← Quay lại trang sách

Chương 37 Liều Mình Cứu Vãn

Ai đó đang la hét, tiếng la hét không thay đổi, kéo dài, to đến nỗi nó làm tôi tỉnh giấc. Trời tối. Có những ngọn đèn đường, vỉa hè, tiếng ầm ĩ của những chiếc ô tô ở xa xa. Tôi đang đứng giữa phố Oxford, cách phòng ký túc xá của tôi nửa dãy phố. Tôi đi chân đất, mặc áo ba lỗ và quần thụng nỉ. Tôi cảm thấy mọi người đang trố mắt nhìn tôi, nhưng lúc đó là hai giờ sáng và đường phố vắng tanh.

Bằng cách nào đó tôi đã trở lại tòa nhà ký túc xá, và ngồi trên giường, cố nhớ lại những gì đã xảy ra. Tôi nhớ mình đã đi ngủ. Tôi nhớ mình đã mơ. Điều mà tôi không nhớ là việc tôi bật dậy khỏi giường và chạy nhanh qua hành lang, lao ra đường, vừa chạy vừa la hét, nhưng đó là những gì tôi đã làm.

Tôi đã mơ về nhà mình. Tôi mơ thấy bố xây một mê cung trên núi Buck và làm tôi bị mắc kẹt ở đó. Những bức tường của mê cung cao hơn ba mét và được dựng bằng các đồ tích trữ từ căn hầm gốc của bố – những bao ngũ cốc, những thùng đạn, những thùng mật ong. Tôi tìm kiếm một thứ gì đó, một thứ quý giá mà tôi chưa bao giờ có thể thay thế. Tôi phải thoát khỏi mê cung mới lấy lại được nó, nhưng tôi không thể tìm được đường ra, và bố đang săn đuổi tôi, vít kín các lối ra bằng những bao ngũ cốc chất đống thành chướng ngại vật.

Tôi không tham gia nhóm học tiếng Pháp nữa, rồi tôi bỏ lớp học vẽ. Thay vì đọc ở thư viện hoặc đi nghe giảng, tôi xem TV trong phòng mình, xem hết mọi bộ phim dài tập nổi tiếng trong hai thập kỷ qua. Khi một tập kết thúc, tôi bắt đầu xem tập tiếp theo mà không suy nghĩ, y như nhịp thở này nối tiếp nhịp thở khác. Tôi xem TV mười tám, hai mươi tiếng đồng hồ mỗi ngày. Khi ngủ tôi mơ thấy nhà mình, và ít nhất mỗi tuần một lần tôi tỉnh dậy, đứng trên đường phố giữa lúc nửa đêm, tự hỏi tiếng la hét mà tôi nghe thấy trước khi tỉnh giấc có phải là của chính mình hay không.

Tôi chẳng học hành gì. Tôi cố đọc nhưng các câu chữ chẳng có nghĩa gì hết. Tôi cần chúng không có nghĩa gì. Tôi không thể chịu đựng nổi việc xâu chuỗi các câu thành những mạch tư duy, hoặc dệt những mạch tư duy đó thành các quan điểm. Các quan điểm quá giống với những gì phản chiếu – mà ở tôi là phản chiếu biểu cảm trên khuôn mặt căng lên của bố trước khi bố rời khỏi chỗ tôi.

Điều mấu chốt của tình trạng suy sụp tinh thần là dù bạn bị như vậy rõ rành rành đến mức nào, thì nó cũng không rõ ràng đối với bản thân bạn. Mình ổn mà, bạn nghĩ. Hôm qua mình xem TV hai mươi tư tiếng đồng hồ liền mà có sao đâu. Mình có sụp đổ đâu. Mình chỉ lười chút thôi. Tôi không rõ tại sao thà nghĩ bản thân mình lười biếng còn hơn là nghĩ mình lo âu, sầu khổ. Nhưng nghĩ thế là hơn. Và còn hơn thế: đó là chuyện sống còn.

Cho đến tháng Mười Hai tôi đã bỏ bê việc nghiên cứu đến mức tôi hiểu ra rằng chỉ cần dừng một tối để bắt đầu xem một tập mới của phim Phá Luật là tôi không thể lấy bằng tiến sĩ. Tôi cười như điên đại mất mười phút trước tình cảnh trớ trêu này; tôi đã hi sinh cả gia đình để đi học, để tiếp cận với nền giáo dục, vậy mà giờ đây tôi có thể đánh mất mục tiêu đó.

Sau vài tuần nữa trong tình trạng này, một tối tôi loạng choạng bò ra khỏi giường, quyết định rằng mình đã mắc sai lầm, rằng khi bố đề nghị ban phước cho tôi, tôi nên nhận. Nhưng bây giờ chưa phải dã quá muộn. Tôi có thể khắc phục, sửa chữa sai lầm đó.

Tôi mua vé đi Idaho cho kỳ nghỉ Giáng sinh. Hai ngày trước chuyến bay, tôi tỉnh giấc trong trạng thái mồ hôi đầm đìa, lạnh toát, Tôi mơ thấy mình ở trong bệnh viện, nằm trên tấm khăn trải giường trắng toát, cứng quèo. Bố ở dưới chân chiếc băng ca, nói với một viên cảnh sát rằng tôi đã dùng dao tự đâm mình. Mẹ lặp lại lời bố, mắt mẹ đầy hoảng loạn. Tôi ngạc nhiên khi nghe thấy giọng bố gào lên rằng tôi cần phải được chuyển sang một bệnh viện khác. “Thằng ấy sẽ phát hiện ra con bé ở đây,” bố gào và gào.

Tôi viết thư cho Drew đang sống ở Trung Đông. Tôi kể với anh rằng tôi sắp về núi Buck. Khi anh hồi âm, giọng anh khẩn nài, gay gắt, như thể anh đang cố băng qua lớp sương mù mà tôi đang sống ở trong. Tara yêu quý, anh viết. Nếu Shawn đâm em, em sẽ không được đưa đi bệnh viện đâu. Em sẽ bị đưa xuống tầng hầm và cho dùng oải hương để trị vết thương đấy. Anh xin tôi đừng đi, nói cả trăm điều mà tôi đã biết mà không quan tâm, và khi nỗ lực đó chẳng ăn thua, anh nói: Em đã kể với anh chuyện của em để anh có thể ngăn em nếu em làm điều gì điên rồ. Tara ạ, đó là chuyện này đấy. Chuyện này điên rồ đấy.

Mình vẫn có thể hàn gắn, tôi lẩm bẩm khi máy bay cất cánh khỏi đường băng.

Khi tôi về đến núi Buck, đó là một buổi sáng mùa đông quang đãng. Tôi nhớ mùi khô lạnh của đất đóng băng khi tôi về đến nhà và cảm giác của băng và đá cuội lạo xạo dưới gót giày. Bầu trời xanh đến mức đáng kinh ngạc. Khi bà tôi còn sống, bằng cách chì chiết, la mắng và đe dọa, bà đã làm cho bãi phế liệu của bố tôi được quây lại. Giờ đây phế liệu đã phủ khắp trang trại và lan về phía chân núi. Những ngọn đồi thoai thoải, đã từng là những hồ tuyết tuyệt đẹp, giờ lốm đốm những chiếc xe tải hỏng và thùng sắt han gỉ, bẩn thỉu.

Mẹ mừng rơn khi tôi bước vào cửa. Tôi không nói trước với mẹ là tôi sẽ về, hy vọng rằng, nếu không ai biết thì tôi sẽ có thể tránh được Shawn. Mẹ căng thẳng nói liến thoáng. “Mẹ sẽ làm bánh quy và nước sốt cho con!” nói rồi mẹ lao vào bếp.

“Lát nữa con sẽ giúp mẹ,” tôi nói. “Con cần gửi một bức thư điện tử.”

Chiếc máy tính của gia đình được để ở phần cũ của ngôi nhà, phần đã từng là phòng khách trước khi nhà được tu sửa. Tôi ngồi xuống viết cho Drew, bởi vì tôi đã hứa, như một thỏa thuận giữa chúng tôi, rằng khi ở núi Buck cứ hai tiếng đồng hồ tôi lại viết cho anh một lần. Tôi lay chuột và màn hình bật sáng. Trình duyệt đã mở sẵn; ai đó quên thoát ra sau khi dùng. Tôi định mở một trình duyệt khác nhưng dừng lại khi nhìn thấy tên mình. Tên tôi hiển thị trong bức thư được mở từ trước trên màn hình, mà mẹ đã gửi đi chỉ vài phút trước. Thư gửi cho bạn gái cũ của Shawn, chị Erin.

Tiền đề của bức thư là Shawn đã tái sinh, được gột rửa về mặt tâm linh. Rằng Đấng Cứu Thế đã chữa lành cho gia đình chúng tôi, và rằng tất cả mọi người đều đã phục hồi. Tất cả, trừ tôi. Mẹ viết, Thánh linh đã thì thầm tới tôi sự thật về con gái tôi. Đứa con tội nghiệp của tôi đã đầu hàng trước nỗi sợ hãi và sợ hãi đã khiến nó cố làm cho những nhận thức sai lầm của nó được công nhận. Tôi không biết liệu nó có là một mối nguy hiểm đối với gia đình tôi hay không, nhưng tôi có những lý do để nghĩ rằng nó có thể là mối nguy hiểm. [1]

Thậm chí trước khi đọc bức thư đó tôi đã biết rằng mẹ và bố cùng có chung quan điểm không mấy tốt đẹp về tôi, rằng mẹ tin quỷ dữ đã chế ngự tôi, rằng tôi nguy hiểm. Vậy mà khi nhìn những từ đó trên màn hình, khi đọc bức thư và nghe thấy cả giọng mẹ ở đó, người tôi lạnh toát.

Có nhiều điều hơn thế về bức thư ấy. Trong đoạn cuối, mẹ miêu tả đứa con thứ hai của chị Emily, một đứa con gái, chào đời một tháng trước. Mẹ là bà đỡ. Cuộc sinh nở diễn ra tại nhà và, theo mẹ, Emily bị chảy máu gần chết trước khi họ có thể đến bệnh viện. Mẹ kết thư với niềm tin rằng đêm đó Chúa đã hiển linh qua bàn tay mẹ, cuộc sinh nở là bằng chứng về sức mạnh của Chúa.

Tôi nhớ chuyện Peter chào đời đầy kịch tính: nó đã trượt ra khỏi người Emily như thế nào, nặng chỉ hơn nửa kilogram; nó tím tái như thế nào, và họ nghĩ nó đã chết; họ đã vật lộn trong trận bão tuyết ra sao để tới được bệnh viện thị trấn, chỉ để được nói cho biết rằng bệnh viện ấy không đủ phương tiện, và chẳng có chiếc trực thăng nào bay trong bão tuyết; hai chiếc xe cứu thương đã được điều đi khẩn cấp tới bệnh viện McKay-Dee ở Ogden. Một phụ nữ với tiền sử sinh nở như vậy, có nguy cơ gặp rủi ro cao như vậy, được khuyên cố đẻ lần thứ hai tại nhà dường như là liều lĩnh đến mức ảo tưởng.

Nếu lần sinh nở đầu tiên là ý Chúa thì lần sinh nở thứ hai là ý của ai?

Tôi vẫn đang ngạc nhiền về sự chào đời của cháu gái mình, thì Erin hồi âm.

Bác đã đúng về Tara, chị viết. Cô ấy lầm lạc vì thiếu đức tin. Erin nói với mẹ tôi rằng việc tôi nghi ngờ bản thân – việc tôi viết thư cho chị, Erin, để hỏi liệu tôi có nhầm hay không, các ký ức của tôi có thật hay không – là bằng chứng cho thấy tâm hồn tôi gặp nguy, rằng tôi không đáng tin cậy: Cô ấy đang xây dựng cuộc sống của mình bằng nỗi sợ hãi. Cháu sẽ cầu nguyện cho cô ấy. Cuối thư, Erin ngợi khen tài đỡ đẻ của mẹ. Bác là một anh hùng thực sự, chị viết.

Tôi đóng trình duyệt đó lại, nhìn đăm đăm vào mặt giấy dán tường phía sau màn hình. Đó vẫn là những hoa văn từ thời thơ ấu của tôi. Tôi đã mơ được thấy nó bao lâu rồi? Tôi đã đến để giành lại nó, để cứu vãn nó. Nhưng chẳng có gì ở đây để cứu vãn hết, chẳng có gì để nắm giữ. Chỉ có cát đang chuội, lòng trung thành đang chuội đi, những lịch sử đang chuội đi.

Tôi nhớ đến giấc mơ đó, cái mê cung ấy. Tôi nhớ đến những bức tường được dựng bằng bao ngũ cốc và hòm đạn, bằng nỗi sợ hãi và chứng hoang tưởng của bố tôi, bằng những lời trích trong Kinh Thánh và lời tiên tri của bố. Tôi đã muốn thoát khỏi mê cung với những đường hình chữ chi gây mất phương hướng và những lối mòn điều biến của nó, để tìm điều quý giá ấy. Nhưng bây giờ tôi đã hiểu: điều quý giá ấy, đó là mê cung. Đó là tất cả những gì còn lại của cuộc sống mà tôi từng có ở đây: một trò chơi ô chữ có những luật chơi mà tôi sẽ không bao giờ hiểu được, bởi vì chúng không phải là luật mà là một cái lồng muốn nhốt tôi. Tôi có thể ở lại, và tìm kiếm những gì là gia đình, hoặc có thể đi, bây giờ, trước khi những bức tường chuyển động và lối ra bị đóng sập lại.

Khi tôi bước vào bếp, mẹ đang cho bánh quy vào lò. Tôi nhìn quanh, lục soát ngôi nhà trong óc. Mình cần thứ gì từ nơi này nhỉ? Chỉ có một thứ: những cuốn nhật ký của tôi. Tôi tìm thấy chúng dưới giường mình, trong một cái hộp, nơi tôi đã để chúng lại. Tôi mang chúng ra xe, để chúng ở ghế sau.

“Con lái xe đây, mẹ ạ,” tôi nói với mẹ. Tôi cố giữ giọng nhẹ nhàng. Tôi ôm mẹ, rồi nhìn núi Buck thật lâu, ghi nhớ mọi đường nét và hình dáng. Mẹ đã nhìn thấy tôi mang những cuốn nhật ký ra xe. Mẹ chắc hẳn đã biết điều đó có nghĩa là gì, cảm nhận được nỗi niềm từ biệt trong hành động đó, bởi vì mẹ gọi bố tới. Bố dành cho tôi cái ôm gượng gạo rồi nói, “Bố yêu con, con biết chứ?”

“Con biết, tôi nói. “Đó là điều chưa bao giờ phải bàn cãi.” Đó là những lời cuối cùng tôi nói với bố mình.

Tôi lái xe về phía nam; tôi không biết mình đang đi đâu. Đã gần đến Giáng sinh rồi. Tôi quyết định đến sân bay, đáp chuyến bay đầu tiên tới Boston thì Tyler gọi điện.

Đã nhiều tháng rồi tôi không nói chuyện với anh – sau những gì xảy ra với Audrey, dường như việc tâm sự với các anh chị tôi là vô ích. Tôi chắc chắn rằng mẹ đã kể với tất cả các anh trai tôi, tất cả các anh chị em họ, các cô, dì, chú, bác của tôi câu chuyện mà mẹ đã kể với Erin: rằng tôi bị ám ảnh, tôi nguy hiểm, tôi bị quỷ dữ điều khiển. Tôi đoán quả không sai: mẹ đã cảnh báo bọn họ. Nhưng khi đó mẹ đã mắc sai lầm.

Sau khi tôi rời khỏi núi Buck, mẹ hoảng sợ. Mẹ sợ rằng tôi có thể liên lạc với Tyler và rằng nếu tôi làm thế thì anh có thể sẽ thông cảm với tôi. Mẹ quyết định gọi cho Tyler trước, bác bỏ bất cứ điều gì tôi có thể kể với anh, nhưng mẹ đã tính sai. Mẹ đã không dừng lại để nghĩ xem những lời phủ nhận của mình nghe ra sao khi chúng đến vu vơ như thế.

“Tất nhiên Shawn không đâm chết Diego và không dùng con dao đó để dọa Tara,” mẹ quả quyết với Tyler, nhưng với Tyler, người chưa hề nghe tôi hay bất cứ ai khác kể, mẹ nói thế chẳng khác nào thừa nhận. Sau khi tạm biệt mẹ qua điện thoại, Tyler gọi điện cho tôi, yêu cầu được biết chuyện gì đã xảy ra và tại sao tôi không đến chỗ anh.

Tôi cứ nghĩ anh sẽ nói rằng tôi dối trá nhưng không. Anh chấp nhận gần như ngay lập tức sự thật mà tôi đã dành một năm để phủ nhận. Tôi không hiểu tại sao anh lại tin tôi, nhưng khi anh kể với tôi những chuyện của chính anh và tôi đã nhớ ra: Shawn cũng đã là anh trai của anh.

Trong những tuần tiếp theo, Tyler bắt đầu thử bố mẹ tôi theo cách không đối đầu, và rất tinh tế mà chỉ anh mới có. Anh gợi ý rằng có lẽ tình cảnh đã không được xem xét thấu đáo, rằng có lẽ tôi không bị ám ảnh. Có lẽ tôi không hề xấu xa.

Tôi có thể đã được an ủi qua cách Tyler cố gắng giúp tôi, nhưng ký ức về chị gái tôi quá nhức nhối, và tôi không tin anh. Tôi biết rằng nếu Tyler có thể đương đầu với bố mẹ tôi – thực sự đương đầu với họ – thì họ sẽ buộc anh chọn giữa tôi và họ, giữa tôi và những người còn lại trong gia đình. Và qua trải nghiệm với Audrey tôi thừa biết: anh sẽ không chọn tôi.

Chương trình nghiên cứu ngắn hạn của tôi tại Harvard kết thúc vào mùa xuân. Tôi bay sang Trung Đông, nơi Drew đang làm nghiên cứu theo chương trình học bổng Fullbright. Phải nỗ lực ít nhiều, nhưng tôi đã cố gắng giấu không cho Drew biết mình bất ổn đến mức nào, hoặc chí ít tôi cũng nghĩ mình bất ổn. Có lẽ không phải như vậy. Tất nhiên, anh là người đuổi theo tôi quanh căn hộ của anh khi tôi choàng tỉnh giữa đêm khuya, la hét và chạy như ma đuổi, không biết mình đang ở đâu, nhưng có nhu cầu cấp thiết thoát khỏi đó.

Chúng tôi rời khỏi Amman và lái xe về phía Nam. Vào ngày lực lượng Đặc nhiệm của Hải quân Mỹ giết Bin Laden chúng tôi đang ở trong một trại của người Ả Rập du cư trên sa mạc Jordani. Drew nói tiếng Ả Rập, và khi tin đó được truyền đi anh nói chuyện hàng giờ với những người hướng dẫn viên của chúng tôi. “Ông ta không phải người Hồi giáo,” họ nói với Drew khi chúng tôi ngồi trên cát lạnh nhìn đống lửa trại. “Ông ta không hiểu đạo Hồi, nếu không ông ta đã không làm những điều tồi tệ mà ông ta đã làm.”

Tôi quan sát Drew nói chuyện với những người Ả Rập du cư, nghe những âm thanh êm nhẹ, lạ tai thoát ra từ đôi môi anh, và ngạc nhiên trước sự hiện diện không hợp lý của mình ở đó. Mười năm trước, khi hai tòa tháp đôi đổ sập, tôi chưa hề nghe nói đến đạo Hồi. Giờ đây, tôi đang uống trà ngọt với những người du cư Zalabia và ngồi xổm trên một cồn cát ở Wadi Rum, thung lũng Mặt Trăng, cách biên giới Saudi Arabia gần hai mươi dặm.

Khoảng cách – hữu hình và vô hình – vắt ngang thập kỷ vừa qua gần như làm tôi ngừng thở, và tôi tự hỏi phải chăng mình đã thay đổi quá nhiều. Tất cả việc học tập, đọc, nghĩ, đi đây đi đó, đã biến đổi tôi thành một con người không còn thuộc về bất cứ nơi nào rồi chăng? Tôi nghĩ về đứa con gái, chẳng biết gì ở bên ngoài bãi phế liệu nhà mình, ngọn núi nơi mình sống, đã nhìn không chớp vào màn hình TV, nhìn và nhìn khi hai chiếc máy bay đâm thẳng vào hai tòa tháp trắng trông thật lạ mắt. Lớp học của đứa con gái ấy là một đống phế liệu. Giáo trình của nó là những miếng sắt vụn. Nhưng đứa con gái ấy có một điều quý giá mà tôi – dẫu có tất cả mọi cơ hội, hoặc có lẽ vì tất cả mọi cơ hội đó – không có.

Tôi trở lại nước Anh, nơi tôi tiếp tục gỡ rối. Tuần đầu tiên sau khi trở lại trường Cambridge, hầu như đêm nào tôi cũng thức dậy, chạy ra đường phố, la hét, rồi lại thiếp đi. Tôi bị những cơn đau đầu kéo dài nhiều ngày hành hạ. Nha sĩ của tôi nói tôi nghiến răng. Da tôi nứt nẻ nặng đến nỗi hai lần những người lạ dừng tôi lại trên đường và hỏi liệu có phải tôi đang bị dị ứng hay không. Tôi nói không. Tôi nói bình thường tôi trông vẫn thế.

Một buổi tối, tôi tranh cãi với một người bạn về một chuyện vặt, và trước khi tôi biết chuyện gì đang xảy ra, tôi thu mình vào góc tường, ngồi bó gối, cố giữ cho tim khỏi nhảy khỏi lồng ngực. Bạn tôi vội chạy tới để giúp đỡ và tôi thét lên. Phải mất một tiếng đồng hồ tôi mới để cho cô ấy chạm vào người, trước khi tôi có thể buộc mình ra khỏi góc tường đó. Sáng hôm sau tôi nghĩ, vậy đó là một sự tấn công đáng sợ cơ đấy.

Ngay sau đó tôi gửi một bức thư cho bố tôi. Tôi không tự hào về bức thư đó. Nó đầy giận dữ, là tiếng gào “Con ghét bố!” của một đứa con cứng đầu nhằm vào một người cha. Bức thư đầy những từ như “hung dữ,” “bạo chúa” và nó gồm nhiều trang, cả một tràng sỉ vả và gây tức bực.

Đó là cách tôi nói với bố mẹ mình rằng tôi sẽ cắt liên lạc với họ. Giữa những lời lăng mạ và cơn tức giận, tôi nói tôi cần một năm để chữa lành bản thân; sau đó, có lẽ tôi sẽ trở về cái thế giới điên dại của họ để cố gắng hiểu nó.

Mẹ xin tôi hãy tìm cách khác. Bố không nói gì.

Chú thích:

[1] Phần in nghiêng được trích dẫn theo trí nhớ, tuy nhiên ý nghĩa không có gì thay đổi. — TG