← Quay lại trang sách

Chương 35 Phía Tây Của Mặt Trời

Tôi trốn khỏi núi với những cái túi chưa được nhét đầy đồ và không về lấy những thứ mà tôi đã bỏ lại. Tôi tới Salt Lake và ở đó với Drew cho đến hết kỳ nghỉ.

Tôi cố quên tối hôm ấy. Lần đầu tiên trong mười lăm năm, tôi gấp cuốn nhật ký lại, và cất nó đi. Ghi nhật ký là suy tư, mà tôi thì không muốn suy tư về bất cứ điều gì.

Sau ngày đầu năm mới tôi trở lại Cambridge, nhưng tôi rút lui khỏi bạn bè. Tôi đã thấy trái đất rung, đã cảm nhận được cú sốc mở đầu; giờ đây tôi đợi sự kiện địa chấn sẽ làm thay đổi cảnh quan. Tôi biết nó sẽ bắt đầu như thế nào. Shawn sẽ nghĩ về những gì bố đã nói với anh trên điện thoại, và sớm muộn gì anh cũng sẽ hiểu ra rằng khi tôi phủ nhận – rằng bố hiểu lầm tôi – là tôi dối trá. Khi hiểu ra sự thật, anh sẽ khinh thường bản thân anh trong khoảng một giờ. Sau đó anh sẽ chuyển nỗi khinh ghét đó sang tôi.

Điều đó xảy ra vào đầu tháng Ba. Shawn gửi cho tôi một bức thư điện tử. Không chào, không có tin tức gì. Chỉ có một chương trích từ Kinh Thánh, từ Phúc âm Matthew, với một câu in đậm được tách riêng: Hỡi dòng dõi rắn lục, bay vốn là loài xấu, làm sao nói được sự tốt? Câu đó làm máu tôi đóng băng.

Một giờ sau Shawn gọi điện cho tôi. Giọng anh bình thường, và chúng tôi nói chuyện hai mươi phút về Peter, về chuyện phổi thằng bé đang phát triển. Rồi anh nói:

“Anh phải quyết định một điều, và anh muốn có lời khuyên của em.”

“Được mà.”

“Tao không thể quyết định,” anh cất tiếng. Anh ngừng một lát, và tôi nghĩ có lẽ điện thoại bị gián đoạn kết nối. “Tao nên tự giết mày, hay là thuê một thằng ám sát.” Nỗi im lặng đầy tĩnh điện. “Thuê có lẽ rẻ hơn, khi tao tính đến tiền vé máy bay,”

Tôi vờ như không hiểu, nhưng điều đó chỉ khiến anh hùng hổ hơn. Bây giờ anh phóng ra những lời lăng mạ, những tiếng gầm gừ. Tôi cố làm anh bình tĩnh lại nhưng vô ích. Cuối cùng chúng tôi đã hiểu nhau. Tôi gác máy, nhưng anh gọi lại một lần, lần nữa và lần nữa, mỗi lần đều nhắc lại một điều rằng tôi nên cẩn thận, rằng kẻ ám sát anh thuê sẽ đến tìm tôi. Tôi gọi điện cho bố mẹ.

“Nó không có ý đó đâu,” mẹ nói. “Dù sao, nó cũng chẳng có nhiều tiền đến mức ấy.”

“Điều đó không quan trọng,” tôi nói.

Bố muốn có bằng chứng. “Mày không ghi âm lại cuộc gọi đó sao?” Bố nói. “Làm sao bố biết nó có nói nghiêm túc không chứ?”

“Anh ấy nói giống như anh ấy đã dọa con với con dao dính máu đó,” tôi nói.

“Nó nói đùa thôi.”

“Điều đó không quan trọng,” tôi lặp lại.

Cuối cùng những cuộc gọi cũng chấm dứt, nhưng không phải vì bất cứ điều gì bố mẹ tôi đã làm. Chúng chấm dứt khi Shawn loại bỏ tôi khỏi cuộc sống của anh. Anh viết thư, bảo tôi hãy tránh xa vợ con anh, tránh xa anh. Bức thư đó dài, cả nghìn từ buộc tội và chọc tức, nhưng cuối thư giọng anh buồn rầu. Anh nói anh yêu những anh em trai của anh, rằng họ là những người đàn ông tốt nhất mà anh biết. Anh viết, tao yêu mày nhất trong số đó, nhưng lúc nào mày cũng đâm dao vào lưng tao.

Đã nhiều năm tôi không còn gắn bó với anh trai mình, nhưng mất mát đó, dù tôi đã biết trước nhiều tháng, vẫn khiến tôi choáng váng.

Bố mẹ tôi nói rằng anh có lý trong việc từ mặt tôi. Bố nói tôi quá kích động, rằng tôi đã đưa ra lời buộc tội thiếu suy nghĩ khi mà rõ ràng trí nhớ của tôi không đáng tin cậy. Mẹ nói nỗi tức giận của tôi là một mối đe dọa thực sự và rằng Shawn có quyền bảo vệ gia đình anh. “Cơn tức giận của con tối hôm đó,” mẹ nói với tôi trên điện thoại, ám chỉ cái tối Shawn giết con Diego, “nguy hiểm gấp đôi Shawn kia.”

Hiện thực hóa lỏng. Đất dưới chân tôi sụt xuống, lôi tôi xuống phía dưới, xoay tròn nhanh chóng mặt, như cát chảy qua một lỗ ở đáy vũ trụ. Lần tiếp theo chúng tôi nói chuyện, mẹ bảo với tôi rằng con dao đó không hề có ý đe dọa. “Shawn cố làm cho con thoải mái hơn,” mẹ nói. “Nó biết nếu nó cầm dao thì con sợ, vậy nên nó đưa con dao cho con.” Một tuần sau mẹ nói chẳng có con dao nào ở đó hết.

“Khi nói chuyện với con,” mẹ nói, “sự thật của con rất cong vênh. Nói chuyện với con giống như nói với người nào đó không từng ở đây vậy.”

Tôi đồng ý. Sự thực đúng là như vậy đó.

Mùa hè đó tôi được cấp một khoản kinh phí để đi làm nghiên cứu ở Paris. Drew đi cùng tôi. Căn hộ của chúng tôi ở quận sáu, gần vườn Luxembourg. Cuộc sống của tôi ở đó hoàn toàn mới, và gần với tình trạng sáo rỗng hết mức mà tôi có thể tạo ra. Tôi bị cuốn hút vào những phần của thành phố nơi có đông khách du lịch nhất để tôi có thể ném mình vào giữa đám đông. Đó là một dạng cuồng nhiệt của quên lãng, và tôi dành cả mùa hè theo đuổi nó: để mình mất hút trong đám đông khách du lịch, cho phép bản thân được xóa sạch cá tính, tính cách, toàn bộ lịch sử. Điểm tham quan nào càng đông thì tôi càng bị cuốn vào.

Tôi ở Paris được vài tuần và vào một buổi trưa, vừa mới từ lớp học tiếng Pháp ra, tôi dừng chân tại một quán cà phê để kiểm tra thư điện tử. Có một bức thư của chị gái tôi.

Bố tôi tới nhà chị trên đó – tôi hiểu câu này ngay lập tức – nhưng tôi phải đọc thư vài lần mới hiểu được chính xác. Bố tôi chứng minh với chị rằng Shawn đã được Chúa Cứu thế [1] gột rửa, rằng bây giờ anh là một con người mới. Bố muốn cảnh báo Audrey rằng nếu chị còn khơi lại quá khứ thì điều đó sẽ hủy hoại cả gia đình chúng tôi. Bố nói, việc Audrey và tôi tha thứ cho Shawn là ý Chúa. Nếu chúng tôi không tha thứ, tội lỗi của chúng tôi sẽ lớn hơn.

Tôi có thể dễ dàng mường tượng ra cuộc gặp đó, vẻ nghiêm trang của bố khi bố ngồi đối diện với chị tôi, cũng như sự sùng kính và uy quyền trong lời nói của bố.

Audrey nói với bố rằng chị cũng đã được Chúa Cứu thế chuộc tội cho từ lâu, được tiếp thêm sức mạnh và đã tha thứ cho anh trai mình. Chị nói rằng tôi đã khiêu khích chị, khuấy động cơn tức giận bên trong chị. Rằng tôi đã phản bội chị bởi vì tôi đã cho phép bản thân đầu hàng trước nỗi sợ hãi, vương quốc của quỷ Satan, hơn là bước đi bên Chúa cùng với đức tin. Chị nói điều đó rất nguy hiểm bởi vì tôi đã bị nỗi sợ hãi và cha đẻ của nỗi sợ hãi là quỷ Satan điều khiển.

Cuối thư chị viết rằng tôi không được đón chào ở nhà chị, hoặc thậm chí gọi điện cho chị cũng không, trừ khi có người nào khác giám sát để chị không bị khuất phục trước ảnh hưởng của tôi. Khi tôi đọc dòng đó, tôi cười phá lên. Tình huống éo le nhưng không phải là không mỉa mai: vài tháng trước, chính Audrey đã nói rằng Shawn nên chịu giám sát khi có mặt bọn trẻ. Bây giờ, sau những nỗ lực của chúng tôi, người sẽ bị giám sát là tôi.

Khi tôi mất chị gái mình, tôi mất gia đình.

Tôi biết bố sẽ dành cho các anh trai tôi những cuộc viếng thăm tương tự. Họ có tin bố không? Tôi nghĩ họ tin. Suy cho cùng, Audrey sẽ xác nhận nó. Sự phủ nhận của tôi, những lời huênh hoang rỗng tuếch của một người xa lạ, sẽ trở nên vô nghĩa. Tôi đã đi quá xa, đã thay đổi quá nhiều, chỉ còn rất ít nét giống với đứa con gái đầu gối ghẻ lở mà họ nhớ là em gái họ.

Có rất ít hy vọng kiểm soát cái quá khứ mà bố và chị gái đang nhào nặn cho tôi. Lời kể của họ sẽ thuyết phục các anh trai tôi trước, sau đó nó sẽ lan tới các cô dì, chú bác, các anh chị em họ của tôi, và tới khắp thung lũng. Tôi đã mất hết họ hàng, và vì chuyện gì nhỉ?

Đang trong trạng thái tinh thần đó tôi nhận được một bức thư khác: tôi đã giành được học bổng nghiên cứu ngắn hạn tại Harvard. Tôi không nghĩ có bao giờ mình nhận được một tin như vậy với nỗi dửng dưng hơn thế. Tôi biết mình nên cảm thấy ngập tràn biết ơn rằng mình, một đứa con gái dốt nát chui ra từ một đống phế liệu, lại được phép học ở đó, nhưng tôi không thể nào hứng khởi trong hoàn cảnh đó. Tôi bắt đầu nhận thức được mình phải trả giá những gì khi tiếp cận với nền giáo dục, và bắt đầu oán giận nó.

Sau khi đọc thư của Audrey, tôi thấy quá khứ thay đổi. Điều đó bắt đầu với ký ức của tôi về chị. Chúng biến đổi. Khi tôi nhớ lại bất cứ giây phút nào của thời ấu thơ tôi và chị bên nhau, những giây phút dịu dàng hoặc hài hước, những lúc đứa con gái là tôi và đứa con gái là chị, ký ức lập tức thay đổi, bị vấy bẩn, trở nên thối rữa, Quá khứ trở nên đáng ghê sợ chẳng khác gì hiện tại.

Thay đổi ấy lặp lại với mỗi thành viên gia đình tôi. Những kỷ niệm của tôi về họ trở thành điềm bảo, sự kết tội. Đứa bé gái trong gia đình họ, đứa bé đã từng là tôi, không còn là một đứa bé nữa, mà đã trở thành gì đó khác, đầy đe dọa và thâm độc, một đối tượng sẽ hủy hoại họ.

Cả tháng trời đứa trẻ quái vật đó lén theo tôi trước khi tôi tìm được một logic để trục xuất nó: logic đó là, có lẽ tôi bị điên. Nếu tôi bị điên thì mọi chuyện xảy ra thật dễ hiểu. Nếu tôi không bị điên thì chẳng chuyện gì có thể hiểu nổi. Cái logic này dường như thật đáng nguyền rủa. Nhưng nó cũng là một sự giải thoát. Tôi không xấu xa; tôi bị bệnh.

Tỏi bắt đầu chiều theo đánh giá của người khác, luôn luôn chiều theo. Nếu Drew nhớ một điều gì đó khác so với tôi đã nhớ thì tôi lập tức thừa nhận điều đó theo cách của anh. Tôi bắt đầu dựa vào Drew để anh kể cho tôi nghe những sự kiện trong cuộc sống của chúng tôi. Tôi thích thú với mối nghi ngờ bản thân xem liệu tuần trước hoặc tuần trước nữa chúng tôi có gặp một người bạn đặc biệt nào hay không, hoặc tiệm bánh kếp ưa thích của tôi ở cạnh thư viện hay gần bảo tầng. Việc hỏi những chuyện lặt vặt như thế, và khả năng nắm bắt chúng của tôi, cho phép tôi nghi ngờ rằng liệu bất cứ điều gì tôi nhớ có thật sự xảy ra hay không.

Những trang nhật ký của tôi là một vấn đề. Tôi biết rằng ký ức của tôi không chỉ là ký ức, rằng tôi đã ghi lại chúng, rằng chúng tồn tại dưới dạng mực đen, giấy trắng. Điều này không chỉ có nghĩa là trí nhớ của tôi không chính xác. Ảo giác nằm ở sâu hơn, ở phần cốt lõi của trí não tôi, phần hư cấu ra mọi khoảnh khắc của sự việc, sau đó ghi lại những gì nó đã hư cấu.

Trong tháng tiếp theo tôi sống cuộc sống của kẻ mất trí. Nhìn nắng tôi ngờ đó là mưa. Tôi cảm thấy mình luôn muốn nhờ mọi người xác nhận xem họ có đang nhìn thấy những gì tôi thấy hay không. Cuốn sách này màu xanh đấy chứ? Tôi muốn hỏi. Người đàn ông đó cao nhỉ?

Đôi khi mối hoài nghi này được thể hiện chắc chắn và cương quyết: có những ngày càng nghi ngờ trí minh mẫn của mình, tôi lại càng quyết liệt bảo vệ những ký ức, “sự thật” của riêng mình. Shawn bạo lực, nguy hiểm, và bố tôi là người bảo vệ của anh. Tôi không thể chịu nổi khi nghe bất cứ một ý kiến nào khác về chuyện này.

Vào những lúc đó, tôi cuống cuồng tìm kiếm một lý do để nghĩ mình không điên. Bằng chứng. Tôi cần bằng chứng như cần khí trời. Tôi viết thư cho Erin – người phụ nữ mà Shawn đã hẹn hò trước và sau khi hẹn hò với Sadie, người mà từ năm mười sáu tuổi tôi chưa gặp lại. Tôi nói với chị những gì tôi nhớ và hỏi chị, thẳng thừng, rằng liệu có phải tôi bị loạn trí hay không. Chị trả lời ngay tắp lự rằng tôi không hề loạn trí. Để giúp tôi tin bản thân, chị chia sẻ những ký ức của chị – về chuyện Shawn quát vào mặt chị rằng chị là đồ đĩ. Từ đó đập vào tâm trí tôi. Tôi không nói với chị rằng anh cũng gọi tôi như thế.

Erin kể với tôi một chuyện khác. Một lần, khi chị nói lại Shawn – chỉ một chút thôi, chị nói, như thể thái độ của chị bị đem ra xét xử – anh lôi chị ra khỏi nhà chị và đập đầu chị vào bức tường gạch mạnh đến nỗi chị nghĩ anh sẽ giết chết chị. Hai bàn tay anh khóa cổ họng chị. Lần đó mình may mắn, chị viết. Mình đã kịp kêu lên trước khi anh ta bắt đầu làm mình ngạt thở, và bà mình nghe thấy tiếng kêu, kịp ngăn anh ta lại. Nhưng mình biết mình đã nhìn thấy gì trong mắt anh ta.

Bức thư của chị như một thanh vịn gắn với sự thật, một thanh vịn mà tôi có thể đưa tay ra với và nắm chặt lấy khi đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng. Đúng là như vậy, cho đến khi tôi chợt nảy ra ý nghĩ có thể chị ấy cũng điên như mình. Chị ấy rõ ràng đã bị tổn thương, tôi tự nhủ. Làm sao tôi có thể tin lời kể của chị sau những gì chị đã trải qua? Tôi không thể trao lòng tin cho người phụ nữ này bởi vì hơn ai hết, tôi biết những tổn thương tâm lý nơi chị nghiêm trọng đến mức nào. Vậy nên tôi tiếp tục tìm kiếm bằng chứng từ nguồn khác.

Bốn năm sau, hoàn toàn tình cờ, tôi có được bằng chứng đó.

Trong khi đi làm nghiên cứu ở Utah, tôi gặp một người đàn ông trẻ, người đã “nóng mặt” khi biết họ của tôi.

“Westover,” anh ta nói, mặt sa sầm. “Cô có họ hàng gì với Shawn không?”

“Anh trai tôi đấy.”

“Ồ, lần cuối cùng tôi gặp anh trai cô,” anh ta nói, nhấn mạnh mấy từ cuối cùng như thể anh đang phỉ nhổ vào nó, “hắn ta đang dùng hai tay bóp cổ em họ tôi, và hắn đập đầu cô ấy vào tường gạch. Nếu không có bà tôi thì hắn đã giết con bé.”

Bằng chứng đấy. Một nhân chứng. Một lời kể không thiên vị. Nhưng khi tôi nghe chuyện đó, tôi không còn cần nghe nó nữa. Cơn sốt nghi ngờ bản thân đã dứt từ lâu. Không phải là tôi tuyệt đối tin trí nhớ của mình, mà tôi tin nó nhiều như tin trí nhớ của bất cứ ai, và tin nhiều hơn trí nhớ của một số người.

Nhưng đó là nhiều năm xa rồi.

Chú thích:

[1] Những đau khổ và cái chết của Chúa Jesus là để chuộc lại tội lỗi của loài người.