Chương 36 Bốn Cánh Tay Dài, Xoay Tít
Đó là một buổi trưa tháng Chín đầy nắng khi tôi cố nhấc chiếc vali của mình qua khu Harvard Yard. Kiến trúc thời thuộc địa của nó khiến tôi có cảm giác xa lạ nhưng cũng diêm dúa và kém phần uy nghi so với những tháp nhọn kiểu Gothic của trường Cambridge. Thư viện trung tâm, được gọi là Thư viện Widener, là thư viện rộng nhất tôi từng thấy, và trong vài phút tôi quên năm vừa qua của mình, nhìn nó không chớp mắt trong nỗi kinh ngạc.
Phòng của tôi nằm trong khu kí túc xá dành cho nghiên cứu sinh gần trường Luật. Nó nhỏ và giống như cái hang – tối tăm, ẩm thấp, lạnh lẽo, với những bức tường màu xám tro và đá lát lạnh lẽo màu xám chì. Tôi dùng ít thời gian ở trong đó hết mức có thể. Trường đại học dường như mở ra một khởi đầu mới, và tôi định nhận lấy cơ hội đó. Tôi đăng ký mọi khóa học mà tôi có thể chèn vào thời gian biểu, từ khóa học về Chủ nghĩa duy tâm ở Đức, Lịch sử của chủ nghĩa thế tục đến các khóa học về Chủ nghĩa vô thần, và Luật. Hàng tuần tôi tham gia nhóm nghiên cứu để thực hành tiếng Pháp và tham gia một nhóm khác để học đan. Trường đào tạo sau đại học mở một khóa học vẽ chì than miễn phí. Trong đời mình tôi chưa bao giờ vẽ, nhưng tôi cũng đăng ký học.
Tôi bắt đầu đọc – Hume, Rousseau, Smith, Godwin, Wollstonecraft và Mill. Tôi chìm đắm vào thế giới mà họ đã sống, những vấn đề mà họ đã cố giải quyết. Tôi trở nên bị ám ảnh bởi quan niệm của họ về gia đình – một con người phải cân nhắc giữa các bổn phận đặc biệt của mình với gia đình và những bổn phận với toàn xã hội. Sau đó tôi bắt đầu viết, dệt những sợi mà tôi rút ra được từ cuốn Những nguyên tắc đạo đức của Hume với những sợi từ cuốn Quá trình nô lệ hóa người phụ nữ của Mill. Đó là một bài viết hay, thậm chí khi ngồi viết nó tôi đã biết điều đó, và khi tôi viết xong tôi để nó ra một chỗ. Đó là chương đầu tiên trong luận văn tiến sĩ của tôi.
Một buổi sáng Chủ nhật, vừa từ lớp học vẽ về tôi thấy có thư của mẹ. Mẹ nói, bố mẹ sẽ đến Harvard. Tôi đọc dòng đó ít nhất ba lần, tin chắc mẹ đang đùa. Bố chẳng đi đâu cả – tôi chưa bao giờ thấy bố đi bất cứ đâu trừ đi Arizona để thăm bà nội tôi – vậy nên ý tưởng bố sẽ bay dọc đất nước để thăm đứa con gái mà bố tin là đã bị quỷ dữ chiếm mất dường như thật đáng buồn cười. Thế rồi tôi hiểu: bố sẽ đến để cứu vớt tôi. Mẹ nói bố mẹ đã đặt vé máy bay rồi và sẽ ở lại phòng ký túc xá của tôi.
“Bố mẹ có muốn ở khách sạn không ạ?” Tôi hỏi. Bố mẹ không muốn.
Vài ngày sau, tôi đăng nhập vào một chương trình trò chuyện qua mạng mà đã nhiều năm rồi tôi không sử dụng. Có một tiếng keng vui nhộn và một cái tên chuyển từ màu xám sang màu xanh lá. Charles đang trực tuyến. Tôi không nhớ chắc chắn ai là người bắt đầu cuộc trò chuyện, hoặc ai đã gợi ý chuyển từ gõ phím sang nói chuyện điện thoại. Chúng tôi nói chuyện một tiếng đồng hồ, và cứ như không một giây phút nào đã trôi qua.
Anh hỏi tôi đang học ở đâu; khi tôi trả lời, anh nói, “Harvard! Tuyệt quát”
“Ai nghĩ em sẽ học Harvard chứ gì?”
“Anh nghĩ thế,” anh nói, và đó là sự thật. Anh luôn nhìn nhận tôi như thế, từ rất lâu rồi, trước khi có bất cứ lý do nào để làm thế.
Tôi hỏi anh làm gì sau khi tốt nghiệp đại học và tôi nhận thấy nỗi im lặng căng thẳng. “Mọi chuyện không như anh dự tính,” anh nói. Anh chưa bao giờ tốt nghiệp. Anh bỏ học giữa năm thứ hai sau khi con trai anh ra đời, bởi vì vợ anh bị ốm và có một đống đơn thuốc cần thanh toán. Anh đăng ký đi khoan dầu ở Wyoming. “Anh chỉ định làm vài tháng thôi,” anh nói. “Đó là một năm trước.”
Tôi kể với anh về Shawn, kể tôi đã mất Shawn, và đang mất gia đình của mình như thế nào. Anh lắng nghe trong im lặng, rồi sau khi trút một tiếng thở dài anh nói, “Em đã bao giờ nghĩ có lẽ em nên buông bỏ họ chưa?”
Tôi chưa từng nghĩ vậy, chưa một lần nào. “Chuyện đó không phải là mãi mãi,” tôi nói. “Em có thể hàn gắn.”
“Thật buồn cười là em có thể thay đổi nhiều như vậy,” Charles nói, “nhưng em nói nghe vẫn y như khi chúng mình mười bảy.”
Bố mẹ tôi đến khi lá cây bắt đầu chuyển màu, khi khuôn viên đại học đang bước vào khoảng thời gian đẹp nhất, những chiếc lá đỏ, lá vàng của mùa thu hòa quyện với màu gạch đỏ tía. Với văn phạm của người quê mùa cục mịch, chiếc áo sơ mi vải bông chéo và mũ lưỡi trai có biểu tượng thành viên trọn đời của hội các thợ săn và những người thích súng NRA, bố sẽ luôn lạc lõng ở Harvard, nhưng những vết sẹo của bố làm tăng hiệu ứng đó. Trong nhiều năm kể từ khi vụ nổ xảy ra, tôi đã nhiều lần nhìn bố, nhưng chỉ đến khi bố tới Harvard và tôi nhìn bố đối nghịch với cuộc sống của tôi ở đó, tôi mới hiểu bản thân bố đã biến dạng nặng đến mức nào. Nhận thức ấy đến với tôi qua con mắt của người khác – những người lạ chợt biến sắc mặt khi bố đi qua họ trên đường, những người ngoái lại để nhìn bố lần thứ hai. Sau đó tôi cũng nhìn bố, và nhận thấy da ở cằm bố căng đến mức nào, trông y như nhựa; môi bố thiếu tròn trịa tự nhiên ra sao; má bố hõm vào một góc trông gần như bộ xương. Bàn tay phải của bố, bàn tay bố thường giơ lên để chỉ thứ này, thứ nọ, xương xẩu, cong queo và khi tôi nhìn nó, tương phản với những tháp chuông và cột cổ kính của Harvard, dường như đối với tôi nó là móng vuốt của một sinh vật nào đó trong thần thoại.
Bố hầu như không quan tâm đến trường đại học ấy, vậy nên tôi đưa bố vào thành phố. Tôi hướng dẫn bố cách lên tàu điện ngầm – cách trượt thẻ qua rãnh và đi qua cánh cửa quay. Bố cười rõ to, như thể đó là một công nghệ không tưởng. Một người đàn ông vô gia cư đi dọc toa của chúng tôi hỏi xin một đô-la. Bố đưa cho ông ta tờ năm mươi đô nhàu nhĩ.
“Nếu bố tiếp tục làm thế ở Boston thì bố sẽ không còn đồng nào đâu,” tôi nói.
“Bố không tin,” bố vừa nháy mắt vừa nói. “Bố mẹ đang ăn nên làm ra lắm. Bố mẹ tiêu không hết đâu!”
Vì sức khỏe của bố không được tốt, bố ngủ trên giường. Tôi mua một tấm nệm hơi cho mẹ. Tôi ngủ trên sàn gạch. Cả bố và mẹ đều ngáy như sấm, và tôi mất ngủ cả đêm. Khi mặt trời mọc tôi vẫn nằm trên sàn, nhắm mắt, thở chậm và sâu, trong khi bố mẹ lục tủ lạnh mini của tôi và bàn luận về tôi bằng giọng thì thầm.
“Chúa cử tôi đến để làm chứng,” bố nói. “Con bé có lẽ chưa được đưa đến cho Chúa đâu.”
Trong khi họ nghĩ cách tìm lại con người cũ của tôi, tôi nghĩ cách để mặc họ làm. Tôi sẵn sàng nhượng bộ, dù điều đó có nghĩa là một câu thần chú. Một phép màu sẽ có ích đấy: nếu tôi dàn cảnh tái sinh thuyết phục thì tôi có thể tách khỏi mọi điều mình đã nói và làm trong năm vừa qua. Tôi có thể rút lại tất cả – đổ lỗi cho quỷ Satan và được làm lại cuộc đời. Tôi mường tượng, là một mạch máu sạch tinh, mình sẽ được quý mến nhường nào. Sẽ được yêu quý ra sao. Tất cả những gì tôi phải làm là đổi những ký ức của tôi lấy những ký ức của bố mẹ, và tôi lại có thể có được gia đình.
Bố muốn tới thăm Sacred Grove ở Palmyra, New York – khu rừng, nơi mà theo nhà tiên tri Joseph Smith, Chúa đã hiển linh và ra lệnh cho ngài lập một giáo hội đích thực. Chúng tôi thuê một chiếc xe hơi và sáu giờ sau đã có mặt ở Palmyra. Gần khu rừng, nằm tách khỏi đường cao tốc, có một đền thờ sáng lung linh, trên đỉnh có bức tượng thiên sứ Moroni bằng vàng. Bố dừng xe và bảo tôi đi qua khuôn viên của đền thờ. “Hãy chạm vào đền thờ,” bố nói. “Sức mạnh của nó sẽ gột rửa con.”
Tôi nhìn kỹ mặt bố. Vẻ mặt bố căng – tha thiết, tuyệt vọng. Với tất cả những cảm xúc đó bố muốn tôi chạm vào đền thờ và được cứu rỗi.
Bố và tôi nhìn đền thờ. Bố nhìn thấy Chúa; tôi nhìn thấy đá granite. Bố con tôi nhìn nhau. Bố thấy một phụ nữ bị nguyền rủa; tôi nhìn thấy một ông già mắc bệnh tâm thần, bị các tín điều của ông làm biến dạng theo nghĩa đen. Tuy nhiên, đắc thắng. Tôi nhớ những lời của Sancho Panza: Một hiệp sĩ giang hồ là người bị đánh bại và sau đó thấy mình là hoàng đế.
Giờ đây khi tôi nhớ lại lúc đó, hình ảnh ấy nhòa đi, tái lập thành hình ảnh một hiệp sĩ đầy nhiệt huyết cưỡi chiến mã, lao vào một trận đánh tưởng tượng, tấn công những cái bóng, thọc gươm vào lớp không khí mỏng. Cằm của hiệp sĩ toát lên vẻ nghiêm nghị, lưng thẳng thớm. Đôi mắt người đó bừng bừng kết tội, phóng ra những tia lửa thiêu đốt cả nơi đôi mắt đó ngự trị. Mẹ tôi ném về phía tôi cái nhìn hoài nghi, uể oải, nhưng khi bố liếc nhìn mẹ bố mẹ hợp nhất về tinh thần, sau đó cả hai người dùng thương tấn công những cối xay gió.
Tôi đi qua khuôn viên và đặt tay lên mặt đá của đền thờ. Tôi nhắm mắt lại, cố tin rằng hành động đơn giản này có thể tạo ra phép màu mà bố mẹ nguyện cầu cho tôi. Tất cả những gì tôi phải làm là chạm vào di tích này, và bằng sức mạnh của Đấng Toàn Năng, tất cả sẽ lại đâu vào đấy.
Nhưng tôi chẳng cảm thấy gì. Chỉ thấy đá lạnh.
Tôi trở lại xe. “Đi thôi,” tôi nói.
Khi mà chính cuộc sống dường như là điên rồ thì ai biết sự điên rồ nằm ở đâu?
Trong những ngày sau, tôi viết câu ấy ở mọi chỗ – viết vô thức, bột phát. Giờ đây tôi tìm thấy dòng chữ trong các cuốn sách mà đạo đó tôi đang đọc, trong những cuốn vở ghi bài, trên lề của những trang nhật ký. Đọc nó là đọc một câu thần chú. Tôi bắt bản thân phải tin nó – tin rằng không có khác biệt thực sự giữa những gì tôi biết là thật và những gì tôi biết là không thật. Để thuyết phục bản thân rằng có chút giá trị nào đó trong những gì tôi đã tính toán để làm, trong việc nhượng bộ những nhận thức về đúng, sai của mình, về hiện thực, về trí minh mẫn, để giành được tình yêu của bố mẹ. Vì họ, tôi tin mình có thể mặc áo giáp, tấn công gã khổng lồ, dù những gì tôi nhìn thấy chỉ là những cối xay gió.
Chúng tôi vào khu rừng thiêng Sacred Grove. Tôi đi đầu và tìm được một chiếc ghế băng dưới tán cây. Đó là một khu rừng tươi đẹp và đậm lịch sử. Nó là lý do tổ tiên của tôi đến nước Mỹ. Một cành cây nhỏ gãy tách, và bố mẹ tôi xuất hiện. Họ ngồi xuống bên tôi, mỗi người một bên.
Bổ nói trong suốt hai tiếng đồng hồ. Bố chứng minh rằng bố đã nhìn thấy các thiên thần và quỷ dữ. Bố đã thấy quỷ dữ hiện hình rõ rành rành, và đã được Chúa Jesus ghé thăm, như những nhà tiên tri thời xưa, như Joseph Smith đã được gặp Chúa trong khu rừng này. Bố nói, niềm tin của bố không còn là niềm tin, mà là trạng thái tri ngộ hoàn hảo.
“Con đã bị quỷ Satan điều khiển,” bố thì thầm, bàn tay bố đặt trên vai tôi. “Bố có thể cảm thấy điều đó ngay khi bố bước chân vào phòng con.”
Tôi nghĩ đến phòng ký túc xá của mình – nghĩ đến những bức tường u ám và gạch lát lạnh lẽo, nhưng cũng nghĩ đến những bông hoa hướng dương mà Drew đã gửi tới, cùng bức tranh thảm treo tường mà một người bạn Zimbabwe đã mang sang từ ngôi làng của anh.
Mẹ không nói gì. Mẹ nhìn đăm đăm xuống đất, mắt mẹ long lanh, môi mẹ mím lại. Bố khích tôi phản ứng. Tôi tìm kiếm nơi bản thân mình, tìm sâu bên trong, dò dẫm tìm những lời mà bố cần nghe. Nhưng những lời đó không ở trong tôi, hoặc chưa.
Trước khi chúng tôi trở lại Harvard, tôi thuyết phục bố mẹ đi đường vòng tới thác Miagara. Bầu không khí trong xe nặng nề, và thoạt đầu tôi tiếc vì đã gợi ý đi theo đường vòng, nhưng khi bố nhìn thấy thác nước, tâm trạng của bố thay đổi hẳn, trở nên hoan hi.
Tôi có một chiếc máy ảnh. Bố luôn ghét máy ảnh nhưng khi bố nhìn thấy máy ảnh của tôi mắt bố sáng lên đầy phấn khích. “Tara! Tara!” bố reo lên, chạy lên trước tôi và mẹ. “Hãy chụp một bức ở góc này. Không đẹp sao!” Cứ như thể bố hiểu rằng chúng tôi đang gói ghém một kỷ niệm, một điều gì đó đẹp để mà sau này chúng tôi sẽ cần đến. Hoặc có lẽ tôi tưởng như vậy bởi vì lúc đó tôi cảm thấy thế. Tôi viết trong nhật ký, Có vài bức ảnh của hôm nay có thể sẽ giúp mình quên khu rừng ấy. Có một bức ảnh mình và bố vui vẻ bên nhau. Là bằng chứng cho thấy điều đó là có thể.”
Khi chúng tôi trở lại Harvard, tôi đề nghị thuê khách sạn cho bố mẹ. Bố mẹ không chịu đi. Trong một tuần, chúng tôi chen chúc nhau trong phòng ký túc xá của tôi. Sáng nào bố cũng lê bước qua một tầng cầu thang tới phòng tắm chung với độc chiếc khăn tắm màu trắng nhỏ trên người. Nếu là ở BYU điều đó sẽ khiến tôi xấu hổ, nhưng ở Harvard tôi nhún vai. Tôi đã vượt trên nỗi ngượng ngùng rồi. Ai nhìn thấy bố, hoặc bố nói gì với họ, hoặc làm họ sốc ra sao thì quan trọng gì chứ? Điều tôi quan tâm là ý kiến của bố, bố là người tôi đang để mất.
Rồi cũng đến đêm cuối bố mẹ tôi ở Harvard, và tôi vẫn chưa được tái sinh.
Mẹ và tôi quanh quẩn trong căn bếp dùng chung với những người khác để làm món thịt bò hầm khoai tây rồi bê món đó trên khau mang về phòng. Bố lặng lẽ nhìn đĩa thức ăn, như bố đang ngồi một mình. Mẹ nhậ xét đôi câu về món đó, và mẹ cười căng thẳng rồi im lặng.
Khi chúng tôi ăn xong, bố nói bố có quà cho tôi. "Đó là lý do tại sao bố tới đây," bố nói. "Để ban cho con sự ban phước của giới giáo sĩ."
Trong tôn giáo Mặc Môn, giới giáo sĩ là sức mạnh của Chúa để thực hiện công việc trên trần gian – để khuyên răn, chỉ bảo, chữa bệnh, và để xua đuổi quỷ dữ, Sức mạnh đó được ban cho đàn ông. Đây là thời khắc quan trọng: nếu tôi chấp nhận sự ban phước này, bố sẽ tẩy uế cho tôi. Bố sẽ đặt tay lên đầu tôi, đuổi con quỷ đã bắt tôi nói những điều khiến tôi không được đón chào trong gia đình mình. Tất cả những gì tôi phải làm là chịu nhận, và trong năm phút việc đó sẽ kết thúc.
Tôi nghe thấy mình nói không.
Bố há hốc miệng nhìn tôi, không thể tin nổi, sau đó bố bắt đầu chứng minh – không phải về Chúa, mà về mẹ. Bố nói, thảo dược của mẹ là sứ mệnh thiêng liêng mà Chúa giao phó. Mọi chuyện đã xảy ra với gia đình của chúng tôi, mọi vết thương, tất cả những lần cận kể cái chết, là bởi chúng tôi đã được lựa chọn, chúng tôi đặc biệt. Chúa đã sắp đặt tất cả những chuyện đó để chúng tôi có thể – lên án hệ thống y tế và chứng minh sức mạnh của Chúa.
“Con có nhớ lần Luke bị bỏng chân không?” Bố nói, như thể tôi có thể quên chuyện đó. “Đó là kế hoạch của Chúa. Đó là một chương trình truyền thụ. Cho mẹ con. Để mẹ chuẩn bị sẵn sàng cho những gì xảy ra với bố sau đó.”
Vụ nổ, vụ bỏng ấy. Bố nói vinh dự thiêng liêng tột bậc là được làm bằng chứng sống về sức mạnh của Chúa. Bố nắm hai tay tôi bằng những ngón tay dị dạng của ông và nói với tôi rằng vẻ biến dạng của bố đã được định trước. Rằng nó là một niềm hạnh phúc dịu dàng, rằng nó đưa các linh hồn đến với Chúa.
Mẹ bổ sung bằng giọng thì thầm, cung kính. Mẹ nói rằng chỉ bằng cách điều chỉnh một luân xa là mẹ có thể ngăn chặn một cơn đột quy; rằng mẹ có thể chặn đứng cơn đau tim bằng cách truyền năng lượng; rằng mẹ có thể chữa được bệnh ung thư nếu người bệnh có đức tin. Mẹ nói chính mẹ bị ung thư vú, và mẹ đã tự chữa khỏi bệnh cho mình.
Đầu tôi ngẩng phắt lên, “Mẹ bị ung thư ư?” Tôi nói. “Mẹ chắc chứ? Mẹ đã làm xét nghiệm chưa?”
“Mẹ không cần phải làm xét nghiệm,” mẹ nói. “Mẹ thử trên cơ bắp rồi. Đó là bệnh ung thư. Mẹ đã chữa được rồi.”
“Đáng lẽ bố mẹ cũng có thể chữa khỏi bệnh cho bà,” bố nói. “Nhưng bà đã quay lưng lại với Chúa. Bà thiếu đức tin và đó là lý do tại sao bà chết. Chúa sẽ không chữa lành cho những người thiếu đức tin.”
Mẹ gật đầu nhưng không hề nhìn lên.
“Tội lỗi của bà nghiêm trọng,” bố nói. “Nhưng tội lỗi của con còn nghiêm trọng hơn cơ đấy, bởi vì con đã được cho biết sự thật nhưng vẫn quay lưng lại với sự thật.”
Căn phòng im ắng ngoại trừ tiếng rì rì của giao thông trên phố Oxford.
Đôi mắt bố nhìn như dán vào tôi. Đó là cái nhìn của một nhà tiên tri có sức mạnh và quyền lực được thu hút từ vũ trụ. Tôi muốn đương đầu với cái nhìn đó, để chứng minh mình có thể chịu đựng sức nặng của nó, nhưng sau vài giây một điều gì đó trong tôi oằn lại, một lực từ bên trong đã chịu nhượng bộ, và mắt tôi nhìn xuống sàn.
“Ta được Chúa trao trọng trách chứng minh rằng thảm họa đang ở phía trước con,” bố nói. “Thảm họa sẽ sớm xảy ra thôi, rất sớm, và nó sẽ hủy hoại con, hủy hoại con hoàn toàn. Nó sẽ dồn con xuống tột cùng của thấp kém. Và khi con ở dưới đó, khi con nằm đó trong tàn tạ, con sẽ cầu xin Chúa Cha linh thiêng rủ lòng thương.” Giọng bố, kích động cao độ, giờ đây hạ thấp thành lẩm bẩm. “Và khi đó Chúa sẽ không nghe con đâu.”
Tôi nhìn thắng vào mắt bố. Bố bừng bừng kết tội; tôi gần như có thể cảm thấy nhiệt tỏa ra từ bố. Bố rướn người về phía trước, ghé sát mặt bố vào mặt tôi và nói, “Nhưng bố sẽ nghe.”
Im lặng ngự trị, không bị khuấy đảo, đầy ngột ngạt.
“Bố sẽ dành cho con sự ban phước, một lần cuối,” bố nói.
Sự ban phước là một niềm hạnh phúc. Bố đưa ra cho tôi những điều kiện quy phục y như bố đã đưa ra cho chị gái tôi. Tôi mường tượng chắc hẳn chị cảm thấy được giải thoát khi hiểu rằng chị có thể đổi sự thật của chị – sự thật mà tôi và chị cùng chia sẻ – lấy sự thật của bố. Chị chắc hẳn phải cảm thấy hàm ơn biết nhường nào khi trả cái giá khiêm tốn như thế. Tôi không thể phán xét chị vì lựa chọn của chị, nhưng vào lúc đó tôi biết mình không thể lựa chọn nó cho bản thân. Tất cả những gì mà tôi đã nỗ lực để đạt được, tất cả những năm học hành của tôi, là để tôi có được đặc quyền này: quyền nhìn và trải nghiệm nhiều sự thật hơn những sự thật được bố mang đến cho, và dùng những sự thật đó để kiến tạo tinh thần mình. Tôi đã dần tin rằng khả năng đánh giá nhiều ý kiến, nhiều lịch sử, nhiều quan điểm chính là cốt lõi của việc tự-sinh. Nếu bây giờ nhượng bộ thì tôi sẽ thất bại không chỉ trong một cuộc xung đột. Tôi sẽ mất quyền giám hộ tinh thần của chính mình. Đây là cái giá mà tôi bị đòi hỏi phải trả, và bây giờ tôi hiểu điều đó. Điều mà bố tôi muốn tống khứ khỏi tôi không phải là quỷ dữ: mà là bản thân tôi.
Bố cho tay vào túi quần, lấy ra một lọ tinh dầu bé xíu đặt vào lòng bàn tay tôi. Tôi nhìn nó. Lọ dầu này là thứ duy nhất được cần đến để thực hiện nghi lễ này, lọ dầu và quyền năng linh thiêng đều nằm trong bàn tay biến dạng của bố. Tôi tưởng tượng ra mình chịu tuân phục, tưởng tượng ra mình nhắm mắt, và rút lại những báng bổ của mình. Tôi hình dung cảnh mình thuật lại những thay đổi của bản thân, một quá trình biến đổi thần thánh nhường nào, và tôi sẽ gào lên lời biết ơn ra sao. Lời đã sẵn sàng, đã được hình thành chỉ đợi để bay ra từ môi tôi.
Nhưng khi tôi mở miệng ra, chúng biến mất.
“Con yêu bố,” tôi nói. “Nhưng con không thể. Con xin lỗi.”
Bố tôi đứng phắt dậy.
Bố nhắc lại, có một con quỷ đang ở trong phòng tôi, rằng bố không thể ở lại thêm một đêm nào nữa. Chuyến bay của bố mẹ là vào sáng ngày hôm sau, nhưng bố nói thà ngủ trên ghế đá còn hơn ngủ trong căn phòng có quỷ dữ.
Mẹ lăng xăng đi quanh phòng, nhét áo và tất vào vali. Năm phút sau bố mẹ rời khỏi đó.