Chương 38 Gia Đình
Tôi thất bại, không thể lấy bằng tiến sĩ.
Nếu tôi giải thích với thầy hướng dẫn, tiến sĩ Runciman, tại sao tôi lại không thể tập trung làm việc được, thì chắc hẳn ông đã giúp tôi, bảo đảm khoản tài trợ bổ sung, và xin khoa cho tôi thêm thời gian. Nhưng tôi đã không giải thích, tôi không thể. Ông không biết tại sao đã gần một năm trôi qua kể từ khi tôi gửi công trình cho ông, vậy nên khi tôi gặp ông ở văn phòng của ông vào một buổi trưa tháng Bảy u ám, ông gợi ý rằng tôi nên bỏ.
“Chương trình tiến sĩ đòi hỏi đặc biệt khắt khe,” ông nói. “Nếu em không làm thì cũng không sao.”
Tôi rời văn phòng ông, trong lòng đầy cảm giác phẫn nộ với chính mình. Tôi tới thư viện, tìm hơn chục cuốn sách và tha về phòng mình đặt lên bàn. Nhưng đầu óc tôi bị suy nghĩ lý tính làm cho buồn nôn, và đến sáng hôm sau những cuốn sách đã được chuyển lên giường, chất đống trên chiếc máy tính xách tay trong khi tôi xem hết tập này đến tập khác phim Khắc Tinh Ma Cà Rồng.
Mùa thu năm đó, Tyler đương đầu với bố tôi. Anh nói chuyện với mẹ trước, qua điện thoại. Sau đó anh gọi điện cho tôi kể lại cuộc nói chuyện. Anh nói rằng mẹ đứng về “phía chúng ta,” rằng mẹ nghĩ chuyện về Shawn không thể chấp nhận được và đã thuyết phục bố làm điều gì đó.
“Bố đang lo việc đó,” Tyler nói. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi. Em có thể về nhà.”
Hai ngày sau điện thoại của tôi đổ chuông, tôi tạm dừng bộ phim để trả lời điện thoại. Đó là Tyler. Việc hỏng bét cả. Sau cuộc nói chuyện với mẹ anh cảm thấy không thoải mái, vậy nên anh gọi điện cho bố để xem chính xác phải làm gì với Shawn. Bố trở nên tức giận, hùng hổ. Bố quát mắng Tyler rằng nếu anh khơi lại chuyện, anh sẽ bị từ mặt, rồi bố cúp máy.
Tôi không thích mường tượng ra cuộc nói chuyện này. Tật nói lắp của Tyler luôn trở nên tồi tệ hơn khi anh nói chuyện với bố. Tôi hình dung ra anh mình gập người trước ống nghe, cố tập trung để đẩy những từ đang bị giắt trong họng ra, trong khi bố tuôn lời khó nghe như bắn liên thanh.
Tyler vẫn đang choáng váng vì lời đe dọa của bố thì chuông điện thoại của anh reo. Anh cứ nghĩ đó là bố gọi tới để xin lỗi, nhưng đó là Shawn. Bố đã kể cho Shawn nghe tất cả. “Tao có thể loại mày khỏi cái gia đình này trong vòng hai phút,” Shawn nói. “Mày biết tao có thể làm điều đó đấy. Cứ hỏi Tara mà xem.”
Tôi nghe Tyler kể chuyện này trong khi nhìn chằm chằm vào hình ảnh diễn viên Sarah Michelle Gellar bất động trên màn hình. Tyler nói một lúc lâu, lướt qua các sự việc nhưng lại nấn ná trong hoang mạc của lý tính và trạng thái tự buộc tội. Tyler nói, bố chắc hẳn đã hiểu lầm. Có sự hiểu lầm, sự truyền đạt thông tin sai lệch. Có lẽ đó là lỗi của anh, có lẽ anh đã không diễn đạt điều đúng theo đúng cách. Hẳn là thế. Anh đã gây ra chuyện này, anh có thể sửa chữa nó.
Nghe anh nói, tôi có cảm giác lạ lùng của thái độ xa cách, gần như là dửng dưng, như thể tương lai của tôi với Tyler, người anh mà tôi biết và yêu quý trong suốt cuộc đời, là một bộ phim mà tôi đã xem và biết rõ kết thúc của nó. Tôi biết rõ đầu cua tai nheo của kịch bản này bởi vì tôi đã sống với nó rồi, qua trải nghiệm với chị gái tôi. Đây chính là lúc tôi mất Audrey: đây là lúc tôi đã hiểu việc ngoảnh mặt bước đi dễ hơn bao nhiêu – đổi chác kiểu gì mà lại đi đổi cả gia đình lấy một đứa em gái cơ chứ.
Vậy nên, tôi đã biết rằng Tyler cũng làm theo cách của Audrey thậm chí trước khi điều đó xảy ra. Tôi có thể nghe thấy bàn tay anh siết chặt qua tiếng vọng kéo dài của điện thoại. Anh đang quyết định nên làm gì, nhưng tôi biết điều mà anh không biết: rằng thực ra việc đó đã được quyết định rồi, và điều anh đang làm bây giờ là biện minh kéo dài cho quyết định đó mà thôi.
Tháng Mười tôi nhận được bức thư đó.
Thư đến dưới dạng tập tin PDF được Tyler và Stefanie đính kèm. Anh chị giải thích rằng bức thư đã được thảo cẩn thận, có suy nghĩ, và rằng một bản sao của nó sẽ được gửi cho bố mẹ tôi. Khi tôi đọc thấy những dòng chữ đó tôi biết nó có nghĩa là gì. Nó có nghĩa rằng Tyler đã sẵn sàng tố giác tôi, sẵn sàng nói những lời của bố tôi, rằng tôi bị quỷ ám, rằng tôi nguy hiểm. Bức thư là một dạng phiếu ưu đãi, một dạng giấy phép để anh trở lại với gia đình.
Tôi không thể ép mình mở tập tin đính kèm; một bản năng nào đó trong tôi đã túm chặt những ngón tay tôi. Tôi nhớ Tyler đã từng như thế nào khi tôi còn bé, một người anh trai ít nói, chăm chú đọc sách trong khi tôi nằm phía dưới bàn của anh, nhìn không chớp mắt đôi tất của anh, thở bằng âm nhạc của anh. Tôi không chắc mình có thể chịu đựng nổi điều này, chịu đựng được việc nghe những lời đó trong giọng nói của anh.
Tôi bấm chuột, tập tin mở ra. Tôi đã gạt bản thân ra xa đến nỗi tôi có thể đọc toàn bộ bức thư mà không hiểu nó: Bố mẹ của chúng ta bị tâm thế lăng mạ, trấn áp và kiểm soát điều khiển… Họ thấy thay đổi là nguy hiểm và sẽ trục xuất bất cứ ai đòi thay đổi. Đây là một quan niệm lầm lạc về lòng trung thành đối với gia đình… Họ khẳng định rằng họ có đức tin, nhưng đây không phải là những gì Phúc Âm dạy. Hãy bảo trọng. Anh chị yêu em.
Qua vợ của Tyler, chị Stefanie, tôi biết được chuyện về bức thư đó, biết rằng những ngày sau khi bị bố tôi dọa từ mặt, tối nào đi ngủ Tyler cũng nói to với chính mình, nói đi nói lại, “Mình phải làm gì đây? Nó là em gái mình.”
Khi nghe được chuyện đó, tôi đưa ra một quyết định tích cực duy nhất mà tôi có thể đưa ra trong nhiều tháng: tôi đăng ký sử dụng dịch vụ tư vấn tâm lý của trường đại học. Tôi được tạo điều kiện gặp một phụ nữ trung niên hoạt bát có những lọn tóc xoăn tít và đôi mắt sắc, hiếm khi nói trong những phiên trị liệu của chúng tôi, thích để tôi tự bộc bạch hơn, và tôi đã làm thế hết tuần này đến tuần khác, hết tháng này sang tháng khác. Ban đầu việc tư vấn chẳng có tác động gì hết – tôi không thể nghĩ đến một cuộc gặp mà tôi sẽ miêu tả là “có ích” – nhưng sức mạnh tổng hợp của các phiên là không thể phủ nhận được. Khi đó tôi không hiểu, và bây giờ tôi vẫn không hiểu, nhưng có một điều gì đó đã dung dưỡng, trong khoảng thời gian tôi trị liệu ấy, khiến tôi thừa nhận rằng tôi cần thứ mà tôi không thể tự cho mình.
Tyler cũng gửi bức thư đó cho bố mẹ chúng tôi, và khẳng định với tôi anh không bao giờ dao động. Mùa đông đó tôi dành nhiều giờ nói chuyện điện thoại với anh và Stefanie, người đã trở thành chị gái của tôi. Họ sẵn sàng nói chuyện với tôi bất cứ khi nào tôi cần, mà thời gian đó tôi cần nói chuyện nhiều.
Tyler đã phải trả giá cho bức thư đó, mặc dù cái giá khó mà xác định được. Anh không bị từ, hoặc ít nhất sự từ mặt đối với anh không phải là mãi mãi. Cuối cùng anh “đình chiến” với bố, nhưng quan hệ bố con giữa họ không bao giờ còn được như trước nữa.
Tôi đã xin lỗi Tyler nhiều đến mức không thể đếm được, vì những gì tôi đã khiến anh phải trả giá, nhưng ngôn từ được đưa ra lúng túng, vụng về và tôi cứ vấp hoài khi nói. Biết nói sao đây? Làm thế nào bạn có thể nặn ra một lời xin lỗi khi làm suy yếu mối quan hệ của một người với bố đẻ của người đó, với gia đình của người đó cơ chứ? Có lẽ không có ngôn từ cho điều ấy. Làm thế nào bạn cảm ơn một người anh trai đã không chịu bỏ bạn, nắm chặt tay bạn và kéo bạn lên, đúng lúc bạn đã quyết định ngừng vùng vẫy và để mình chìm xuống? Cũng không có ngôn từ cho điều đó.
Mùa đông năm ấy dài lê thê, sự ảm đạm chỉ bị làm ngắt quãng bởi những phiên tư vấn tâm lý hằng tuần của tôi và cảm giác kỳ cục về mất mát, gần như cảm giác mất người thân, mà tôi cảm thấy mỗi khi tôi xem xong một bộ phim truyền hình dài tập và phải tìm một bộ phim khác.
Mùa xuân, rồi mùa hè đến, và cuối cùng khi mùa hè chuyển sang thu, tôi nhận thấy mình đã có thể tập trung mà đọc. Tôi đã có thể nằm giữ ý nghĩ trong đầu ngoài cơn tức giận và tự buộc tội. Tôi quay lại với chương luận văn mà tôi đã viết gần hai năm trước tại Harvard. Tôi lại đọc Hume, Rousseau, Smith, Godwin, Wollstonecraft và Mill. Tôi lại nghĩ về gia đình. Có một câu hỏi khó trả lời trong đó, một điều gì đó không thể giải đáp được. Tôi hỏi, con người ta phải làm gì khi nghĩa vụ của họ đối với gia đình xung đột với các nghĩa vụ khác – đối với bạn hữu, với xã hội, với bản thân?
Tôi bắt đầu làm nghiên cứu. Tôi thu hẹp phạm vi nghiên cứu, nâng cao hàm lượng học thuật và tính cụ thể. Cuối cùng, tôi chọn bốn phong trào trí thức từ thế kỷ mười chín và nghiên cứu những người theo phong trào đó đã đấu tranh với vấn đề bổn phận đối với gia đình như thế nào. Một trong những phong trào mà tôi chọn là chủ nghĩa Mặc Môn của thế kỷ mười chín.
Tôi làm việc miệt mài suốt một năm và đến cuối năm tôi đã có được bản thảo của đề tài: “Gia đình, Đạo đức, và Khoa học xã hội trong tư tưởng của người Mỹ Angles, giai đoạn 1813–1820”.
Chương về chủ nghĩa Mặc Môn là chương tôi yêu thích. Khi còn nhỏ, ở lớp học giáo lý, tôi được dạy rằng toàn bộ lịch sử là nhằm chuẩn bị cho đạo Mặc Môn: rằng mọi sự kiện kể từ cái chết của Jesus đều được Chúa sắp đặt để thời khắc nhà tiên tri Joseph Smith quỳ trong khu rừng Sacred Grove có thể xảy ra, và để Chúa khôi phục một giáo hội đích thực. Các cuộc chiến tranh, di cư, các thảm họa thiên nhiên – tất cả những sự kiện ấy là những khúc mở đầu dẫn đến câu chuyện Mặc Môn. Nói cách khác, lịch sử thế tục có xu hướng bỏ sót các phong trào tâm linh như đạo Mặc Môn.
Luận văn của tôi nhìn nhận lịch sử theo cách khác, không theo Mặc Môn, cũng chẳng chống Mặc Môn, không thiên về tâm linh, nhưng cũng chẳng báng bổ. Nó không coi đạo Mặc Môn là mục tiêu của lịch sử loài người, nhưng cũng không xem nhẹ đóng góp của đạo Mặc Môn trong quá trình vật lộn với những vấn đề của thời đại. Thay vì thế, nó coi hệ tư tưởng Mặc Môn là một chương trong câu chuyện rộng lớn hơn của loài người. Trong luận văn của tôi, lịch sử không tách những người Mặc Môn khỏi gia đình nhân loại; lịch sử ràng buộc nó với gia đình nhân loại.
Tôi gửi bản thảo luận văn cho tiến sĩ Runciman, và vài ngày sau tôi gặp ông tại văn phòng của ông. Ông ngồi đối điện với tôi ở bên kia bàn và, với cái nhìn kinh ngạc, ông nói luận văn của tôi tốt. “Một số phần rất tốt,” ông nói. Bây giờ ông mỉm cười. “Tôi sẽ ngạc nhiên nếu với luận văn này em không giành được học vị tiến sĩ.”
Khi cuốc bộ ra về với tập bản thảo nặng trịch, tôi nhớ đã dự một trong những buổi giảng bài của tiến sĩ Kerry, ông đặt câu hỏi mở đầu là: "Ai viết nên lịch sử?" lên bảng đen. Tôi nhớ khi đó câu hỏi ấy đối với tôi mới lạ lùng làm sao. Theo quan niệm của tôi, một nhà sử học không phải là con người, nhà sử học giống như bố tôi, giống một nhà tiên tri hơn là con người, có tầm nhìn của quá khứ, giống như những con người của tương lai, không thể bị nghi ngờ, hoặc không thể bị bổ sung. Giờ đây, khi tôi đi qua trường King's College, trong cái bóng của nhà thờ đồ sộ, dường như trạng thái thiếu tự tin kỳ cục của tôi có vẻ buồn cười. Ai viết nên lịch sử? Tôi nghĩ. Tôi viết.
Vào sinh nhật lần thứ hai mươi bảy, ngày sinh nhật mà tôi chọn, tôi nộp luận văn tiến sĩ. Buổi bảo vệ luận văn diễn ra vào tháng Mười Hai, trong một căn phòng nhỏ được bài trí đơn giản. Tôi bảo vệ thành công và trở lại London, nơi Drew đã có việc làm và chúng tôi thuê một căn nhà. Vào tháng Một, gần mười năm kể từ khi tôi đặt chân đến lớp học đầu tiên trong đời mình tại BYU, Đại học Cambridge xác nhận với tôi: Tôi là tiến sĩ Westover.
Tôi đã xây dựng một cuộc sống mới, và đó là một cuộc sống hạnh phúc, nhưng tôi cảm thấy mất mát không chỉ dừng lại ở sự mất gia đình. Tôi đã để mất núi Buck, không phải bằng việc rời khỏi đó mà là rời khỏi đó âm thầm lặng lẽ. Tôi đã rút lui, bỏ chạy sang bên kia đại đương và để bố kể câu chuyện của tôi thay tôi, định nghĩa tôi với bất cứ ai tôi từng biết. Tôi đã nhường quá nhiều lãnh thổ – không chỉ là ngọn núi, mà toàn bộ quá khứ chung của chúng tôi.
Đã đến lúc về nhà.