Chương 12
Tối hôm đó, Wallace lần theo sợi cáp và tìm thấy Hugo ở sau nhà, đứng tựa lên lan can. Trời hôm nay nhiều mây, sao đã bị che khuất. Hắn dừng bước ở cửa, không biết liệu mình có được chào đón không. Một cảm giác tội lỗi kỳ lạ tràn qua hắn, dù hắn không cho phép nó lớn thêm. Thấy nụ cười trên mặt Mei như vậy, gây chuyện cũng đáng.
Trước khi hắn kịp quay lưng vào nhà, Hugo đã nói, “Xin chào.”
Wallace gãi gãi gáy. “Chào anh, Hugo.”
“Ổn cả chứ?”
“Tôi nghĩ là ổn. Anh có... muốn được yên tĩnh một mình không? Tôi không muốn quấy rầy hay gì đâu.”
Hugo lắc đầu mà không quay lại. “Không, không sao đâu. Tôi không phiền.”
Wallace tới bên lan can, giữ chút khoảng cách giữa mình và Hugo. Hắn lo rằng Hugo sẽ tức giận với mình, dù hắn không nghĩ là Hugo sẽ bực bội vì chuyện nhỏ nhặt như dùng bàn cầu cơ để dọa một kẻ lừa đảo chạy mất. Dẫu vậy, hắn cũng không có tư cách nói Hugo được hay không được cảm thấy thế này thế nọ, đặc biệt là khi đây là cửa tiệm của anh. Là nhà của anh.
Hugo nói, “Anh đang tính chuyện xin lỗi, phải không?”
Wallace thở đài. “Hờ, trông rõ thế cơ à?”
“Có chút chút. Thôi đừng.”
“Đừng xin lỗi ư?”
Hugo gật đầu, liếc sang anh rồi nhìn ra vườn trà. “Anh đã làm một việc đúng đắn mà.”
“Tôi nói với một người phụ nữ tôi là Satan và sẽ ăn sống gan của cô ta.” Hắn nhăn mặt. “Đó là điều tôi chưa bao giờ nghĩ mình sẽ dõng dạc nói ra.”
“Việc gì cũng có lần đầu mà,” Hugo nói. “Tôi hỏi anh một câu được không?”
“Được thôi.”
“Tại sao anh lại làm vậy?”
Wallace vừa cau mày vừa khoanh tay. “Trêu đùa chúng như vậy ấy hả?”
“Ừ.”
“Vì tôi có thể.”
“Có vậy thôi à?”
Chà, không đâu. Nhưng thú nhận với Hugo rằng hắn không thích cái kiểu Desdemona đu đưa với anh là một việc Wallace sẽ không bao giờ làm. Nói vậy sẽ khiến hắn trông thật ngớ ngẩn, cả khi trong lời ấy có một phần sự thật. Chẳng làm thế nào được, và Wallace sẽ không nói những lời khiến tổng thể nghe như hắn cảm nắng anh sao đó. Chỉ nghĩ đến điều ấy thôi cũng đã khiến cảm giác ngượng ngùng dậy sóng trong hắn, và hắn thấy mặt mình nóng bừng lên. Thật ngu ngốc, thật đấy. Chuyện này sẽ chẳng có kết quả gì. Hắn chết rồi. Hugo thì chưa.
Vậy nên hắn nói ra cái cớ đầu tiên mà mình vớ được, mà không khiến mình nghe như chuẩn bị ngất xỉu. “Vì Mei.” Và với hai từ ấy, dù có kinh hãi, nhưng hắn biết cái cớ ấy là thực.
“Cô ấy thì sao?”
Wallace thở dài. “Tôi... cô nàng đã rất buồn bực. Tôi không thích cách Desdemona nói năng kiểu khinh thường cô ấy. Như thể Mei thấp kém hơn ả. Không ai đáng phải cảm thấy như vậy.” Và vì hắn vẫn là Wallace, hắn nói thêm, “Ý tôi là, Mei quả thật đã muốn thực hiện hành vi trái pháp luật, rõ rồi, nhưng cô nàng không có ý gì đâu, tôi đoán vậy.”
“Lời này nghe rõ là bênh vực.”
“Anh biết ý tôi mà.”
Hắn ngạc nhiên khi Hugo nói, “Tôi nghĩ là có đấy. Anh thấy có chuyện xảy ra với một người mình coi là bạn và cảm thấy cần phải can thiệp.”
“Tôi sẽ không gọi cô nàng là bạn—”
“Wallace.”
Hắn rên rỉ. “Được thôi. Thế nào cũng được. Chúng tôi là bạn đấy.” Việc này không khó nói ra như hắn tưởng. Hắn tự hỏi có phải mình luôn khiến mọi thứ khó khăn gấp bội với bản thân không. “Tại sao anh mặc cho chuyện ấy diễn ra kia chứ?”
Hugo trông có vẻ giật mình. “Ý anh là sao?”
“Đây không phải là lần đầu tiên cô ả đến đây. Desdemona ấy.”
“Đúng vậy,” Hugo chậm rãi nói. “Không phải lần đầu.”
“Và anh biết Mei không thích cô ả. Đặc biệt là khi ả dính líu tới Nancy.”
“Ừa.”
“Vậy tại sao anh không chấm dứt việc này?” Hắn cẩn thận không để giọng mình có chút trách móc nào. Hắn không giận, không hẳn vậy— không phải là với Hugo— nhưng hắn không hiểu. Hắn thật sự muốn biết nhiều hơn. Hắn không biết mong muốn ấy nảy sinh từ khi nào, nhưng dù thế nào thì nó vẫn luôn tồn tại trong lòng hắn. “Mei cũng là bạn của anh. Anh không thấy ả làm cô nàng buồn bực thế nào à?”
“Không thấy rõ như lẽ ra phải thấy,” Hugo nói. Anh mông lung nhìn vào khoảng tối trong khu rừng quanh họ.
“Anh biết chuyện của cô ấy rồi,” Wallace nói, không rõ tại sao mình lại đeo đuổi việc này. Hắn chỉ biết rằng nó có cảm giác thật quan trọng. “Những gì đã xảy ra với cô ấy. Khi xưa.”
“Cô ấy kể với anh rồi à.”
“Kể rồi. Tôi không bao giờ muốn ai bị như vậy. Tôi còn không tưởng tượng được sẽ thế nào khi không ai nghe mình nói trong khi mình...” Hắn ngậm miệng, nhớ lại mình đã gào thét mong người ta nghe thấy như thế nào sau khi mình đột quỵ trong văn phòng. Đã cố để ai đó, để bất kỳ ai thấy mình như thế nào. Hắn đã cảm thấy vô hình biết bao. “Như thế là không đúng.”
“Phải,” Hugo nói. “Rõ ràng là không đúng.” Quai hàm anh siết chặt. “Và không biết có ích lợi gì không, nhưng tôi đã xin lỗi Mei rồi. Lẽ ra tôi không nên để việc kia kéo dài như vậy.” Anh lắc đầu. “Tôi nghĩ là một phần trong tôi đã muốn xem anh sẽ làm gì, ngay cả sau khi tôi đã bảo anh là không được làm.”
“Tại sao?”
“Để thấy anh có thể làm được gì,” Hugo khẽ nói. “Anh không còn sống nữa, Wallace ạ. Nhưng anh vẫn đang tồn tại. Tôi nghĩ anh chưa từng nhận ra việc ấy cho tới ngày hôm nay.”
Vì Hugo nói vậy, nên hắn gần như có thể tin là vậy. “Vẫn không nên đối xử với cô nàng như thế mới phải. Hay để Desdemona dính líu tới Nancy như thế.”
“Ừa. Giờ thì tôi thấy rồi. Tôi không hoàn hảo. Tôi chưa bao giờ tuyên bố vậy. Tôi vẫn phạm lỗi như mọi người khác, dù tôi có cố gắng hết mình đi nữa. Làm một Người lái đò không hề giải phóng tôi khỏi gánh nặng làm người. Ngược lại, công việc ấy chỉ khiến mọi chuyện khó khăn hơn. Nếu tôi phạm sai lầm, người ta có thể bị tổn thương. Tất cả những gì tôi có thể làm là hứa sẽ làm tốt hơn và không để chuyện như vậy xảy ra lần nữa.” Anh rầu rĩ mỉm cười. “Không phải tôi cho rằng Desdemona sẽ quay lại đâu. Ít ra là trong một thời gian dài trước mắt. Anh đã đảm bảo là vậy rồi.”
“Đúng vậy,” Wallace nói, ưỡn ngực. “Cho chúng nó biết tay.”
“Anh thật sự phải nghỉ chơi với ông tôi đi.”
“Hở. Ông của anh tốt mà. Nhưng đừng kể với ông là tôi nói vậy. Ông cụ sẽ không bao giờ ngừng giày vò lỗ tai tôi mất.” Không nghĩ ngợi gì, hắn đã vươn tay vỗ vỗ lên mu bàn tay của Hugo. Tay hắn xuyên qua lan can. Hắn vội vã rụt tay lại. Về phần anh, Hugo chẳng phản ứng gì. Wallace thấy mừng là vậy, cả khi hắn ra sức nhớ lại cảm giác khi được Mei ôm. Hắn không biết từ khi nào mình lại trở nên thèm khát đụng chạm đến vậy.
Hắn vất vả tìm điều gì đó để nói, điều gì đó để phân tán tư tưởng của cả hai. “Tôi cũng từng phạm sai lầm mà. Trước kia.” Hắn ngừng lại. “Không, nghe chẳng đúng chút nào. Tôi vẫn thường sai sót mà.”
“Tại sao lại thế?” Hugo hỏi.
Quả vậy, tại sao thế nhỉ. “Làm người là phải có sai sót, tôi nghĩ vậy. Tuy nhiên tôi không giống anh. Tôi đã không để những lỗi lầm đó ảnh hưởng đến mình. Lẽ ra tôi nên thấy tội lỗi, nhưng tôi chỉ... tôi cũng không biết nữa. Tôi đã luôn đổ tội cho người khác và tự nhủ phải rút kinh nghiệm từ lỗi lầm của họ, chứ không hẳn là của tôi.”
“Anh nghĩ như vậy nói lên điều gì?”
Đây là một sự thật mất lòng để nhìn nhận, và là điều hắn vẫn chưa dám chắc rằng mình đã sẵn sàng để nghe. “Tôi không biết liệu mình có phải người tốt không nữa.” Dù lời ấy chua chát là vậy, hắn vẫn để nó lơ lửng trôi giữa họ trong chốc lát.
“Điều gì làm nên một người tốt kia chứ?” Hugo hỏi. “Làm việc tốt? Có ý tốt? Có lòng vị tha?”
“Có lẽ là cả ba,” Wallace nói. “Hoặc có lẽ là không cái nào cả. Anh bảo anh không biết những gì diễn ra sau cánh cửa kia, cả khi anh thấy vẻ mặt người ta khi họ qua cửa. Làm sao anh biết được Thiên Đường và Địa Ngục không tồn tại? Nhỡ đâu tôi đi qua cánh cửa kia, và tôi bị phán xét bởi mọi việc xấu tôi làm và nó lấn át những việc khác thì sao? Liệu tôi có xứng đáng tới cùng một nơi với một người cống hiến cả cuộc đời... vì điều gì đó không? Kiểu, tôi không biết nữa. Một vị sơ, hay ai đó.”
“Một vị sơ à,” Hugo lặp lại, chật vật nín cười. “Anh đang so mình với ma sơ đấy à.”
“Im đi,” Wallae càu nhàu. “Anh biết tôi muốn nói gì mà.”
“Tôi biết rồi,” anh nói, giọng nhẹ nhàng bông đùa. “Dẫu vậy, có khi tôi sẽ đánh đổi gần như mọi thứ để thấy anh mặc đồ ma sơ. Chân anh đẹp mà.”
Wallace thở dài. “Tôi khá chắc nói vậy là báng bổ đấy.”
Hugo cười khẩy rồi trầm tĩnh lại. Dường như anh đang nghiền ngẫm điều gì đó trong đầu. Wallace chờ đợi, không muốn thúc ép anh. Cuối cùng, Hugo nói, “Tôi có thể nói với anh một chuyện không?”
“Ừa. Dĩ nhiên rồi. Chuyện gì cũng được.”
“Không phải lúc nào tôi cũng thế này đâu,” Hugo nói, giọng hạ thấp. “Tôi có thể bảo với anh rằng mình có lòng tin vững vàng, nhưng điều đó không hoàn toàn là thật. Cũng... như nơi này vậy. Tiệm trà này. Nó vững vàng, nền móng chắc chắn, nhưng tôi nghĩ chẳng cần gì mấy để đánh sập cả nhà. Chỉ một cơn địa chấn. Một cơn động đất mà thôi. Tường sẽ vỡ vụn, sàn sẽ nứt toác, và tất cả những gì còn lại sẽ là gạch ngói và bụi bặm.”
“Anh từng gặp động đất rồi à,” Wallace nói.
“Tôi từng gặp rồi. Thật ra là hai lần.”
Hắn không muốn biết. Hắn muốn đổi đề tài, muốn nói về bất kỳ điều gì khác để Hugo trông không khổ sở như bây giờ. Nhưng cuối cùng, hắn không nói gì cả. Hắn không biết lựa chọn nào mới là hèn hơn.
Hugo nói, “Cameron bị... rối trí, khi tới chỗ tôi. Tôi có thể thấy điều ấy ngay giây phút cậu ấy qua cửa, lê bước theo sau Thần Chết của tôi.”
“Không phải Mei.”
Anh lắc đầu. “Không. Việc này xảy ra trước khi cô ấy đến.” Anh cau mày. “Thần Chết này không... giống cô ấy. Chúng tôi làm việc cùng nhau, nhưng thường xuyên xung đột với nhau. Nhưng tôi tưởng anh ta biết mình đang làm gì. Anh ta đã làm Thần Chết lâu hơn nhiều so với thời gian tôi làm Người lái đò, và tôi tự nhủ anh ta biết nhiều hơn những gì tôi có thể biết, đặc biệt là vì tôi là người mới trong hết thảy những công việc này. Tôi không muốn gây rối, và miễn là tôi tránh xung đột, tôi nghĩ là chúng tôi có thể làm việc suôn sẻ.”
“Anh ta dẫn Cameron tới. Cậu ấy không muốn ở đây. Cậu ấy từ chối tin rằng mình đã chết. Cậu ấy tức giận, tức giận đến nỗi tôi gần như nếm được cảm giác ấy. Đó là chuyện bình thường, dĩ nhiên rồi. Thật khó để chấp nhận một thực tại mới nơi cuộc sống duy nhất ta biết đã mãi mãi vuột khỏi tay ta. Cậu ấy không muốn nghe bất kỳ điều gì tôi nói. Cậu ấy bảo tôi rằng nơi này chỉ là nhà tù, rằng cậu ấy bị cầm tù ở đây, và tôi chẳng qua chỉ là người đang giam giữ cậu ấy.”
Cảm giác tội lỗi Wallace cố trốn tránh bấy lâu xuất hiện. Nó cào xé trong ngực hắn. “Tôi không...”
“Tôi biết,” Hugo nói. “Không phải... anh không giống Cameron. Chưa bao giờ giống cả. Tôi biết tất cả những gì mình phải làm là cho anh thời gian, và anh sẽ nhìn ra thôi. Cả khi anh không đồng thuận, cả khi anh không thích tình cảnh này, anh vẫn sẽ hiểu. Và tôi nghĩ anh còn chưa hiểu đâu, nhưng rồi sẽ đến lúc ấy thôi.”
“Làm thế nào?” Wallace hỏi. “Làm thế nào mà anh biết được?”
“Trà bạc hà,” Hugo nói. “Tách trà đó nồng, nồng hơn gần như là mọi tách trà tôi từng pha cho những linh hồn giống anh trước đây. Anh đã không nổi giận. Anh sợ hãi và giả vờ tức giận. Khác nhau chứ.”
Wallace nghĩ tới hình ảnh mẹ mình đứng trong bếp, kẹo que trong lò nướng. “Chuyện gì xảy ra sau đó?”
“Cậu ấy bỏ đi,” Hugo nói. “Và tôi không thể làm hay nói gì đề ngăn cậu ấy lại được.” Giọng anh đanh lại. “Thần Chết bảo tôi hãy để cậu ấy đi. Rằng cậu ấy sẽ học được bài học nhớ đời và chạy vội về ngay khi thấy da mình bắt đầu bong ra. Và vì không biết phải làm gì khác, tôi đã nghe lời Thần Chết.”
Wallace cảm thấy người mình đang run rẩy, rung lên từ trong ra ngoài. “Cậu ta đã không quay lại.”
Hugo suy sụp. Wallace có thể thấy điều ấy rõ như ban ngày trên mặt anh. Biểu cảm ấy khiến anh già đến khôn tưởng. “Đúng vậy. Cậu ấy không quay lại. Trước đó, tôi đã được cảnh báo về những việc có thể xảy ra nếu linh hồn như anh bỏ đi. Những người ấy có thể trở thành thứ gì. Nhưng tôi không nghĩ là việc ấy xảy ra nhanh đến vậy. Tôi chỉ đợi có vài tiếng rồi đuổi theo Cameron, trong khi Thần Chết bảo rằng tôi chỉ đang lãng phí thời gian mà thôi. Ban đầu lý do duy nhất khiến tôi đuổi theo là ràng buộc giữa chúng tôi cứ thế mà... đứt đoạn. Thần Chết đã nói đúng, theo kiểu của riêng anh ta. Tới khi tôi tìm ra Cameron, thì đã quá muộn rồi.” Anh lưỡng lự. Rồi, “Chúng tôi gọi họ là Trấu.”
Wallace cau mày. “Trấu à? Cái tên ấy có nghĩa là gì?”
Hugo cúi đầu. “Gọi vậy... là phù hợp. Với bản chất của Cameron. Một cái vỏ rỗng so với cậu ấy của ngày xưa. Nhân tính đã biến mất. Mọi thứ tạo nên con người cậu ấy, mọi ký ức, mọi cảm xúc, đều đơn giản là... biến mất. Và chẳng có gì tôi có thể làm để mang con người ấy trở lại. Đó là trận động đất đầu tiên của tôi dưới tư cách Người lái đò. Tôi đã phụ lòng một người.”
Wallae vươn tay về phía anh— để an ủi?— nhưng khựng lại khi nhớ ra mình không thể chạm vào Hugo. Hắn thu ngón tay rồi buông thõng. “Nhưng anh không dừng lại.”
“Đúng vậy,” Hugo nói. “Làm sao tôi dừng lại được? Tôi không bao giờ muốn chuyện như thế xảy ra với bất kỳ ai một lần nữa. Tôi tự nhủ rằng mình đã phạm sai lầm, và dù đó là một lỗi lầm khủng khiếp, tôi sẽ không cho phép điều ấy lặp lại. Rồi Quản Lý tới. Ông ta nói với tôi rằng việc này vẫn thường xảy ra, đó là một phần của công việc này, và tôi chẳng làm được gì để giúp Cameron cả. Cậu ấy đã chọn rồi. Quản Lý nói rằng việc ấy thật không may, và tôi phải làm mọi thứ trong quyền hạn của mình để đảm bảo rằng nó không xảy ra lần nữa. Và tôi tin ông ta. Mãi cho đến vài tháng sau khi Thần Chết dẫn một cô bé tới đây, tôi mới nhận ra những gì mình biết ít ỏi đến mức nào.”
Một cô bé.
Wallace nhắm nghiền mắt. Nancy hiện ra trong bóng tối, ánh mắt mỏi mệt, những nếp nhăn trên mặt hằn sâu.
“Cô bé thật hoạt bát,” Hugo nói, và Wallace chỉ mong anh ngừng kể. “Tóc cháu rối bù nhưng tôi nghĩ nó vẫn luôn như vậy. Cháu nói, nói luôn miệng, nói không ngừng, hỏi hết câu này đến câu khác. Chú là ai? Cháu đang ở đâu? Đây là cái gì? Khi nào cháu mới được về nhà?” Giọng anh vỡ òa. “Mẹ cháu đâu?” Thần Chết không trả lời cô bé. Anh ta không như Mei. Trong Mei có thứ... lòng tốt bẩm sinh. Cô ấy có thể cư xử hơi bỗ bã, nhưng đâu đó trong tâm vẫn có lòng sùng kính. Cô ấy hiểu công việc này quan trọng như thế nào. Chúng tôi không muốn làm họ thêm tổn thương. Chúng tôi phải đối tốt với người chết, vì chẳng có thời điểm nào mà họ yếu ớt hơn, dù là khi còn sống hay đã chết.”
“Chuyện gì đã xảy ra với cô bé?” Wallace thì thầm.
“Ung thư mô xương. U xương. Cô bé đã liên tục đấu tranh cho tới phút cuối cùng. Họ tưởng cháu đang khỏe lại. Và có lẽ cháu đã khỏe lại thật, ít ra là trong một thời gian ngắn. Nhưng căn bệnh hóa ra lại quá sức chịu đựng của cháu.” Wallace mở mắt đúng lúc để thấy Hugo vừa lau mặt vừa sụt sịt. “Cô bé ở đây sáu ngày. Trà của cháu có vị bánh gừng. Cô bé nói đó là vì mẹ cháu tạo ra những ngôi nhà và lâu đài bánh gừng đẹp nhất quả đất. Cửa bằng kẹo dẻo và tháp bằng bánh quy. Những con hào đắp bằng kem bơ xanh lam. Cô bé thật... tuyệt vời. Không bao giờ cáu giận, chỉ tò mò mà thôi. Trẻ con thường không sợ hãi như người lớn. Không phải là trước cái chết.”
“Tên cô bé là gì?”
“Lea,”
“Cái tên xinh quá.”
“Đúng thế,” Hugo đồng tình. “Cô bé cười nhiều lắm. Ông tôi thích cháu lắm. Chúng tôi đều thích cháu.”
Và dù không muốn biết, hắn vẫn hỏi, “Chuyện gì xảy đến với cô bé?”
Hugo gục đầu. “Trẻ con thì khác. Mối liên kết giữa chúng và cuộc đời này mạnh mẽ hơn. Chúng yêu thương bằng cả trái tim mình vì không biết phải sống thế nào khác. Cơ thể của Lea đã bị tàn phá qua nhiều năm. Về cuối đời, cô bé chưa từng thấy thế giới ngoài phòng bệnh. Cô bé kể với tôi về chú chim sẻ gần như sáng nào cũng bay đến cửa sổ phòng mình. Chú chim sẻ đậu ở đó, ngắm nhìn cháu. Nó luôn trở lại. Cô bé tự hỏi liệu ở nơi mình sắp tới mình sẽ có cánh hay không. Tôi nói rằng cháu sẽ có mọi thứ mà mình muốn. Và cô bé nhìn tôi, Wallace ạ. Cháu nhìn tôi và nói, ‘Không phải mọi thứ đâu ạ. Chưa phải đâu.’ Và tôi đã hiểu cháu muốn nói gì.”
“Còn mẹ cháu.”
Hugo nói, “Một phần trong trẻ con lưu luyến cuộc sống vì các cháu đã bùng cháy rực rỡ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi đến vậy. Trong lúc tôi ngủ, Lea nhớ tới mẹ mình. Và bằng cách nào đó những suy nghĩ ấy đã tự hiện ra với Nancy. Bà ấy sống cách đây cả trăm dặm.” Lời kể của anh bỗng trở nên tràn ngập xót xa. “Tôi hoàn toàn không biết làm thế nào cô bé làm được điều ấy. Nhưng bà ấy tới đây, tới nơi này, đòi chúng tôi trả con gái lại cho bà.” Trông anh thật đau khổ khi thêm vào, “Bà ấy đã gọi cảnh sát.”
“Ôi không.”
Giọng Hugo nghe như thể anh đang mắc nghẹn. “Họ không tìm thấy gì, dĩ nhiên là vậy. Và khi họ biết chuyện xảy ra với con gái bà ấy, họ nghĩ rằng bà ấy... chà. Rằng bà ấy đơn giản là đã suy sụp. Và ai mà trách được bà kia chứ? Không ai trong số họ biết rằng Lea đang ở ngay đó, rằng cô bé đang la hét đòi mẹ mình, rằng cô bé đang gào thét. Bóng đèn vỡ tan. Tách trà nứt toác. Cô bé nói rằng mình muốn về nhà. Tôi đã cố ngăn anh ta lại. Tên Thần Chết kia ấy. Tôi đã cố cản anh ta lại khi anh ta túm lấy tay cô bé. Tôi cố cản anh ta lại khi anh ta kéo cháu lên tầng. Tôi đã cố cản anh ta lại khi anh ta đẩy cháu qua cánh cửa kia. Cô bé không muốn đi. Cháu đã cầu xin tôi. Xin chú đấy, Hugo ơi, xin chú đấy. Đừng làm cháu biến mất mà.”
Da Wallace lạnh toát như băng.
“Tên Thần Chết kia ép cô bé siêu thoát,” Hugo nói, nỗi xót xa trong lòng anh như một vật hữu hình. “Cửa sập lại trước khi tôi kịp đến chỗ cô bé. Và khi tôi cố mở cửa ra lần nữa, nó không hề nhúc nhích. Nó đã thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, và chẳng có lý do nào khác để nó lại mở ra. Và Ôi, Wallace ạ, tôi tức giận khủng khiếp. Thần Chết bảo tôi rằng đó là việc nên làm, rằng nếu để tình trạng kia tiếp diễn, chúng tôi có khả năng sẽ chỉ gây thêm đau đớn cho cả hai bên. Và hơn nữa, đó là điều Quản Lý mong muốn, là điều ông ta bảo chúng tôi phải làm. Nhưng tôi không tin anh ta. Sao mà tin cho được? Chúng tôi lẽ ra không được ép người ta làm việc họ không muốn làm. Đó không phải là công việc của chúng tôi. Chúng tôi ở đây là để đảm bảo rằng họ nhìn ra cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ gồm việc sống. Cuộc đời có giai đoạn, và nó vẫn tiếp tục, cả sau khi chết đi. Điều đó thật đẹp đẽ, cả khi nó đau đớn đến vậy. Lea lẽ ra sẽ đến đích, tôi nghĩ vậy. Cô bé rồi sẽ hiểu được điều ấy.”
“Chuyện gì xảy ra với anh ta?” Wallace đờ đẫn hỏi. “Tên Thần Chết kia ấy.”
Mặt Hugo đanh lại. “Anh ta đã làm hỏng việc. Anh ta chưa từng có kiểu tính cách mà một Thần Chết cần, nhưng tôi thì biết cái quái gì kia chứ?” Anh lắc đầu. “Anh ta nói đó là việc duy nhất chúng tôi có thể làm, và sau cùng tôi sẽ thấy thôi. Nhưng nói vậy chỉ khiến tôi thêm giận dữ. Và rồi Quản Lý đến.”
Wallace đã thấy được toàn cảnh tình huống kia, chậm rãi thành hình trước mắt hắn. “Ông ta là thứ gì?”
“Là thần hộ mệnh của cánh cửa,” Hugo khẽ nói. “Là một vị tiểu thần. Một trong những sinh vật cổ xưa nhất còn tồn tại. Anh chọn đi. Nói theo kiểu nào cũng được. Quản Lý nói mình là trật tự trong hỗn độn. Ông ta cũng là một gã khốn khó tính, khó chịu khi một số việc làm đảo lộn trật tự của mình. Ông ta tới tiệm trà. Thần Chết cố biện hộ cho việc anh ta đã làm. Nói với ông ta đi, Hugo. Nói với ông ta rằng việc tôi làm là đúng, là cần thiết đi.”
“Anh có nói không?” Wallace hỏi.
“Không,” Hugo nói, giọng lạnh lùng hơn bao giờ hết. “Tôi không nói. Vì dù Thần Chết phải giúp Người lái đò, họ không có quyền ép một người làm việc người ta chưa sẵn sàng làm. Trật tự có tồn tại, đúng vậy; Quản Lý sống vì trật tự, nhưng ông ta cũng biết những việc thế này cần thời gian để thực hiện. Giây trước, Thần Chết còn đang đứng cạnh tôi, van xin ông ta nghe mình, và tất cả những gì tôi nghĩ được là giọng anh ta nghe y như giọng Lea vậy. Và rồi anh ta biến mất. Đơn giản là... bay biến trong chớp mắt. Quản Lý còn không nhúc nhích ngón tay nào. Tôi đã sững sờ. Kinh hãi. Và cảm giác tội lỗi trong tôi khi ấy, Wallace ạ. Nó thật choáng ngợp. Tôi đã gây ra việc này. Đó là lỗi của tôi.”
“Không phải đâu,” Wallace nói, bỗng tức điên lên, dù tức cái gì thì hắn không chắc nữa. “Anh đã làm mọi việc mình có thể làm. Anh không làm hỏng chuyện, Hugo ạ. Là gã kia đấy chứ.’
“Anh ta đã lãnh hậu quả xứng đáng phải lãnh ư?”
Wallace tái mặt. “Tôi...”
“Quản Lý nói rằng đúng vậy. Ông ta nói như vậy là tốt nhất. Rằng cái chết là một quá trình, và bất kể thứ gì phá đám quá trình đó đều chỉ là thứ tai hại.”
“Nancy không biết việc này, phải không?”
“Phải,” Hugo thì thầm. “Bà ấy không biết. Từ đầu đến cuối bà ấy không biết gì. Bà ấy ở khách sạn hàng tuần liền, ngày nào cũng tới đây, dù càng lúc càng ít nói hơn. Tôi nghĩ một phần trong bà biết tình hình không còn như xưa nữa. Bất kỳ điều gì liên quan đến Lea mà bà cảm nhận được đã biến mất vì Lea đã biến mất. Dấu chấm hết mà bà chưa sẵn sàng tiếp nhận đã được đặt xuống. Bà đã khiến bản thân tin rằng cái chết của con gái là giả. Rằng bằng cách nào đó, cô bé vẫn đang ở đây. Bà đã đúng, theo một cách nhất định, tới khi không còn vậy nữa. Và ánh sáng trong mắt bà, cùng thứ ánh sáng tôi từng thấy trong mắt Lea, bắt đầu lung lay và tắt lịm.”
“Bà ấy vẫn ở đây,” Wallace nói, dù hắn không biết lời ấy có nghĩa là gì. Người phụ nữ hắn từng thấy trông không khác hắn là bao: bà như một bóng ma vậy.
“Đúng vậy,” Hugo nói. “Bà ấy rời đi vài tháng, và tôi tưởng thế là hết chuyện, rằng bằng cách nào đó bà đã bắt đầu nguôi ngoai. Quản Lý dẫn Mei tới, và tôi tự nhủ như vậy là tốt nhất. Tôi đang bận rộn tìm hiểu về Thần Chết mới của mình, cố gắng đảm bảo rằng cô ấy không giống người tiền nhiệm. Mất một thời gian dài tôi mới tin cô ấy. Mei sẽ kể với anh rằng ban đầu tôi khá khốn nạn, và như vậy có lẽ không sai đâu. Thật khó cho tôi để tin tưởng những người giống cô ấy lần nữa.”
“Nhưng anh đã tin cô ấy.”
Hugo nhún vai. “Mei đã giành được lòng tin ấy. Cô ấy không như bất kỳ ai khác. Cô ấy biết tầm quan trọng của việc chúng tôi làm, và cô ấy không xem nhẹ công việc này. Nhưng trên hết, cô ấy tốt bụng. Và vô cùng mạnh mẽ. Tôi không biết liệu mình có thể giải thích cho thỏa đáng điều ấy quan trọng đến thế nào không. Cuộc đời này không hề dễ sống. Ngày qua ngày chúng tôi đều bị cái chết bủa vây. Hoặc là ta học cách chung sống với nó, hoặc là để nó ăn mòn ta. Thần Chết đầu tiên của tôi không hiểu điều đó. Và vì thế mà người khác trả giá, những người vô tội không đáng gặp phải những chuyện xảy đến với họ.” Anh cúi đầu nhìn tay mình, ánh mắt ảm đạm trong đêm. “Rồi Nancy trở lại. Bà ấy thuê một căn hộ trong thị trấn, và hầu hết các ngày, đều tới đây. Bà không hề mở miệng. Bà ngồi ở cùng một bàn. Bà đang đợi, tôi nghĩ vậy.”
“Đợi gì cơ?”
“Điều gì cũng được,” Hugo nói. “Bất cứ điều gì cho bà thấy rằng những người chúng ta yêu thương không bao giờ thật sự mất đi. Bà lạc lối, và tất cả những gì tôi có thể làm là ở bên bà khi bà tìm lại tiếng nói của mình. Đó là điều tôi nợ bà. Tôi sẽ không bao giờ thúc giục bà. Tôi sẽ không bao giờ ép bà làm điều mình chưa sẵn sàng làm. Sao tôi có thể làm vậy chứ? Tôi đã phụ lòng bà một lần rồi. Tôi không muốn chuyện ấy xảy ra lần nữa.”
“Có phải anh đâu. Anh không—”
“Là tôi.” Hugo gắt lên với hắn, và Wallace suýt nữa thì không kìm nổi mà co rúm lại. “Lẽ ra tôi có thể làm nhiều hơn thế. Lẽ ra tôi nên làm nhiều hơn thế.”
“Làm thế nào mới được?” Wallace hỏi. “Anh còn có thể làm gì hơn chứ?” Trước khi Hugo kịp phản bác, Wallace đã nói tiếp. “Anh có đẩy Lea qua cửa đâu. Anh không gây ra cái chết của cô bé. Anh đã ở bên cô bé khi cháu cần anh nhất, và giờ anh đang làm điều tương tự cho mẹ cháu. Anh còn có thể trao đi thêm gì nữa, hả Hugo?”
Hugo sụm người tì lên lan can. Anh mở miệng, nhưng không nói gì.
Không nghĩ ngợi gì, Wallace đã lại vươn tay về phía anh, thầm muốn trấn an anh.
Tay hắn xuyên qua vai Hugo.
Hắn lùi lại, mặt tái nhợt. “Tôi không thật sự tồn tại ở đây,” hắn thì thầm.
“Có chứ, Wallace.”
Ba từ, và Wallace không chắc liệu mình có từng nghe câu nói nào sâu sắc hơn vậy không. “Thật không?”
“Thật chứ.”
“Lời này có nghĩa là gì?”
“Tôi không giải thích với anh được,” Hugo nói. “Ước gì tôi có thể. Tất cả những gì tôi có thể làm là cho anh thấy con đường trước mắt, và giúp anh làm ra lựa chọn của riêng mình.”
“Nhỡ tôi chọn sai thì sao?”
“Thì chúng ta chọn lại từ đầu,” Hugo nói. “Và cầu mong những điều tốt lành nhất.”
Wallace cười khẩy. “Lại là dăm ba cái lòng tin ấy.”
Hugo bật cười, trong lúc ấy trông có vẻ ngạc nhiên. “Ừa, tôi nghĩ là vậy đấy. Anh quả là một con người kỳ lạ, Wallace Price ạ.”
Hắn nhớ lại việc từng gọi Mei là kỳ lạ và mỉm cười. “Đó có lẽ là điều tử tế nhất mà ai đó nói với tôi đấy.”
“Thật ư? Tôi sẽ ghi nhớ việc ấy.” Nụ cười của anh phai nhạt. “Sẽ vất vả lắm cho xem. Khi anh đi rồi ấy.”
Wallace nuốt khan. “Tại sao?”
“Vì anh là bạn tôi,” Hugo nói, như thể đó là điều dễ nói ra nhất trần đời. Chưa từng có ai nói vậy với Wallace trước kia, và lời ấy khiến hắn tan nát cõi lòng. Ở nơi đây, ở điểm cuối cuộc đời, hắn đã tìm được một người bạn. “Anh...”
Hắn nhớ lại những gì Nelson đã nói với mình. “Hợp cạ.”
“Ừa,” Hugo nói. “Anh hợp cạ với chúng tôi. Tôi không ngờ đấy.”
Và vì Wallace có thể, hắn nói, “Lẽ ra anh nên buông bỏ trông đợi của mình mới phải.”
Hugo lại bật cười, và họ đứng vai kề vai, ngắm nhìn những cây trà đung đưa qua lại.
✽Căn nhà im lặng như tờ.
Wallace ngồi trên sàn.
Hắn nhìn chằm chằm than hồng đang tàn lụi trong lò sưởi, đầu Apollo đặt trên đùi hắn. Hắn lơ đễnh gãi tai chú chó, đắm chìm trong suy tư.
Hắn không để ý là mình sẽ mở miệng cho tới khi đã cất giọng. “Tôi chưa bao giờ có cơ hội già đi.”
“Đúng thế,” Nelson nói từ trên ghế. “Ta nghĩ là vậy. Và nếu cậu muốn, ta có thể nói với cậu rằng trải nghiệm ấy không hay ho gì đâu, rằng tất cả những cơn đau và nhức đều kinh khủng và ta không mong bất kỳ ai phải già đi, nhưng nói vậy là nói dối.”
“Tôi sẽ không thích trải nghiệm ấy đâu.”
“Ta cũng nghĩ vậy.” Nelson dùng gậy vỗ vỗ vai Wallace. “Cậu có ước gì mình đã sống đến già không?”
Và đó không phải là một câu hỏi hóc búa đấy ư? “Sống như tôi ngày trước thì không.”
“Ngày trước cậu đã sống thế nào?”
“Không tốt lắm,” Wallace lầm bầm. Hắn cúi đầu nhìn hai tay đặt trên đùi. “Tôi tàn nhẫn và ích kỷ. Tôi không quan tâm tới ai ngoài bản thân mình. Thật vớ vẩn.”
“Cái gì vớ vẩn?”
“Việc này,” Wallace nói, kìm nén cảm giác bực bội trong lòng. “Thấy mình như thế này, biết rằng mình không thể làm gì để thay đổi tình trạng này.”
“Nếu làm được thì cậu sẽ làm gì?”
Và không phải đó chính là điểm mấu chốt sao? Là một câu hỏi mà bất kỳ câu trả lời nào đưa ra cũng chỉ để chứng tỏ rằng hắn đã thất bại ở gần như mọi mặt trong cuộc sống. Và vì cái gì kia chứ? Sau cùng, lối sống kia đã cho hắn cái gì? Những bộ âu phục sang chảnh và một văn phòng ấn tượng ư? Những người sẽ làm bất kỳ điều gì hắn sai bảo họ ngay giây phút hắn nói dứt lời? Nhảy lên đi, hắn nói. Lên cao từng nào? Họ sẽ hỏi. Không phải vì họ trung thành gì với hắn, mà vì họ sợ bị trả đũa, sợ những gì hắn sẽ làm nếu họ làm hắn thất vọng.
Họ e sợ hắn. Và hắn đã sử dụng nỗi sợ đó để chống lại họ vì như vậy thì dễ hơn là hướng nó vào chính bản thân mình, phơi bày mọi ngóc ngách tăm tối trong lòng hắn. Nỗi sợ là một động lực cường đại, và giờ đây, hiện nay, lúc này, hắn đã biết sợ. Hắn sợ biết bao nhiêu là thứ, nhưng sợ nhất là những gì hắn không biết.
Với chính suy nghĩ này mà Wallace đứng dậy, đột ngột thấy quyết tâm. Tay hắn đang run rẩy, da như bị kim châm, nhưng hắn không ngừng lại.
Nelson nheo mắt nhìn hắn. “Cậu đang làm gì vậy?”
“Tôi sẽ đi thăm cái cửa kia.”
Mắt Nelson lồi cả ra khi ông cụ chật vật đứng dậy khỏi ghế. “Gì cơ? Đợi đã, Wallace, không, cậu không muốn làm vậy đâu. Trừ khi Hugo đến đó với cậu.”
Hắn lắc đầu. “Tôi không đi qua đâu. Tôi chỉ muốn thấy nó thôi.”
Nói vậy chẳng khiến Nelson bình tĩnh lại. Ông cụ vừa càu nhàu vừa đứng lên, dùng cái gậy để chống mình dậy. “Vấn đề không phải như vậy, chàng trai ạ. Cậu phải thật cẩn thận. Nghĩ đi, Wallace. Nghĩ kỹ hơn bất kỳ lúc nào khác trong đời đi.”
Hắn nhìn về phía cầu thang. “Tôi đang nghĩ đây.”
✽Hắn đi về phía cầu thang, Nelson càu nhàu theo sau. Họ ngừng bước ở tầng hai, nơi tường sơn màu vàng nhạt, sàn gỗ êm ru dưới chân họ, nhìn Apollo đi dọc hành lang về phía một cánh cửa sơn màu xanh lục rực rỡ đang đóng lại. Chú chó đi xuyên qua cửa, đuôi ngoáy tít rồi biến mất.
“Phòng của Hugo đấy,” Nelson nói.
Wallace đã biết điều ấy rồi, dù hắn chưa bao giờ vào trong đó. Ở đầu bên kia hành lang là phòng của Mei, cánh cửa trắng cũng đang đóng, một tấm biển ghi ĐỪNG QUÊN KHIẾN NGÀY HÔM NAY TRỞ NÊN THẬT TUYỆT VỜI xiêu vẹo treo trên đó. Ngày đầu ở đây khi hắn vào trong đó đánh thức cô là lần duy nhất hắn lên tầng hai.
Hắn tính đến chuyện lại xuống tầng, đợi chuông báo thức reo vang và một ngày mới lại bắt đầu.
Hắn quay đi...
... và đi lên cầu thang dẫn đến tầng ba.
Lưỡi câu trên ngực hắn rung lên theo mỗi bậc thang hắn bước lên. Nơi này có cảm giác gần như nóng nực, và nếu tập trung hết sức, hắn nghĩ mình có thể nghe thấy những tiếng thì thầm tới từ không trung quanh hắn.
Hắn hiểu ra, khi ấy, rằng sợi cáp không bắt nguồn từ Hugo như ban đầu hắn tưởng. Không chỉ từ Hugo, ít nhất là vậy. Ồ, Wallace chắc chắn rằng Hugo là một phần của sợi cáp, cũng như Mei và Nelson và Apollo và ngôi nhà kỳ lạ này. Nhưng thứ này còn chứa đựng nhiều hơn, một điều vĩ đại hơn hắn tưởng. Không trung quanh hắn tràn ngập tiếng thì thầm, gần giống một bài hát mà hắn không tài nào nghe ra nổi. Nó đang vẫy gọi hắn, hối thúc hắn đi lên. Hắn chớp mắt lia lịa để xua tan cảm giác cay xè trong đó, tự hỏi liệu Lea có nghe được những âm thanh này khi cô bé bị lôi về phía cửa, giãy giụa để thoát khỏi bàn tay siết mạnh quanh cổ tay mình hay không.
Hắn thở hổn hển khi lên tới chiếu nghỉ ở tầng ba. Ở bên phải hắn là một không gian gác mở, ánh trăng tràn vào qua khung cửa sổ duy nhất. Một dãy kệ sách chạy dọc tường, xếp đầy hàng trăm cuốn sách. Những chậu cây treo thả từ trần xuống, ra hoa màu vàng cam, xanh lam, vàng chanh và hồng.
Ở bên trái hắn, là một hành lang với những cánh cửa đóng lại. Trên tường treo tranh ảnh: hoàng hôn trên bãi cát trắng, tuyết đọng thành những cụm dày trong một cánh rừng trăm tuổi, một nhà thờ phủ đầy rêu xanh với một khung kính màu vẫn nguyên vẹn.
“Đây là nơi ta sống,” Nelson nói, tay siết chặt cây gậy. “Phòng của ta ở cuối hành lang.”
“Cụ có nhớ không?”
“Căn phòng ấy à?”
“Cuộc sống ấy,” Wallace lơ đễnh nói, lưỡi câu kéo hắn đi tiếp.
“Có đôi ngày. Nhưng ta đã học cách thích nghi rồi.”
“Vì cụ vẫn còn đây.”
“Đúng vậy,” Nelson nói. “Đúng vậy.”
“Cụ có cảm thấy không?” hắn thì thầm. Nhẹ bẫng, như đang trôi nổi, bài hát, tiếng thì thầm tràn ngập tai hắn.
Nelson trông có vẻ bồn chồn. “Có, nhưng với ta thì không giống. Không còn giống nữa. Không còn như ngày xưa.”
Và lần đầu tiên từ trước tới nay, Wallace nghĩ Nelson đang nói dối.
Hắn lại bắt đầu trèo lên thang. Cánh thang này hẹp hơn, và hắn biết mình đang leo lên tháp mái kỳ quặc mà mình đã thoáng thấy lần đầu khi tới đây với Mei. Cái tháp như thứ bước ra từ truyện cổ tích, trong có vua và hoàng hậu, có nàng công chúa bị nhốt trên đó. Dĩ nhiên đó là nơi đặt cánh cửa rồi. Hắn không tưởng tượng ra nổi nó còn có thể ở đâu khác.
Hắn chậm rãi bước từng bước. “Cụ có cố cản gã lại không?”
“Ai cơ?”
Wallace không ngoái lại. “Tên Thần Chết kia. Cùng Lea.”
Nelson thở dài. “Cháu ta kể cho cậu nghe rồi à.”
“Kể rồi.”
“Ta đã cố,” Nelson nói, nhưng giọng ông cụ nghe xa xăm, như thể giữa họ là muôn trùng cách trở. Như một giấc mơ, mọi đường nét mờ ảo sau tấm màng mỏng tang. “Ta đã cố hết sức. Nhưng ta không đủ mạnh. Tên Thần Chết kia, gã... không nghe ta. Ta đã làm mọi việc có thể làm. Hugo cũng vậy.”
Cầu thang uốn quanh. Wallace vô thức vịn lấy lan can. Mặt gỗ trơn láng dưới ngón tay hắn. “Cụ nghĩ tại sao gã lại làm như vậy?”
“Ta không biết. Có lẽ gã nghĩ đó là việc nên làm.”
“Có đúng là vậy không?”
“Không,” Nelson sẵng giọng. “Lẽ ra gã không bao giờ được ra tay với cô bé đó. Dẫn con bé đến đây là gã xong việc rồi. Lẽ ra gã nên tránh xa việc này ra. Wallace, cậu có chắc về chuyện này không? Chúng ta có thể xuống tầng mà. Gọi Hugo dậy. Cháu ta không phiền đâu. Nó nên có mặt để làm việc này.”
Wallace chẳng chắc chắn về chuyện gì cả. Không còn như vậy nữa. “Tôi phải thấy cánh cửa kia.”
Vậy nên hắn lên cầu thang.
Cửa sổ xếp khắp các mặt tường, những khung cửa hắn chưa từng thấy từ bên ngoài nhà. Hắn bật cười khi thấy nắng ùa vào qua cửa, dù hắn biết giờ đang là nửa đêm. Hắn dừng lại ở một trong mấy khung cửa, nhìn ra bên ngoài. Lẽ ra phía bên kia phải là một mảnh rừng rộng lớn, có lẽ còn có thị trấn thấp thoáng đằng xa, nhưng thay vào đó, cửa sổ trông vào một căn bếp quen thuộc. Tiếng nhạc Giáng Sinh văng vẳng vọng vào qua khung cửa, và một người phụ nữ đang lấy những que kẹo nhà làm ra khỏi lò nướng.
Hắn đi tiếp.
Hắn không biết mất bao lâu để lên đến đỉnh cầu thang. Có cảm giác như đã nhiều giờ trôi qua, dù hắn nghĩ rằng mới chỉ có một hai phút thôi. Hắn tự hỏi liệu những người đi trước hắn cũng cảm thấy vậy không, và suýt nữa thì hắn ước gì Hugo đang ở đây, nắm tay hắn dắt đi. Quả là một suy nghĩ nhỏ nhặt vớ vẩn, hắn thầm suy tư. Hắn thấy thỏa mãn biết bao, trước suy nghĩ về việc nắm tay Hugo. Hắn không hề dối trá khi nói với Hugo rằng hắn ước gì mình đã quen anh từ trước. Hắn nghĩ bằng cách nào đó mọi chuyện có thể sẽ khác đi.
Hắn đã lên đến tầng bốn.
Khắp xung quanh hắn là cửa sổ, dù những tấm rèm đã được vén lên. Một cái ghế nhỏ đặt cạnh một cái bàn nhỏ. Trên bàn là một bộ trà cụ: một cái ấm và hai cái tách. Một bình hoa được đặt cạnh tách trà, cắm đầy những bông hoa đỏ.
Nhưng không có cánh cửa nào cả.
Hắn nhìn quanh. “Tôi không... cửa ở đâu vậy?”
Nelson giơ một ngón tay, chỉ lên trên.
Wallace ngẩng đầu.
Và ở đó, trên đầu họ, là một cánh cửa trên trần nhà.
Nó không giống như tưởng tượng của hắn. Trong cơn lo sợ, hắn đã dựng lên hình ảnh của nó trong đầu mình, một vật vĩ đại bằng kim loại với ô khóa nặng nề, u ám. Nó hẳn sẽ sơn đen và trông thật xấu xa và hắn sẽ không bao giờ gom góp nổi dũng khí để bước qua nó mất.
Cánh cửa này không giống vậy.
Nó chỉ là một cánh cửa mà thôi.
Gắn trên trần nhà, phải, nhưng vẫn chỉ là một cánh cửa.
Nó làm bằng gỗ, khung cửa viền quanh sơn trắng. Nắm đấm cửa bằng pha lê trong suốt, có trụ xanh lục mang hình lá trà. Những tiếng thì thầm theo hắn lên cầu thang đã biến mất.
Cảm giác lôi kéo không ngừng nghỉ nơi lưỡi câu trên ngực hắn đã lắng xuống. Bầu không khí im lặng đã phủ xuống quanh họ trong nhà, như thể chính ngôi nhà đang nín thở.
Hắn nói, “Trông không hoành tráng mấy, nhỉ?”
“Phải,” Nelson nói. “Trông thì không giống, nhưng vẻ bề ngoài đều là dối lừa mà.”
“Tại sao cửa lại ở trên trần? Đó là một nơi kỳ quặc để đặt cửa. Lúc nào nó cũng ở đó à?” Bản thân ngôi nhà này đã kỳ lạ rồi, nên hắn sẽ không ngạc nhiên nếu đây là một phần của kiến trúc nguyên gốc, dù hắn không biết cửa này có thể dẫn đi đâu ngoài lên mái nhà.
“Đó là chỗ tay Quản Lý lắp cửa khi ông ta chọn Hugo làm Người lái đò,” Nelson nói. “Hugo mở cửa ra, và chúng ta sẽ bay đến nơi nào đó tiếp theo.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi mở cửa?” Wallace hỏi, vẫn nhìn chằm chằm cánh cửa.
Giọng Nelson đầy cảnh giác. “Thôi. Để ta gọi Hugo tới đây.”
Hắn rời mắt khỏi thứ kia, ngoái nhìn qua vai. Nelson đang lo lắng, lông mày chau lại, nhưng giờ Wallace chẳng làm được gì để ông cụ bớt lo. Hắn hầu như không nhúc nhích nổi. “Cụ có cảm thấy không?”
Hắn không cần phải giải thích. Nelson biết ý hắn muốn nói gì. “Không phải lúc nào cũng thấy, và không mạnh mẽ như ngày xưa. Cảm giác ấy phai nhạt dần theo thời gian. Nó vẫn luôn quanh quẩn, ở sâu trong đầu ta, nhưng ta đã học cách lờ nó đi.”
Wallace muốn chạm lên cánh cửa. Hắn muốn khép ngón tay quanh nắm đấm, muốn cảm nhận lá trà kia ấn lên lòng bàn tay mình. Hắn có thể thấy khung cảnh ấy rõ mồn một trong đầu mình: Hắn sẽ xoay lá trà tới khi lẫy cửa vào chỗ, và rồi...
Rồi sao nữa?
Hắn không biết, và không biết là cảm giác đáng sợ nhất trần đời.
Hắn lùi lại, va vào Nelson, ông cụ túm lấy cánh tay hắn.
“Cậu ổn chứ?”
“Tôi không biết nữa,” Wallace nói. Hắn nuốt khan trong cổ họng đang nghẹn lại. “Tôi nghĩ bây giờ tôi muốn xuống tầng.”
Nelson dẫn hắn rời đi.
Những khung cửa sổ tối om khi họ đi xuống cầu thang.
Bên ngoài cửa sổ, vẫn là khu rừng như mọi khi.
Trước khi họ xuống đến chiếu nghỉ tầng ba, hắn nhìn ra ngoài khung cửa cuối cùng, xuống con đường đất dài dặc dẫn đến tiệm trà và kỳ lạ làm sao, một ký ức lướt qua trong đầu hắn, ký ức mà hắn không cảm thấy như của mình. Về lúc ở bên ngoài, ngửa mặt về phía ánh dương ấm áp vô cùng.
Ký ức kia phai phôi, màn đêm trở lại, và hắn thấy có người đứng trên đường đất.
Là Cameron, đang nhìn thẳng vào Wallace. Sinh vật này vươn hai cánh tay tới, lòng bàn tay ngửa lên, những ngón tay mở ra rồi khép lại, mở ra rồi khép lại.
“Có chuyện gì thế?” Nelson hỏi hắn.
“Không có gì,” Wallace nói, quay đi khỏi cửa sổ. “Không có gì đâu.”