← Quay lại trang sách

Chương 34 Cốt Lõi Của Những Điều Ấy

Tôi không cảm thấy mình đặc biệt can đảm khi bước tới chỗ bố trong nhà nguyện tối hôm đó. Tôi hiểu vai trò thăm dò của mình: tôi ở đó để sắp đặt thông tin, để nói với bố rằng Shawn đã đe dọa Audrey, bởi vì bố sẽ biết phải làm gì.

Hoặc có lẽ tôi bình tĩnh bởi vì tôi không ở đó, không thực sự ở đó. Có lẽ tôi ở cách xa cả một đại dương, ở một lục địa khác, đọc Hume dưới mái vòm bằng đá. Có lẽ tôi đang chạy qua King's College, với cuốn Khảo luận về bất bình đẳng kẹp nách.

“Bố, con cần nói với bố một chuyện.”

Tôi nói rằng Shawn đã đùa cợt về ý định bắn Audrey, và rằng tôi nghĩ đó là bởi Audrey dám đương đầu với anh, phản ứng trước cách cư xử của anh. Bố nhìn tôi trừng trừng, và lớp da đã từng là môi bố rúm lại. Bố lớn tiếng gọi mẹ và mẹ xuất hiện. Tâm trạng của mẹ ủ dột; tôi không thể hiểu tại sao mẹ không nhìn thẳng vào mắt tôi.

“Chính xác thì mày đang nói gì hả?” Bố nói.

Từ phút ấy, đó là một cuộc thẩm vấn. Mỗi lần tôi gợi ý rằng về một mặt nào đó Shawn tỏ ra bạo lực hoặc gian manh là y như rằng bố gầm lên với tôi: “Bằng chứng đâu mà mày nói thế? Mày có bằng chứng không hả?”

“Con có những trang nhật ký,” tôi nói.

“Mang chúng ra đây, tao sẽ đọc.”

“Con không mang nhật ký về đây,” Đó là lời nói dối; cuốn nhật ký ở dưới đệm giường tôi.

“Tao phải nghĩ gì nếu mày không có bằng chứng?” Bố vẫn gầm lên. Mẹ ngồi trên thành sofa, miệng há hốc, méo mó. Mẹ trông thật đau khổ.

“Bố không cần bằng chứng,” tôi nói khẽ. “Bố đã thấy rồi còn gì. Cả bố và mẹ đều đã thấy.”

Bổ nói chừng nào Shawn chưa mục ra ở trong tù thì tôi còn chưa hài lòng, rằng tôi từ Cambridge về chỉ để gây chuyện. Tôi nói tôi không muốn Shawn ngồi tù nhưng cần phải can thiệp. Tôi quay sang mẹ, đợi mẹ góp tiếng nói cùng tôi, nhưng mẹ lặng thinh. Mẹ nhìn dán mắt xuống sàn nhà như thể bố và tôi không ở đó.

Có một khoảnh khắc tôi hiểu mẹ sẽ không nói, rằng mẹ sẽ ngồi đó và không nói gì, rằng tôi đơn độc. Tôi cố làm cho bố bình tĩnh lại nhưng giọng tôi run rẩy, đứt quãng. Rồi tôi khóc – những tiếng nức nở bật ra từ một nơi nào đó, một phần nào đó thuộc con người tôi mà đã nhiều năm tôi không cảm nhận được, đã quên rằng nó có tồn tại. Tôi nghĩ mình có thể sẽ nôn.

Tôi chạy vào buồng vệ sinh. Tôi run từ chân tới ngón tay. Tôi phải nhanh chóng kiềm chế những tiếng nức nở này – nếu tôi không thể kiểm soát được những tiếng nức nở này thì bố sẽ không bao giờ coi những gì tôi nói là nghiêm túc – vậy nên tôi chặn đứng cơn khóc bằng những phương pháp cũ: nhìn chằm chằm vào mặt mình trong gương và mắng cái đứa ở trong gương vì mỗi giọt nước mắt trào ra. Đó là một phương pháp quen thuộc, mà nhờ nó tôi đập tan ảo tưởng mà tôi đã xây dựng công phu trong năm vừa qua. Quá khứ không có thật, tương lai không có thật, cả hai đều tiêu tan.

Tôi nhìn chằm chằm vào hình ảnh của mình trong gương. Chiếc gương thôi miên, với ba lớp ghép được đóng khung bằng chất liệu giả gỗ sồi. Đó vẫn là chiếc gương mà tôi soi khi còn nhỏ, khi còn là một bé gái, khi tôi ở tuổi mới lớn, nửa là phụ nữ, nửa là bé gái. Phía sau tôi là cái bồn cầu mà Shawn đã dúi đầu tôi vào, giữ tôi ở đó cho tới khi tôi nhận mình là đồ đĩ.

Tôi thường nhốt mình trong buồng vệ sinh này sau khi Shawn buông tôi ra. Tôi di chuyển các tấm kính cho tới khi chúng nhân mặt tôi thành ba, sau đó tôi nhìn trừng trừng từng khuôn mặt, nghĩ về những gì Shawn đã nói và những gì anh bắt tôi nói, cho tới khi điều đó trở nên thật thay vì chỉ là điều mà tôi nói để chấm dứt cái đau. Và đây vẫn là tôi, và đây vẫn là tấm gương đó. Cũng vẫn khuôn mặt ấy, lặp lại trong ba tấm gương.

Chỉ có điều nó không như cũ. Khuôn mặt này già hơn, lơ lửng phía trên chiếc áo len cashmere mềm mại. Nhưng tiến sĩ Kerry nói đúng: không phải quần áo làm cho khuôn mặt này, người phụ nữ này, khác đi. Chính điều gì đó trong đôi mắt cô ta, điều gì đó toát lên từ khuôn cằm của cô ta – một niềm hy vọng hoặc một niềm tin hoặc lòng tin chắc – rằng một cuộc đời không phải là điều không thể thay đổi được. Tôi không biết gọi điều mình đã nhìn thấy là gì, nhưng tôi cho rằng nó giống như đức tin.

Tôi đã lấy lại được cảm giác bình tĩnh yếu ớt, và rời khỏi buồng vệ sinh, mang thái độ bình tĩnh đó cẩn thận như nó là một chiếc đĩa sứ đang được để trên đầu tôi. Tôi đi chầm chậm trong hành lang, bước từng bước ngắn và đều.

“Con đi ngủ đây,” tôi nói khi đi vào Nhà nguyện. “Ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện này.”

Bố đang ngồi ở bàn của bố, cầm điện thoại bằng tay trái. “Chúng ta sẽ nói ngay bây giờ,” bố nói. “Bố đã cho Shawn biết những gì mày nói. Nó đang tới đây.”

Tôi đã tính đến việc bỏ chạy. Liệu tôi có thể lấy xe trước khi Shawn bước vào nhà hay không? Chìa khóa xe ở đâu nhỉ? Tôi nghĩ, mình cần lấy máy tính xách tay, trong đó có nghiên cứu của mình. Bỏ nó lại đi, đứa con gái ở trong gương giục.

Bố bảo tôi ngồi xuống và tôi ngồi xuống. Tôi không biết mình đã đợi bao lâu trong tình trạng tê liệt vì do dự, nhưng khi cánh cửa kiểu Pháp bật mở và Shawn bước vào, tôi vẫn đang tự hỏi liệu có thời gian để trốn hay không. Bỗng nhiên căn phòng rộng thênh thang trở nên nhỏ xíu. Tôi nhìn hai bàn tay mình. Tôi không thể ngước mắt lên.

Tôi nghe thấy tiếng bước chân. Shawn đã bước vào phòng và bây giờ đang ngồi cạnh tôi trên sofa. Anh đợi tôi nhìn anh, và khi tôi không nhìn, anh đưa tay ra nắm tay tôi. Nhẹ nhàng, như thể anh đang vuốt ve những cánh hoa hồng, anh gỡ những ngón tay tôi thẳng ra và thả một thứ gì đó vào lòng bàn tay tôi. Tôi cảm thấy cái lạnh của lưỡi dao trước khi tôi nhìn thấy nó, và cảm thấy máu thậm chí trước khi tôi nhìn thấy một vệt đỏ giữa lòng tay.

Con dao nhỏ, chỉ dài hơn chục phân và rất mỏng. Lưỡi dao ánh lên màu đỏ thẫm. Tôi cọ cọ ngón tay cái và ngón trỏ vào nhau, sau đó đưa chúng lên mũi ngửi. Mùi kim loại. Rõ ràng đó là máu. Không phải máu của tôi – anh chỉ đưa nó cho tôi thôi – nhưng máu của ai mới được chứ?

“Nếu mày thông minh, ‘gai ém' ạ,” Shawn nói, “thì mày sẽ dùng cái này cho chính mày. Bởi vì như thế tốt hơn những gì tao sẽ làm với mày nếu mày không tự làm.”

“Không ai yêu cầu việc ấy đâu,” mẹ nói.

Tôi há hốc miệng nhìn mẹ, rồi nhìn Shawn. Lúc đó chắc hẳn tôi trông như một con ngốc đối với họ, nhưng tôi không hiểu được chuyện đang xảy ra đủ rõ để có thể phản ứng.

Tôi phần nào tự hỏi liệu mình có nên quay vào buồng vệ sinh, chui vào trong gương và cử đứa con gái khác ra, cái đứa con gái mười sáu tuổi ấy. Tôi nghĩ, đứa con gái đó có thể đương đầu với chuyện này. Nó sẽ không sợ hãi như tôi. Nó sẽ không bị tổn thương như tôi. Nó là đá, không yếu mềm như da thịt. Tôi không hiểu rằng chính nỗi yếu mềm ấy – chính việc sống vài năm của một cuộc đời chấp nhận yếu mềm đó – cuối cùng đã cứu tôi.

Tôi nhìn lưỡi dao. Bố bắt đầu thuyết giảng, chốc chốc lại ngừng để mẹ có thể thông qua những nhận xét của bố. Tôi nghe thấy những giọng nói, giọng nói của chính tôi giữa những giọng nói đó, đang ngâm nga bản hòa âm trong một khán phòng cổ kính. Tôi nghe thấy tiếng cười, tiếng rượu vang được rót ra từ một cái chai, tiếng leng keng của những con dao cắt bơ chạm vào đĩa sứ. Tôi nghe được chút ít bài lên lớp của bố, nhưng tôi nhớ chính xác, như thể lúc này nó đang diễn ra, đang được truyền qua đại dương và lùi qua ba buổi hoàng hôn để trở về buổi tối tôi hát với các bạn bè trong đội hợp xướng. Tôi nghĩ, chắc là mình đã ngủ thiếp đi. Nhiều rượu vang quá. Nhiều thịt gà tây Giáng sinh quá.

Đã quyết định là mình đang mơ, tôi làm điều mà một người trong mơ làm: tôi cố hiểu và áp dụng các quy luật của hiện thực kỳ quặc này. Tôi tranh luận với những cái bóng kì dị thủ vai gia đình mình, và khi tranh luận thất bại, tôi nói dối. Những kẻ mạo danh đã bẻ cong sự thật. Bây giờ đến lượt tôi bẻ cong nó. Tôi nói với Shawn rằng tôi chẳng nói gì với bố hết. Tôi nói những câu đại loại như “Em không biết bố lấy đâu ra cái ý đó.” và “Chắc bố nghe nhầm.” hy vọng rằng nếu tôi cự tuyệt nhận thức của họ thì họ đơn giản sẽ tiêu tan. Một giờ sau, khi bốn người chúng tôi vẫn đang ngồi trên sofa, tôi cuối cùng cũng chịu chấp nhận sự tồn tại thực thể của họ. Họ ở đây thật, vậy nên tôi cũng thế. Vệt máu trên tay tôi đã khô. Con dao nằm trên thảm, bị tất cả mọi người lãng quên, trừ tôi. Tôi không dám nhìn nó. Máu của ai? Tôi nhìn anh trai mình. Người anh ấy không có vết thương.

Bố bắt đầu bài thuyết giảng mới, và lần này tôi thuộc về hiện tại đủ để nghe nó. Bố giải thích rằng những đứa bé gái cần được hướng dẫn để biết cách cư xử thích hợp ở những chỗ có đàn ông, để không trở nên quá hấp dẫn. Bố nhận thấy những thói quen thiếu đứng đắn ở mấy đứa con gái của chị tôi, mà lớn nhất trong số đó mới sáu tuổi. Shawn điềm tĩnh. Anh bị giọng nói đều đều kéo dài liên miên của bố làm cho chùng xuống. Hơn thế, anh cảm thấy được bảo vệ, được thanh minh, để rồi khi bài giảng của bố kết thúc anh nói với tôi, “Anh không biết tối nay mày nói với bố những gì nhưng chỉ nhìn mày thôi anh có thể biết anh đã làm tổn thương mày. Vậy cho anh xin lỗi.

Chúng tôi ôm nhau. Anh cười giống như chúng tôi luôn cười sau một trận đánh nhau. Tôi mỉm cười với anh như tôi luôn làm thế, như đứa con gái ấy luôn làm thế. Nhưng đứa con gái ấy không có ở đó, và nụ cười đó là giả tạo.

Tôi đi về phòng mình, đóng cửa lại, khẽ khàng cài chốt cửa, và gọi điện cho Drew. Tôi nói chẳng đâu ra đâu vì hoảng sợ, nhưng cuối cùng anh cũng hiểu. Anh nói tôi nên rời khỏi đó, ngay lập tức, và anh sẽ đón tôi ở ngang đường. Tôi nói tôi không thể. Lúc đó mọi chuyện đã lắng dịu. Nếu cố chạy trốn trong đêm thì tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Tôi lên giường nhưng không ngủ được. Tôi đợi đến sáu giờ sáng, sau đó tôi tìm thấy mẹ trong bếp. Tôi đã mượn xe của Drew để lái về núi Buck, vậy nên tôi nói với mẹ rằng có chuyện đột xuất và Drew cần xe của anh ở Salt Lake. Tôi nói khoảng một hoặc hai ngày sau tôi sẽ quay lại.

Vài phút sau tôi lái xe xuống đồi. Đường cao tốc hiện ra trước mắt tôi khi tôi nhìn thấy gì đó và dừng xe lại. Đó là chiếc xe đầu kéo mà Shawn sống với Emily và Peter trên đó. Cách chiếc xe vài bước chân, gần cửa lên xuống, có máu loang trên mặt tuyết. Có sinh vật nào đã chết ở đó.

Sau này, qua lời kể của mẹ tôi được biết đó là Diego, con chó chăn cừu giống Đức mà vài năm trước Shawn đã mua. Con chó là thú cưng, được Peter rất quý. Tối hôm ấy sau khi bố tôi gọi điện bảo Shawn đến, anh đã bước ra ngoài cái nhà xe đó và dùng dao đâm con chó đến chết trong khi đứa con trai nhỏ của anh, đứng chỉ cách đó vài bước chân, nghe Diego kêu thảm thiết. Mẹ nói vụ hành hình đó chẳng liên quan gì đến tôi hết, rằng đó là bởi con Diego cắn chết lũ gà con của Luke. Mẹ bảo đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi.

Tôi muốn tin mẹ nhưng tôi không thể. Chuyện con Diego cắn chết lũ gà của Luke xảy ra cách đó đã hơn một năm. Vả lại, con Diego thuộc giống chó thuần chủng. Shawn đã trả năm trăm đô-la mua nó. Anh có thể bán nó đi kia mà.

Nhưng lý do thực sự khiến tôi không tin lời mẹ chính là con dao. Tôi đã nhìn thấy bố và các anh trai mình buộc phải cho hàng chục con chó chết trong từng ấy năm – hầu hết là chó hoang, mà nếu không “bị xử” thì chúng sẽ không tránh xa chuồng gà. Tôi chưa bao giờ thấy ai dùng dao với một con chó. Chúng tôi bắn chúng, bắn vào đầu hoặc vào tim, để cái chết diễn ra thật nhanh. Nhưng Shawn đã chọn một con dao, và con dao có lưỡi chỉ bằng ngón tay cái của anh.

Đó là con dao mà người ta chọn để trải nghiệm giết chóc, để cảm thấy máu chảy xuống tay khi tim của sinh vật bị hại ngừng đập. Đó không phải con dao của người nông dân, thậm chí chẳng phải con dao của đồ tể. Đó là con dao của cơn cuồng nộ.

Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trong những ngày sau đó. Thậm chí bây giờ, khi xem xét kỹ lưỡng các yếu tố của cuộc chạm trán – nào là đe dọa, phủ nhận, nào là thuyết giảng, xin lỗi – tôi thấy thật khó để kể lại. Nhiều tuần sau, khi tôi nghĩ về nó, tôi thấy dường như mình đã phạm cả nghìn sai lầm, cắm hàng nghìn mũi dao vào trái tim của chính gia đình mình. Chỉ sau này tôi mới chợt nghĩ rằng bất cứ thiệt hại nào xảy ra tối hôm đó có thể đều do mình tôi gây ra. Và phải hơn một năm sau tôi mới hiểu cái điều mà đáng lẽ đã rõ ràng ngay lập tức: rằng mẹ tôi không đối đầu với bố tôi, và bố tôi không đối đầu với Shawn. Bố chưa bao giờ hứa giúp tôi và Audrey. Mẹ đã nói dối.

Giờ đây, khi tôi nhớ lại lời mẹ, nhớ cách chúng xuất hiện như bởi phép màu trên màn hình, một chi tiết nổi bật hơn tất cả những điều còn lại: rằng mẹ đã miêu tả bố là người mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Đó chính là chứng rối loạn mà tôi đã ngờ rằng bố mắc phải. Đó là lời của tôi, chứ không phải của mẹ. Rồi tôi tự hỏi phải chăng, có lẽ mẹ, người luôn phản ánh hoàn hảo ý muốn của bố, đêm hôm đó đơn thuần đã phản ánh ý muốn của tôi.

Không, tôi tự nhủ. Đó là lời của mẹ. Nhưng có là của mẹ hay không, thì những lời đã an ủi và xoa dịu tôi cũng rỗng tuếch. Tôi không dám nói là chúng không đáng tin cậy, nhưng lòng chân thật đã không thể tạo cốt lõi cho chúng, và chúng bị những luồng ý kiến khác, mạnh hơn cuốn đi.