← Quay lại trang sách

Chương 39 Nhìn Đàn Trâu Trở Về

Tôi về thung lũng đúng vào tiết xuân. Tôi lái xe dọc con đường cao tốc dẫn tới rìa thị trấn, rồi dừng lại tại một con dốc thẳng đứng nhìn ra đồi Bear River. Từ đó tôi có thể nhìn bao quát khu vực lòng chảo, một tác phẩm chắp ghép của những cánh đồng bạt ngàn hứa hẹn trải dài tới tận núi Buck. Ngọn núi phủ đầy màu xanh của những cây thường xanh, ngời lên sắc màu tươi sáng tương phản với những gam màu nâu và xám của đá phiến sét và đá vôi. Nàng công chúa tươi tắn hơn bao giờ hết. Nàng đứng quay mặt về phía tôi, thung lũng ở giữa chúng tôi, ngời ngời sự bất diệt.

Nàng công chúa đã luôn ám ảnh tôi. Từ bên kia đại dương tôi nghe thấy nàng gật đầu ra hiệu, như thể tôi là một con bê non bất kham đã lạc khỏi đàn bê của nàng. Thoạt đầu giọng nàng dịu dàng, dỗ dành, nhưng khi tôi không trả lời, khi tôi cứ ở xa lắc xa lơ, nàng quay ra giận dữ. Tôi đã phản bội nàng. Tôi hình dung ra khuôn mặt nàng cau có vì giận dữ, dáng đứng của nàng nặng nề, đầy đe dọa. Nàng sống trong tâm trí tôi như thế trong nhiều năm, một vị thần của nỗi khinh bỉ.

Nhưng giờ đây nhìn nàng, đứng nhìn ra những cánh đồng và đồng cỏ của nàng, tôi biết rằng mình đã hiểu lầm nàng. Nàng không giận tôi vì đã ra đi, bởi vì ra đi là một phần trong vòng quay của nàng. Vai trò của nàng không phải là quây những con trâu trong bãi quây gia súc, không phải là dùng sức mạnh để tập trung và giam nhốt chúng. Mà là mừng chúng trở về.

Tôi trở lại đường cũ, đi một phần tư dặm vào thị trấn và đỗ xe bên cạnh hàng rào cọc nhọn màu trắng của bà-trong-thị-trấn. Trong tâm trí tôi, nó vẫn là hàng rào của bà, dù bà không còn sống ở đó nữa: bà đã chuyển tới một nhà dưỡng lão gần phố Chính.

Đã ba năm rồi tôi chưa gặp ông bà tôi, kể từ khi bố mẹ tôi bắt đầu nói với bà con họ hàng của chúng tôi rằng tôi bị quỷ ám. Ông bà tôi yêu con gái họ. Tôi chắc rằng họ tin lời kể của mẹ. Vậy nên tôi chịu để mất họ. Đã quá muộn để giành lại bà – bà đang bị căn bệnh Alzheimer hành hạ và bà không nhận ra tôi – vậy nên tôi đến thăm ông, để tìm hiểu xem trong cuộc sống của ông có chỗ dành cho tôi hay không.

Ông cháu tôi ngồi trong phòng khách; tấm thảm ở đó vẫn là tấm thảm trắng loăn xoăn từ thời ấu thơ của tôi. Chuyến ghé thăm ông của tôi ngắn ngủi và lịch sự. Ông nói về bà, người mà ông đã chăm sóc một thời gian dài sau khi bà không còn nhận ra ông nữa. Tôi kể với ông về nước Anh. Ông nhắc đến mẹ tôi, và khi nói về mẹ tôi, ông có cái vẻ kính sợ mà tôi đã thấy trên mặt các đệ tử của mẹ. Tôi không trách ông. Qua những gì tôi nghe được, bố mẹ tôi là những người có ảnh hưởng ở thung lũng. Mẹ tôi kinh doanh các sản phẩm của mẹ như một lựa chọn thiên về tâm linh thay cho chương trình bảo hiểm sức khỏe bắt buộc Obamacare của Chính phủ Liên bang, và mẹ làm ra bao nhiêu sản phẩm bán hết bấy nhiêu, thậm chí có mấy chục nhân viên làm việc cho mẹ.

Ông nói, hẳn là Chúa đứng sau thành công kỳ diệu đó. Bố mẹ tôi chắc hẳn được Chúa giao phó làm những việc mà họ đã và đang làm, trở thành những người chữa bệnh nổi tiếng, đưa mọi người đến với Chúa. Tôi mỉm cười và đứng dậy. Ông vẫn là người ông hiền lành mà tôi nhớ, nhưng tôi choáng váng bởi sự xa cách giữa chúng tôi. Tôi ôm ông ở ngưỡng cửa, và nhìn ông thật lâu. Tôi không tin trong những năm còn lại của ông trên cõi đời này tôi có thể chứng minh với ông rằng tôi không phải là người như bố tôi đã nói, rằng tôi không phải là đồ xấu xa.

Tyler và Stefanie sống cách núi Buck một trăm dặm về phía Bắc, ở Idaho Falls. Đó là nơi tôi định đến tiếp theo, nhưng trước khi rời khỏi thung lũng, tôi viết cho mẹ tôi. Đó là một bức thư ngắn.

Tôi nói rằng tôi đang ở gần đó, và muốn mẹ gặp tôi trong thị trấn. Tôi nói, tôi không sẵn sàng gặp bố, nhưng đã mấy năm rồi tôi chưa nhìn thấy khuôn mặt mẹ. Mẹ sẽ đến chứ?

Trong bãi đậu xe của cửa hàng Stokes tôi đợi mẹ trả lời. Tôi không phải đợi lâu.

Mẹ đau lòng khi con nghĩ rằng đòi hỏi như vậy là có thể chấp nhận được. Một người vợ không thể đi đến bất cứ chỗ nào mà chồng mình không được hoan nghênh. Mẹ sẽ không vào hùa với thói vô lễ rành rành đó.

Bức thư dài và đọc nó khiến tôi phát mệt, như thể mình đã chạy một đoạn đường rất dài. Phần chính của nó là bài giảng về lòng trung thành: gia đình luôn bao dung, và rằng nếu tôi không thể bao dung với gia đình thì tôi sẽ hối tiếc vì điều đó trong suốt phần đời còn lại. Mẹ viết, quá khứ, dù nó là gì, cũng phải được đào sâu chôn chặt và được để thối rữa trong lòng đất.

Mẹ nói tôi được hoan nghênh trở về nhà, rằng mẹ nguyện cầu cho cái ngày tôi chạy vào nhà qua cửa sau và reo lên, “Con đã về!”

Tôi muốn đáp ứng lời nguyện cầu của mẹ – tôi chỉ cách núi Buck chưa đầy mười dặm – nhưng tôi biết cái hiệp ước bất thành văn mà tôi sẽ phải thực hiện khi tôi bước qua cánh cửa đó. Tôi có thể có được tình yêu của mẹ, nhưng có những điều kiện, vẫn là những điều kiện mà bố mẹ đã đặt ra cho tôi ba năm trước: rằng tôi phải đổi sự thật của tôi lấy sự thật của bố mẹ, rằng tôi phải đem những gì mình biết chôn sâu, để nó thối rữa trong lòng đất.

Bức thư của mẹ chẳng khác gì tối hậu thư: Tôi có thể gặp mẹ và bố, hoặc tôi sẽ không bao giờ gặp lại mẹ nữa. Mẹ không bao giờ nhượng bộ.

Trong khi tôi đọc thư, bãi đỗ đã đầy xe. Tôi để cho những lời của mẹ lắng xuống, rồi khởi động xe và chạy lên phố chính. Đến ngã tư tôi rẽ về phía Tây, về phía núi. Trước khi rời khỏi thung lũng, tôi muốn nhìn nhà tôi một lát.

Trong nhiều năm tôi đã nghe nhiều lời đồn đại về bố mẹ mình: rằng họ là triệu phú, rằng họ xây cả một pháo đài trên núi, rằng họ cất giấu thực phẩm đủ dùng trong nhiều thập kỷ. Thú vị nhất là những chuyện xung quanh việc bố thuê tuyển và sa thải người làm. Thung lũng vẫn chưa hồi phục sau cuộc suy thoái; mọi người đều cần việc làm. Bố mẹ tôi là những chủ lao động lớn nhất trong hạt, nhưng từ những gì tôi biết tôi có thể nói trạng thái tinh thần của bố đã khiến bố khó giữ các nhân viên lâu dài: khi chứng hoang tưởng bộ phận phát tác, bố có xu hướng đuổi việc nhân viên gần như vô cớ. Nhiều tháng trước bố đã thuê Diane Hardy, vợ cũ của Rob, người đã đến đưa chúng tôi về sau vụ tai nạn xe hơi thứ hai. Diane và Rob làm bạn với bố mẹ tôi đã hai mươi năm. Cho đến khi bố tôi đuổi việc Diane.

Có lẽ trong một lần chứng hoang tưởng bộ phận phát tác khác bố đã sa thải dì Angie, em gái của mẹ. Dì Angie đã nói chuyện với mẹ, tin rằng chị gái mình sẽ không bao giờ đối xử với người ruột thịt theo cách đó. Khi tôi còn nhỏ thì đó là việc kinh doanh của mẹ; bây giờ đó là doanh nghiệp của mẹ và cũng là của bố. Nhưng trong cuộc tỉ thí để biết nó thực sự là của ai, bố đã thắng: Dì Angie bị đuổi việc.

Thật khó để chắp nối những gì xảy ra tiếp theo vào chuyện ấy, nhưng theo những gì sau này tôi được biết thì dì Angie đã nộp hồ sơ xin trợ cấp thất nghiệp, và khi Sở Lao động gọi điện cho bố mẹ tôi để xác nhận rằng dì đã bị chấm dứt hợp đồng lao động, bố đã để mất chút lý trí còn lại. Bố nói rằng không phải Sở Lao động gọi điện cho bố mà là Sở An ninh đóng giả Sở Lao động. Bố nói dì Angie đã đưa tên bố vào danh sách phần tử khủng bố cần theo dõi. Giờ đây Chính phủ đang theo dõi bố – rình tiền của bố, súng ống của bố, xăng dầu của bố. Cứ như thể vụ Ruby Ridge lặp lại từ đầu.

Tôi rời khỏi đường cao tốc và rẽ vào con đường trải sỏi, sau đó bước ra khỏi xe, nhìn lên núi Buck. Ngay lập tức tôi thấy ít nhất vài lời đồn đại về bố mẹ mình là đúng – một là bố mẹ tôi kiếm bộn tiền. Ngôi nhà thật đồ sộ. Ngôi nhà mà tôi lớn lên có năm phòng ngủ; giờ đây nó được mở rộng về mọi hướng, trông như thể nó có tới ít nhất bốn mươi phòng ngủ.

Tôi nghĩ việc bố bắt đầu sử dụng tiền mà bố mẹ đang có để chuẩn bị cho Ngày Tận Thế chỉ còn là vấn đề thời gian. Tôi hình dung ra mái nhà đầy những tấm pin năng lượng mặt trời, được bày như một bộ bài. “Chúng ta cần tự cung tự cấp,” tôi mường tượng ra bố nói thế khi bố kéo những tấm pin đọc ngôi nhà khổng lồ của bố. Trong những năm tới, bố sẽ dùng hàng trăm nghìn đô-la mua thiết bị và sục sạo khắp núi để tìm nguồn nước. Bố không muốn phụ thuộc vào Chính phủ, và bố biết núi Buck chắc hẳn có nước, nếu như bố có thể tìm. Những vết rạch cỡ bằng sân bóng đá sẽ xuất hiện ở chân núi, để lại một vùng tan hoang gồm những rễ bị gãy và những cái cây bật gốc nơi đã từng là một cánh rừng. Vào cái ngày bố trèo lên cỗ máy bò tựa con rận xé toác những ruộng lúa mì như thảm lụa, có thể bố sẽ lẩm bẩm, “Phải tự lực cánh sinh”.

Bà-trong-thị-trấn qua đời đúng vào Ngày Của Mẹ.

Tôi đang làm nghiên cứu ở Colorado thì nghe được tin bà mất. Tôi lập tức lên đường tới Idaho, nhưng trong khi đi tôi hiểu rằng mình chẳng có nơi nào để ở lại. Đó là khi tôi nhớ ra dì Angie, và nhớ rằng bố tôi đã nói với tất cả những ai có thể nghe rằng dì đã đưa bố vào danh sách đối tượng khủng bố cần theo dõi. Mẹ đã từ mặt dì; tôi hy vọng mình có thể lại có được dì.

Dì Angie sống ở cạnh nhà ông tôi, vậy nên một lần nữa tôi lại đỗ xe dọc hàng rào cọc nhọn màu trắng đó. Tôi gõ cửa. Dì Angie chào tôi lịch sự, giống hệt ông tôi. Rõ ràng trong năm năm qua dì đã nghe bố mẹ tôi kể nhiều về tôi.

“Cháu sẽ thỏa thuận với dì,” tôi nói. “Cháu sẽ quên mọi điều bố cháu đã nói về dì, nếu như dì quên mọi điều bố đã nói về cháu.” Dì cười, nhắm mắt lại, hất đầu về phía sau theo cái cách gần như khiến trái tim tôi tan vỡ, trông dì thật giống mẹ tôi.

Tôi ở lại với dì Angie cho đến khi tang lễ được cử hành.

Trong những ngày trước lễ tang, các anh chị em của mẹ tôi tập trung tại ngôi nhà thuở ấu thơ của họ. Họ là những người bác, người cậu, nhưng vài người trong số họ từ bé tôi chưa gặp lại. Cậu Daryl, người mà tôi hầu như không biết, gợi ý rằng các anh chị em của cậu nên có một buổi trưa quây quần tại một nhà hàng yêu thích ở Lava Hot Springs. Mẹ tôi từ chối đến. Mẹ không chịu đi nếu không có bố tôi, mà bố và dì Angie thì đã trở thành người dưng.

Đó là một buổi trưa tháng Năm đầy nắng khi tất cả chúng tôi leo lên một chiếc xe bán tải rộng và lái xe đi khoảng một giờ. Thật không thoải mái khi tôi biết mình thế chỗ của mẹ, đi với người cha và các anh chị em của mẹ để tưởng nhớ mẹ của mẹ, một người bà mà tôi chẳng biết nhiều lắm. Tôi sớm hiểu ra rằng tôi không biết rõ bà là người tuyệt vời bởi vì các con của bà đều háo hức muốn tuôn ra những hồi ức và thích trả lời những câu hỏi về bà. Với từng câu chuyện bà tôi đều được làm nổi bật, nhưng người phụ nữ hình thành từ những kỷ niệm chung của họ không hề giống người phụ nữ mà tôi nhớ. Đó là lúc tôi hiểu ra rằng mình đã xét đoán bà tàn nhẫn dường nào, nhận thức của tôi về bà méo mó ra sao, bởi vì tôi đã nhìn bà qua lăng kính tàn nhẫn của bố mình.

Trên đường về, bác Debbie mời tôi đến thăm bác ở Utah. Cậu Daryl bắt chước bác. “Bọn ta muốn có cháu ở Arizona,” cậu nói. Chỉ trong một ngày tôi đã tìm lại được gia đình – không phải của tôi, mà là của mẹ.

Đám tang diễn ra vào ngày hôm sau. Tôi đứng ở một góc, nhìn các anh chị mình lần lượt xuất hiện.

Có Tyler và Stefanie. Họ đã quyết định dạy bảy đứa con của mình tại nhà, và theo tôi biết, bọn trẻ đang được giáo dục theo một tiêu chuẩn rất cao. Luke đến tiếp theo, với một đàn con đông đến nỗi tôi không đếm xuể. Anh nhìn thấy tôi và đi từ đầu kia của căn phòng tới, và chúng tôi nói chuyện qua loa vài phút, không ai trong chúng tôi thừa nhận rằng đã nửa thập kỷ rồi anh em tôi chưa gặp nhau, chẳng ai nói bóng gió vì sao. Anh có tin những gì bố nói về em không? Tôi muốn hỏi anh. Anh có tin rằng em là đứa nguy hiểm không? Nhưng tôi không hỏi. Luke làm việc cho bố mẹ tôi, và không được học hành, anh cần việc làm đó để nuôi gia đình. Việc ép anh chọn một bên sẽ chỉ mang lại kết cục đau lòng mà thôi.

Richard, sắp lấy bằng tiến sĩ ngành hóa học, từ Oregon xuống cùng Kami và các con của họ. Anh mỉm cười với tôi từ phía cuối nhà thờ. Vài tháng trước, Richard đã viết thư cho tôi. Anh nói anh rất tiếc vì đã tin bố, rằng anh ước gì có thể làm nhiều hơn để giúp tôi khi tôi cần điều đó, và rằng từ giờ trở đi, tôi có thể hy vọng vào sự ủng hộ của anh. Anh nói, chúng tôi là ruột thịt.

Audrey và Benjamin chọn một băng ghế gần cuối. Audrey đến sớm, khi nhà thờ còn vắng vẻ. Chị nắm lấy cánh tay tôi thì thầm rằng việc tôi từ chối gặp bố là một tội lớn. “Bố là người vĩ đại,” chị nói. “Trong suốt phần đời còn lại em sẽ tiếc vì không chịu nhún mình và nghe lời khuyên của bố.” Đó là những lời đầu tiên chị gái tôi nói với tôi trong nhiều năm và tôi không phản ứng trước những lời đó.

Trước khi tang lễ bắt đầu Shawn đến cùng với Emily, Peter và đứa con gái nhỏ mà tôi chưa gặp bao giờ. Đó là lần đầu tiên tôi ở trong một phòng cùng với anh kể từ cái đêm anh giết con Diego. Tôi căng thẳng, nhưng điều đó không cần thiết. Trong suốt buổi lễ anh không nhìn tôi một lần.

Anh cả của tôi, Tony, ngồi với bố mẹ tôi, năm đứa con anh ngồi thành hàng trên băng ghế. Tony đã lấy được bằng GED và đã gây dựng được một công ty vận tải thành công ở Las Vegas, nhưng doanh nghiệp của anh không sống sót qua cuộc suy thoái kinh tế. Giờ đây anh làm việc cho bố mẹ tôi, giống như Shawn, Luke và vợ của họ, cũng như Audrey và Bejamin, chồng chị. Giờ đây nghĩ về điều đó, tôi hiểu rằng tất cả các anh chị của mình, trừ Richard và Tyler, đều phụ thuộc vào bố mẹ tôi về mặt kinh tế. Gia đình tôi bị chẻ ra ở giữa – ba người rời núi, bốn người ở lại. Ba người có học vị tiến sĩ, bốn người không có bằng tốt nghiệp trung học. Một vết nứt đã xuất hiện, và đang lớn dần.

Một năm trôi qua trước khi tôi trở lại Idaho. Vài giờ trước chuyến bay từ London, tôi viết thư cho mẹ – như tôi luôn làm, và tôi sẽ luôn làm – để hỏi liệu mẹ có gặp tôi không. Một lần nữa, phản ứng của mẹ rất mau lẹ. Mẹ sẽ không gặp tôi, mẹ sẽ không bao giờ làm vậy, trừ khi tôi gặp bố. Mẹ nói, gặp tôi mà không có bố là thiếu tôn trọng chồng của mẹ.

Trong chốc lát, điều đó – cuộc hành hương thường niên trở về ngôi nhà vẫn tiếp tục hắt hủi tôi – trở nên vô nghĩa, và tôi tự hỏi mình có nên đi hay không. Sau đó tôi nhận được một bức thư khác, từ dì Angie. Dì nói ông ngoại tôi đã hủy bỏ các kế hoạch của ông cho ngày hôm sau, và thậm chí từ chối đến đền thờ như ông thường làm vào các ngày thứ Tư, bởi vì ông muốn có mặt ở nhà phòng khi tôi ghé qua. Dì Angie viết thêm: Khoảng mười hai tiếng nữa dì sẽ đón cháu! Nhưng ai đang đếm giờ nhỉ?