật tàn nhẫn khi làm như anh không thay đổi. Anh hỏi tôi có muốn đi xe một vòng không, tôi nói có. Shawn muốn ăn kem vậy nên chúng tôi mua sữa lắc. Cuộc trò chuyện ôn hòa và thoải mái, giống như nhiều năm trước vào những buổi chạng vạng ở bãi quây gia súc chúng tôi đã trò chuyện. Anh kể với tôi về việc điều hành đội lao động mà không có bố, về những lá phổi yếu ớt của Peter – về những cuộc phẫu thuật và những ống thở oxy mà nó vẫn phải đeo vào ban đêm.

Chúng tôi sắp về tới nhà, chỉ còn cách núi Buck một dặm thì Shawn bất ngờ bẻ lái và chiếc xe trượt trên băng. Anh cho xe xoay tròn, lốp xe bị kẹt rồi chiếc xe lao vọt tới một con đường phụ.

“Chúng ta đi đâu vậy?” Tôi hỏi, nhưng con đường đó chỉ dẫn đến một nơi.

Nhà thờ tối, bãi đỗ xe vắng tanh.

Shawn lượn một vòng quanh bãi rồi đỗ xe gần lối cổng chính.

Anh tắt đề máy và đèn pha lịm dần. Trong bóng tối tôi hầu như không thể nhìn thấy đường cong trên khuôn mặt anh.

“Mày đã nói chuyện nhiều với Audrey phải không?” Anh nói.

“Không hẳn,” tôi đáp.

Anh dường như nguôi đi, rồi anh nói, “Audrey là cái con khốn dối trá.”

Tôi nhìn đi chỗ khác, dán mắt vào ngọn tháp của nhà thờ hiện ra trong ánh sao.

“Tao sẽ găm một viên đạn vào đầu nó,” Shawn nói, và tôi cảm thấy người anh chuyển động về phía tôi. “Nhưng tao không muốn lãng phí một viên đạn tốt vào một con chó cái vô tích sự.”

Việc tôi không nhìn anh là cực kỳ cần thiết. Chừng nào tôi còn dán mắt vào ngọn tháp, chừng đó tôi gần như tin rằng anh không thể động vào tôi. Gần như. Bởi vì ngay cả khi tôi bám lấy niềm tin này, tôi vẫn đợi để cảm thấy hai bàn tay anh trên cổ mình. Tôi biết tôi sẽ cảm thấy chúng, và sẽ sớm cảm thấy, nhưng tôi không dám làm bất cứ điều gì có thể phá vỡ bùa phép đợi chờ. Trong khoảnh khắc đó tôi phần nào tin, như tôi đã luôn tin, rằng chính tôi sẽ phá vỡ bùa phép đó, sẽ là người gây ra việc đó. Khi yên lặng bị phá vỡ và cơn tức tối của anh dồn lên tôi, tôi sẽ biết rằng điều gì đó mình đã làm là chất xúc tác, là nguyên nhân. Trong trạng thái mê tín đó tôi có niềm hi vọng; tôi có ảo tưởng rằng mình kiểm soát được.

Tôi ngồi im, không suy nghĩ, chẳng cử động.

Đề máy kêu tách và động cơ gầm gừ hoạt động. Không khí ấm áp tràn vào qua các lỗ thông.

“Mày cảm thấy như phim hả?” Shawn nói. Giọng anh dửng dưng. Tôi nhìn thế giới quay tròn khi chiếc xe xoay tròn rồi lắc lư trở lại đường cao tốc. “Như phim nghe có vẻ đúng đấy,” anh nói.

Tôi không nói gì, không sẵn sàng cử động hoặc nói chuyện vì sợ rằng mình xâm phạm bùa phép vật lý [2] mà tôi vẫn tin là đã cứu mình. Shawn dường như không biết đến sự im lặng của tôi. Anh lái xe nốt dặm cuối về núi Buck, vừa lái xe vừa vui vẻ nói, gần như bông đùa, về chuyện xem hay không xem bộ phim Người Đàn Ông Biết Quá Ít.

Chú thích:

[1] Tôi nhớ đó là vết sẹo do Luke làm việc với cái máy xén; tuy nhiên, có thể đó là vết sẹo từ một vụ tai nạn khi anh lợp mái nhà. — TG

[2] Có thể Tara ngầm coi mối quan hệ giữa cô và Shawn cũng giống nguyên tắc lực — phản lực trong vật lý. Nếu cô dám lên tiếng (“lực tác động”) thì anh cô sẽ bóp cổ cô (“phản lực”).