Chương 13
Vào buổi sáng ngày thứ hai mươi hai của Wallace ở Bến Đò Charon, một tập hồ sơ xuất hiện trên quầy, cạnh máy tính tiền. Tiệm trà chưa mở cửa, và Mei và Hugo đang ở trong bếp, chuẩn bị để bắt đầu ngày mới.
Nelson đang ngồi trong ghế trước lò sưởi, Apollo nằm cạnh chân ông cụ.
Wallace đi lại trong tiệm, hạ ghế xuống khỏi mặt bàn và đẩy chúng vào dưới gầm. Việc này mỗi lúc một dễ dàng hơn với hắn, và là việc tối thiểu hắn có thể thực hiện để giúp đỡ mọi người. Hắn chưa từng nghĩ mình sẽ tìm được niềm vui trong công việc chân tay như thế này, nhưng đây là một khoảng thời gian thật lạ lùng.
Hắn đang đắm chìm trong suy tư trong khi hạ ghế xuống, thì trong tiệm dường như có chút biến chuyển. Không khí trở nên đặc quánh và trì trệ. Chiếc đồng hồ treo trên tường, vốn đang tích tắc từng giây, bỗng vấp váp. Hắn ngẩng lên và thấy kim phút chạy tới một, hai, ba lần rồi chạy ngược lại. Nó giật tiến giật lùi trong khi lông trên cánh tay Wallace dựng đứng lên.
“Chuyện quái quỷ gì vậy?” hắn lầm bầm. “Này Nelson, cụ có thấy—”
Hắn bị cắt ngang khi tập hồ sơ hiện ra cạnh máy tính tiền cùng tiếng bụp đầy hài hước. Những cuộn khói lững lờ bốc lên xung quanh khi nó hạ cánh xuống mặt quầy. Tập hồ sơ mỏng tang, như thể chỉ chứa vài tờ giấy bên trong.
“Ôi trời,” Nelson nói. “Lại nữa rồi.”
Trước khi Wallace kịp tìm hiểu xem lời ấy có nghĩa gì, Hugo và Mei đã đẩy cửa đi ra, Apollo nối gót. Hugo cau mày khi ngước lên nhìn đồng hồ, hai kim đã chết đứng.
“Chết tiệt,” Mei nói. “Dĩ nhiên nó sẽ đến ngay lúc tôi làm bánh muffin rồi.” Cô nàng vừa càu nhàu vừa đi ra cầu thang, cởi tạp dề rồi lột nó qua đầu. “Đừng để bánh cháy nhé,” cô gọi vọng xuống. “Em sẽ buồn lắm đấy.”
“Dĩ nhiên rồi,” Hugo nói, nhìn xuống tập hồ sơ. Anh chạm lên nó, lướt dọc các mép bằng một ngón tay.
“Cái gì thế?” Wallace hỏi, đi tới quầy.
“Chúng ta sẽ có khách mới,” Nelson nói, đứng dậy khỏi ghế. Ông cụ tập tễnh tới chỗ Hugo và Wallace, gậy gõ lạch cạch xuống sàn. “Gấp đôi ma cỏ à. Lâu rồi chưa gặp tình huống này.”
“Một vị khách khác ư?” Wallace hỏi.
“Người như chúng ta,” Nelson trả lời. Ông cụ dừng lại cạnh cháu mình, ngó xuống tập hồ sơ với vẻ hứng thú chẳng thèm che giấu.
“Đúng vậy,” Hugo nói, chạm lên tập hồ sơ một cách gần như sùng kính. “Mei sẽ đón và dẫn họ về đây.”
Wallace không rõ mình cảm thấy thế nào về sự kiện này. Hắn đã quen với việc có được toàn bộ quan tâm của Hugo, và tưởng tượng ra một con ma khác cướp đi điều ấy khiến lưỡi câu trên ngực hắn xoắn vặn một cách kỳ quặc. Hắn tự nhủ rằng mình thật ngớ ngẩn. Hugo có việc phải làm. Trước Wallace đã có nhiều hồn ma tới đây, và sau khi hắn đi rồi thậm chí sẽ còn nhiều hơn nữa. Sự quan tâm kia chỉ là nhất thời. Toàn bộ việc này chỉ là nhất thời mà thôi.
Suy nghĩ ấy gây nhức nhối hơn hắn tưởng.
“Cái này là để làm gì?” hắn hỏi, cau có xoa ngực. “Tập hồ sơ kia ấy.”
Hugo ngẩng lên nhìn hắn. “Ổn chứ?”
“Tôi ổn,” Wallace nói, buông tay.
Hugo nhìn hắn lâu hơn mức cần thiết rồi gật đầu. “Thứ này nói cho tôi biết người đang đến là ai. Nó không đầy đủ, dĩ nhiên là vậy. Một cuộc đời không thể bị liệt kê thành các gạch đầu dòng mà bao quát đầy đủ được. Cứ cho rằng đây là một kiểu đề cương đi.”
“Đề cương à,” Wallace lặp lại. “Anh đang bảo rằng mỗi khi có người chết, anh sẽ nhận được đề cương về cuộc đời người đó à.”
“Thôi rồi,” Nelson nói, nhìn qua lại giữa hai người họ. Apollo rên lên, tai ép sát đầu.
“Phải,” Hugo nói. “Đó là điều tôi vừa kể với anh đó.”
Wallace không thể tin nổi. “Và lúc trước anh không hề nghĩ đến chuyện nói cho tôi biết việc này à?”
“Tại sao chứ?” Hugo hỏi. “Tôi cũng đâu thể cho anh xem những gì bên trong hồ sơ được. Thứ này không dành cho—”
“Tôi không quan tâm về cái thứ kia,” Wallace gắt lên, dù đó không phải là toàn bộ sự thực. “Anh có một cái đề cương về tôi phải không?”
Hugo nhún vai. Cử chỉ ấy thật khiến người ta điên tiết. “Tôi đã từng.”
“Trong đó viết gì? Nó ở đâu rồi? Tôi muốn đọc.” Và đó cũng không hẳn là sự thực. Nhỡ đâu đề cương đó rất tệ thì sao? Nhỡ đâu ở đầu trang giấy, viết bằng thứ chữ in đậm (và là kiểu chữ Comic Sans nữa!) là một câu tóm tắt không đẹp đẽ chút nào về cuộc đời của Wallace Price? CHẮNG LÀM ĐƯỢC GÌ MẤY, NHƯNG ÂU PHỤC CỦA HẮN ĐẸP! hoặc, tệ hơn là, THẬT RA MÀ NÓI THÌ, KHÔNG ĐỈNH ĐẾN VẬY ĐÂU!
“Nó biến mất rồi,” Hugo nói, lại cúi đầu nhìn tập hồ sơ trên bàn. “Một khi tôi đọc xong, nó sẽ lại biến mất.”
Wallace giận sôi gan. “Ồ, thế à, phải không? Cứ thế mà biến về nơi sản xuất à.”
“Đúng vậy.”
“Và anh không thấy có vấn đề gì với việc ấy à.”
“Không?” Hugo nói. Hoặc hỏi. Wallace không rõ nữa.
Wallace tức mình vung hai tay lên. “Ai gửi thứ ấy tới? Nó tới từ đâu? Ai viết ra nó? Họ có khách quan không, hay trong đề cương đó chỉ toàn những điều ngớ ngẩn phiến diện để bôi nhọ người ta? Đó là tội phỉ báng đấy. Có những điều luật để xét xử tội ấy. Tôi yêu cầu anh nói cho tôi biết những điều viết về tôi trong đó.”
“Úi,” Nelson nói. “Ta đã quá già và quá chết để hóng chuyện này.” Ông cụ lệt xệt rời khỏi quầy, đi về phía cái ghế. “Khi nào khách mới đến thì báo ta biết nhé. Ta sẽ mặc bộ lễ phục Chủ Nhật đẹp nhất vào.”
Wallace lườm theo lưng ông cụ. “Khi tôi đến đây cụ đang mặc đồ ngủ đấy.”
“Khả năng quan sát của cậu thật có một không hai. Tốt cho cậu thôi.”
Wallace tính chuyện ném ghế vào ông cụ. Cuối cùng, hắn quyết định không làm vậy. Hắn không muốn việc ấy bị ghi vào hồ sơ.
“Anh nghĩ nhiều quá rồi,” Hugo nói, nhẹ nhàng quở trách hắn. “Đây không phải thứ xấu xa gì đâu. Không có danh sách điểm cộng điểm trừ nào cả. Không có tóm tắt mọi hành động một người đã làm, dù tốt hay xấu đâu. Chỉ là... vài ghi chú mà thôi.”
Wallace nghiến răng ken két. “Ghi chú của tôi viết gì?”
Hugo nheo mắt nhìn anh. “Có quan trọng không?”
“Có.”
“Tại sao?”
“Vì nếu có ai viết cái gì đó về tôi, tôi muốn được biết.”
Hugo cười toe toét. “Khi còn sống anh từng tìm đọc bình luận về văn phòng mình phải không?”
Đúng chín giờ sáng thứ Ba hàng tuần. “Không,” Wallace nói. Rồi, “Trừ khi điều này được ghi lại trong hồ sơ của tôi. Và nếu có ghi, thì tôi có lý do vô cùng chính đáng cho việc ấy. Tôi khiến nhiều người tức tối, và ai cũng biết nếu muốn phàn nàn về thứ gì đó, họ sẽ viết bình luận trên mạng, cả khi họ là kẻ dối trá không biết mình đang nói về cái gì.”
“Nghe như có uẩn khúc gì ở đây ấy nhỉ.”
Wallace cau có nhìn anh.
“Hoặc không,” Hugo nói. Anh đăm chiêu xoa cằm. “Anh có chắc là mình muốn biết không?”
Wallace lưỡng lự. “Nó... tệ lắm à? Kiểu tệ thật sự à? Dối trá! Toàn là dối trá! Tôi hầu như lúc nào cũng là một con người tài giỏi.” Hắn thầm thấy rợn cả người. Ngày xưa, hắn có thể đã đấu tranh hết mình để nâng giá bản thân, nhưng giờ, hắn không làm được việc ấy. Cảm giác cứ... chà. Lố bịch có lẽ là từ thích hợp nhất để mô tả việc này. Lố bịch và vô ích.
Nelson cười khẩy từ chỗ cái ghế. “Cậu mơ mộng viển vông thật đấy.”
Wallace lờ ông cụ đi. “Thôi khỏi. Tôi không muốn biết đâu. Anh cứ việc đứng đó mà tỏ ra kênh kiệu như mọi khi đi.”
“Anh làm tôi tổn thương đấy,” Hugo nói.
Wallace khịt mũi. “Tôi thật sự không nghĩ vậy. Tôi còn chẳng quan tâm. Xem này. Xem tôi không thèm quan tâm tới mức nào này.” Và cứ thế, Wallace quay gót, trở lại với công việc đang làm. Hắn hạ được thêm hai cái ghế xuống trước khi bỏ cuộc. Hugo trông thật khoái chí khi hắn phăm phăm trở lại quầy. “Im đi,” Wallace lầm bầm. “Cứ nói cho tôi biết đi.”
“Anh trụ được cả một phút,” Hugo nói. “Lâu hơn tôi tưởng. Tôi thấy ấn tượng đấy.”
“Anh đang vui vẻ quá mức rồi đấy.”
Hugo nhún vai. “Cũng phải tìm vui ở đâu đó chứ, phải không, ông ơi?”
“Chính xác,” Nelson nói trong khi Wallace đảo mắt.
Hugo nhìn Wallace. “Nhưng hồ sơ không như anh nghĩ đầu. Tôi không lừa anh khi nói rằng thứ này không phải là để bôi nhọ chống lại anh. Nó không phải là về mọi hành động anh đã làm, dù xấu hay tốt. Hãy tưởng tượng rắng nó giống... một bản tóm tắt hơn.”
Điều ấy chắc chắn không khiến hắn cảm thấy khá hơn chút nào. “Viết bởi ai? Và đừng nói là mấy thứ vớ vẩn cao siêu như vũ trụ hay cái gì đó nhé.”
“Là Quản Lý,” Hugo nói.
Lời này khiến Wallace lập tức khựng lại. “Quản Lý à. Thực thể mà mấy người đều sợ, kẻ làm ra những quyết định mang tầm cỡ vũ trụ à.”
“Tôi không sợ—”
“Làm sao ông ta biết về tôi?” Wallace hỏi. “Ông ta theo dõi tôi à?” Hắn vừa nháo nhác nhìn xung quanh vừa hạ giọng. “Ông ta có đang lắng nghe mọi lời tôi nói ngay bây giờ không?”
“Có thể lắm,” Nelson nói. “Tên đó thích nhìn trộm vậy đấy.”
Hugo thở dài. “Ông ơi.”
“Sao nào? Cậu chàng có quyền biết rằng một thực thể cao siêu hơn đang nhìn cậu ta đi vệ sinh hay đánh rơi đồ ăn xuống sàn mà còn nhặt lên ăn lại chứ.” Nelson ló đầu qua vành ghế. “Cậu có ngoáy mũi không? Ông ta thấy cả đấy. Chẳng có gì sai cả, ta nghĩ vậy. Con người kinh tởm thế đó. Điều ấy thuộc về bản chất của chúng ta rồi.”
“Ông ta không thấy đâu,” Hugo lớn tiếng. “Chuyện này không phải như vậy đâu.”
“Được thôi,” Wallace. “Vậy thì tôi sẽ tự mình kiểm chứng vậy.” Hắn ngạc nhiên khi Hugo không cố ngăn hắn nhặt tập hồ sơ lên. Ngạc nhiên, đấy là cho tới khi hắn khám phá ra rằng mình không thể cầm nó lên được. Tay hắn xuyên qua tập hồ sơ và chạm xuống mặt quầy ở dưới. Hắn rụt tay về rồi thử lại lần nữa. Và lần nữa. Và một lần nữa.
“Khi nào thử xong thì bảo tôi nhé,” Hugo nói. “Đặc biệt là vì tôi là người duy nhất có thể nhặt nó lên xem có gì bên trong.”
“Dĩ nhiên là vậy rồi,” Wallace lầm bầm. Hắn rũ người, áp tay lên mặt quầy.
Hugo lại đưa tay về phía hắn. Việc này xảy ra mỗi lúc một thường xuyên hơn, như thể anh cứ quên mất rằng mình và Wallace thật ra không thể chạm được vào nhau. Anh khựng lại, tay đặt hờ trên tay Wallace. Hắn tự hỏi xúc cảm da thịt anh mang lại sẽ thế nào. Hắn tưởng tượng rằng làn da ấy ấm áp và mềm mại. Nhưng hắn sẽ không bao giờ biết được. Thay vào đó, Hugo đặt tay vào giữa hai tay Wallace, nhịp nhịp ngón trỏ. Ngón tay của Wallace giật giật. Tay họ chỉ cách nhau có vài phân. “Không sao đâu,” Hugo nói. “Tôi hứa đấy. Không có gì tiêu cực cả. Hồ sơ của anh ghi rằng anh rất kiên quyết. Chăm chỉ. Rằng anh không chấp nhận người ta nói không với mình.”
Một tháng trước, những lời này sẽ khiến Wallace hài lòng.
Giờ thì hắn không chắc nữa.
“Còn nhiều điều về tôi hơn thế mà,” hắn đờ đẫn nói.
“Thật vui khi nghe anh nói vậy,” Hugo nói. “Tôi cũng nghĩ vậy đấy.” Anh nhặt tập hồ sơ lên khỏi quầy, lật mở nó. Wallace thử vô tình nghiêng tới, nhưng Hugo cao hơn hắn nhiều, nên rốt cuộc Wallace ngã xuyên qua quầy. Hugo nhìn hắn qua đầu tập giấy. Ngay cả mắt anh cũng đang hấp háy cười.
“Tôi ghét anh vô cùng,” Wallace nói, lòng có chút hờn dỗi.
“Tôi không tin đâu.”
“Anh nên tin đi.”
“Tôi sẽ ghi nhớ lời khuyên đó.”
“Trời đất thánh thần ơi,” Nelson làu bàu. “Đủ thứ ngu ngục...” Những lời tiếp theo của ông cụ nhỏ dần thành những tiếng lẩm bẩm một mình.
Mei đi xuống cầu thang, chỉn chu khoác lên mình cùng một bộ âu phục cô nàng mặc đi dự tang lễ của Wallace. Cô nàng vén tóc khỏi mặt. “Em nghiêm túc về việc mấy cái muffin đấy, trời ạ. Nếu em về mà thấy chúng cháy đen, anh sẽ phải trả giá cực đắt đấy. Giờ thì chúng ta sắp đón ai nhỉ?” Cô giựt tập hồ sơ khỏi tay Hugo và bắt đầu đọc, mắt lia qua lia lại. “Hờ. Ồ. Ồ. Chà. Em hiểu rôi. Thật thú vị.” Chân mày cô nhíu lại. “Ca này... sẽ không dễ dàng đâu.”
Wallace lườm Hugo. “Anh nói mình là người duy nhất chạm được vào thứ này kia mà.”
“Thế à?” Hugo hỏi lại. “Xin lỗi nhé. Mei cũng làm được.”
Cô nàng cười toe toét với Wallace. “Đọc qua của anh rồi. Trong đấy nhiều cái hay ho lắm. Tôi có một câu hỏi: hồi năm 2003 tại sao anh lại nghĩ mặc quần thụng vải dù là ngầu vậy?”
“Mấy người đều tồi tệ như nhau,” Wallace trân trọng tuyên bố. “Và tôi không muốn dính dáng gì đến mấy người nữa.” Nói rồi, hắn trở lại với việc hạ ghế, từ chối thậm chí là liếc mắt về phía hai con người kia.
“Ôi không,” Mei nói. “Xin đừng. Đừng làm vậy mà.” Cô dúi tập hồ sơ lại vào tay Hugo. “Được rồi. Đệ nhị, đi thôi nào. Em sẽ về sớm hết mức có thể.”
Wallace quay ra định nói với cô rằng số người có mặt ở đám tang không phải là thước đo thiện lương của một con người, nhưng Mei đã đi rồi.
Đồng hồ trên tường trở lại nhịp độ thường ngày, tích tắc từng giây.
“Tôi sẽ không bao giờ hiểu được toàn bộ việc này là thế nào mất,” Wallace nói.
Hugo chỉ đáp lời bằng một tràng cười khi anh quay người bước qua cửa bếp.
✽Tiệm trà bận rộn cả ngày. Vì thiếu Mei, Hugo không ngừng di chuyển, gần như không có thời gian để ý đến Wallace, chứ đừng nói đến việc trả lời thêm những câu hỏi về ghi chú trong hồ sơ của hắn. Việc này khiến hắn khó chịu, dù nếu bị dồn hỏi, hẳn cũng sẽ không giải thích được tại sao.
Chính Nelson là người đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, việc này khiến Wallace thấy thật muộn phiền. Wallace đang chìm trong suy tư, ngồi trên sàn cạnh ghế của ông cụ. “Cháu ta sẽ không bỏ quên cậu chỉ vì có người mới tới đây đâu.”
Wallace kiên quyết không nhìn ông cụ. Hắn chăm chú nhìn lò sưởi, nhìn ngọn lửa lách tách nổ. “Tôi không hề lo lắng việc ấy nhé.”
“Phải rồi,” Nelson dài giọng. “Dĩ nhiên là không rồi. Lo thế chỉ là vô nghĩa thôi.”
“Chính xác,” Wallace nói.
Họ im lặng ngồi thêm ít nhất mười phút nữa. Rồi, “Nhưng nếu đó là điều cậu đang canh cánh, thì đừng lo làm gì. Hugo thông minh lắm. Rất tập trung. Nó biết việc kia quan trọng thế nào mà. Ít ra thì, ta nghĩ là nó có biết.”
Wallace ngẩng lên nhìn ông cụ. Nelson đang mỉm cười, nhưng vì chuyện gì, Wallace không biết nữa. “Việc kia là người mới sắp đến ấy à?”
“Cũng đúng,” Nelson nói. “Cả việc ấy nữa.”
“Cụ đang nói về việc gì vậy?”
Nelson xua tay. “Chỉ đang lảm nhảm thôi, ta nghĩ vậy.”
Ông cụ lưỡng lự. “Cậu yêu vợ mình chứ?”
Wallace chớp mắt. “Sao cơ?”
“Vợ cậu ấy.”
Wallace lại quay ra nhìn đống lửa. “Có chứ. Nhưng không đủ.”
“Cậu có nỗ lực hết mình chưa?”
Hắn muốn nói có, rằng hắn đã làm mọi thứ có thể làm để đảm bảo rằng Naomi biết cô là người quan trọng nhất trong toàn bộ thế giới của hắn. “Chưa. Tôi đã không cố gắng.”
“Cậu nghĩ tại sao lại như vậy?” Trong giọng ông cụ không có khiển trách, không có phán xét. Wallace thấy biết ơn ông đến nực cười.
“Tôi không biết,” Wallace nói, nghịch một sợi chỉ thừa trên quần bò của mình. Hắn chưa từng mặc thứ đồ gì trông gần giống âu phục kể từ khi thay được quần áo. Việc này khiến hắn vui vẻ hơn nhiều, như thể hắn đã rũ bỏ lớp vỏ ngoài mà mình chưa từng nhận ra là đang khoác lên người. “Cũng vướng bận nhiều chuyện.”
“Ta yêu vợ mình,” Nelson nói, và bất kỳ lời nào khác Wallace định thốt lên đã tắt lịm trên đầu lưỡi hắn. “Bà ấy... mạnh mẽ lắm. Bà chằn đấy. Khắp thiên hạ này chẳng có ai giống vợ ta, và vì lý do nào đó, bà ấy đã chọn ta. Bà ấy yêu ta.” Ông cụ mỉm cười, dù Wallace nghĩ là với chính ông hơn là với hắn. “Bà ấy có cái thói quen khiến ta điên cả đầu. Vợ ta đi làm về, và điều đầu tiên bà ấy làm là cởi giày ra, để ngay ở cửa. Tiếp theo là tất, cứ vứt bừa trên sàn vậy. Một dãy quần áo la liệt nằm đó, đợi ta nhặt lên. Ta hỏi bà ấy tại sao mình cứ không chịu bỏ quần áo vào giỏ đồ giặt như một người bình thường. Cậu biết vợ ta nói gì không?”
“Bà ấy nói gì?” Wallace hỏi.
“Bà ấy nói rằng đời còn nhiều thứ để lo hơn là bít tất bẩn.”
Wallace nhìn ông cụ chằm chằm. “Nói vậy... chẳng có nghĩa gì cả.”
Nụ cười của Nelson càng tươi hơn. “Đúng không? Nhưng nó hoàn toàn có nghĩa với bà ấy.” Môi ông cụ run run. “Một ngày nọ ta về nhà. Ta về muộn. Ta mở cửa, và ngay sau cửa không có đôi giày nào. Trên sàn không có tất. Không có đống quần áo nào. Ta tưởng vợ mình đã tự dọn dẹp được một lần. Ta đã thấy... nhẹ cả người? Ta đã mệt và không muốn dọn đồ của bà ấy nữa. Ta gọi bà ấy. Bà ấy không trả lời. Ta đi tìm từng phòng trong nhà, nhưng bà ấy không có ở đó. Về muộn rồi, ta tự nhủ. Cũng có khả năng mà. Và rồi điện thoại reo lên. Đó là ngày mà ta biết rằng vợ mình đã đột ngột qua đời. Và chuyện ấy thật lạ lùng, thật đấy. Vì ngay cả khi họ nói với ta rằng vợ ta đi rồi, rằng việc đấy đã xảy ra nhanh chóng và bà ấy đã không đau đớn gì, tất cả những gì ta có thể nghĩ đến là mình sẽ đánh đổi mọi thứ để giày của vợ lại bỏ sau cửa. Tất lại vứt trên sàn. Quần áo lại rải một đường tới phòng ngủ lần nữa.”
“Tôi rất tiếc,” Wallace khẽ nói.
“Cậu không cần phải tiếc,” Nelson nói. “Chúng ta đã sống một đời vui vẻ. Vợ ta yêu ta, và ta đảm bảo rằng mỗi ngày bà ấy đều biết rằng ta yêu bà ấy, ngay cả khi ta phải chạy theo dọn đẹp cho bà ấy. Đó là việc nên làm.”
“Cụ có nhớ bà ấy không?” Wallace hỏi mà không nghĩ. Hắn nhăn mặt. “Chết tiệt. Câu này nghe không đúng ý tôi chút nào. Dĩ nhiên là cụ nhớ vợ mình rồi.”
“Ta có nhớ,” Nelson đồng tình. “Từng sợi cơ thớ thịt đều nhớ.”
“Nhưng cụ vẫn ở đây.”
“Đúng vậy,” Nelson nói. “Và ta biết rằng khi mình sẵn sàng rời nơi đây, bà ấy sẽ đợi ta. Nhưng ta đã hứa sẽ trông chừng Hugo tới khi nào còn có thể. Bà ấy sẽ hiểu thôi. Vài năm thì có là gì so với mãi mãi về sau.”
“Cụ cần gì?” Wallace hỏi. “Để siêu thoát ấy.” Hắn nhớ lại những gì Nelson đã nói với mình khi họ đứng dưới cánh cửa kia. “Để về trời ấy.”
“À,” Nelson nói. “Đó là trọng điểm đây, phải không nào? Ta cần gì ư?” Ông cụ nghiêng người tới, gõ nhẹ cây gậy lên chân Wallace. “Ta cần biết cháu ta được chăm sóc chu đáo. Rằng cuộc đời nó tràn ngập niềm vui cả khi đối mặt với cái chết. Vấn đề không phải là nó cần gì, không hẳn là vậy, vì nói vậy là ám chỉ rằng nó đang thiếu một thứ gì đó. Vấn đề là nó muốn gì. Khác nhau đấy. Ta nghĩ đôi khi chúng ta quên béng việc ấy đi.”
“Anh ấy muốn gì?” Wallace hỏi.
Thay vì trả lời, Nelson nói. “Dạo này cháu ta cười nhiều hơn. Cậu có biết không?”
“Thật ư?” Hắn tưởng Hugo là kiểu người luôn luôn tươi cười.
“Ta tự hỏi sao lại thế nhỉ,” Nelson nói. Ông cụ ngồi thẳng lại. “Ta nóng lòng muốn biết nguyên do ghê.”
Wallace liếc nhìn Hugo sau quầy. Anh hẳn đã cảm thấy hắn đang nhìn mình, vì anh quay qua nhìn hắn. Nụ cười của anh càng nở rộ.
Wallace thì thầm. “Thật dễ để bản thân đắm chìm và sa ngã.”
“Dễ thật,” Nelson tán thành. “Nhưng chính việc ta làm để kéo bản thân ra khỏi vũng lầy mới là quan trọng.”
✽Kim phút của đồng hồ bắt đầu vấp váp nửa tiếng sau khi Bến Đò Charon đóng cửa buổi tối. Hugo đặt tấm biển quen thuộc sau cửa sổ: ĐÓNG CỬA ĐỂ PHỤC VỤ SỰ KIỆN RIÊNG TƯ. Anh nói với Wallace rằng thứ này chỉ để phòng hờ mà thôi.
“Chúng ta sẽ không ở đây,” Hugo nói. “Không thực sự là vậy. Khi đồng hồ bắt đầu chạy chậm lại, cả thế giới sẽ tiếp tục sống quanh ta. Nếu có ai thử tới tiệm trà trong những lúc thế này, họ sẽ chỉ thấy một ngôi nhà tối đen và tấm biển treo ở cửa sổ.”
Wallace theo anh vào bếp. Da hắn đang ngứa râm ran, và lưỡi câu trên ngực hắn khiến hắn khó chịu. “Đã từng có ai cố bước vào tiệm chưa?”
Hugo lắc đầu. “Theo như tôi biết thì không. Đó... không hẳn là phép thuật, tôi không nghĩ vậy. Ngược lại nó giống ảo ảnh hơn.”
“Thân là một Người lái đò, nhưng anh không biết rất nhiều chuyện đấy.”
Hugo nhoẻn miệng cười với hắn. “Tuyệt đấy chứ? Tôi không muốn biết tất cả mọi thứ đâu. Sẽ chẳng còn lại bí ẩn nào nữa. Như thế thì có nghĩa lý gì chứ?”
“Nhưng anh sẽ biết mình đang mong đợi những gì.” Hắn nhận ra lời này nghe có vẻ thế nào ngay khi dứt miệng. “Đó là lý do tại sao chúng ta từ bỏ mong đợi.”
“Chính xác,” Hugo nói, như thể điều đó hoàn toàn hợp lý. Wallace đã dần học được rằng cứ thuận theo mấy người này thì dễ cho mình hơn. Như vậy sẽ bảo toàn được gần như nguyên vẹn lý trí của hắn. Hugo tới chỗ tủ bếp, đứng trước tủ và cau mày nhìn đồ xếp bên trong. Wallace ngó qua vai anh. Thêm nhiều hũ thủy tinh xếp đầy trên kệ, mỗi hũ đựng một loại trà khác nhau. Không như những hũ trà sau quầy thu ngân ở đằng trước, những hũ này không được dán nhãn. Hầu hết trà trong hũ đều ở dạng bột.
“Matcha à?” Hugo lẩm bẩm một mình. “Không. Không đúng. Trà yaupon? Không. Cũng không đúng, nhưng mình nghĩ là gần đúng rồi.”
“Anh đang làm gì vậy?”
“Cố tìm xem loại trà nào là hợp nhất với vị khách kia,” Hugo nói.
“Anh cũng chọn trà thế này cho tôi à?”
Anh vừa gật đầu vừa chỉ vào hũ bột sẫm màu ở kệ trên cùng. “Của anh dễ hơn. Dễ hơn gần như là tất cả những người tôi từng tiếp trước kia.”
“Uầy,” Wallace nói. “Lần đầu tiên có người nói vậy về tôi đấy. Tôi không biết mình cảm thấy thế nào về việc ấy nữa.”
Hugo giật mình đến bật cười. “Nói vậy không phải— ôi, anh biết ý tôi là gì mà.”
“Là anh nói đấy chứ, đâu phải tôi.”
“Đây là cả một nghệ thuật,” Hugo nói. “Hoặc ít ra tôi tự nhủ là vậy. Chọn ra một vị trà hoàn hảo cho người khác. Không phải lúc nào tôi cũng chọn đúng, nhưng tôi đang dần giỏi hơn rồi.” Anh vươn tay về phía một hũ trà, chạm lên lớp thủy tinh rồi thu tay về. “Đây cũng không phải. Cái gì mới được— à. Thật à? Vị này... kén người lắm đây.” Anh lấy một hũ trà xuống khỏi kệ, bên trong đầy ắp những phiến lá quăn queo, đen sì. “Không phải cây tôi trồng đâu. Tôi nghĩ mình không trồng nổi thứ này ở đây. Nhập về đấy.”
“Loại nào đấy?” Wallace hỏi, nhìn cái hũ. Lá trà trông như đã hỏng.
“Trà khổ đinh,” Hugo nói, xoay qua quầy đối diện để chuẩn bị lá trà. “Đây là một loại trà thảo mộc của Trung Quốc. Tên nó dịch nguyên văn ra là cây đinh đắng. Nó thường được làm từ một loại cây sơn ta và ô rô. Không phải ai cũng thích vị trà này. Nó rất đắng, dù được cho là có tác dụng chữa bệnh. Nó sẽ giúp thanh lọc thị giác và não bộ. Tiêu độc.”
“Và đây là thứ anh sẽ mời họ uống?” Wallace hỏi, nhìn Hugo lôi một lá trà xoắn vặn ra khỏi hũ. Mùi cây cỏ rất nồng, khiến Wallace phải hắt xì.
“Tôi nghĩ vậy,” Hugo nói. “Thật lạ. Tôi chưa từng tiếp người nào dùng loại trà này trước đây.” Anh nhìn lá trà chằm chằm rồi lắc đầu. “Chắc không có việc gì đâu. Xem này.”
Wallace đứng cạnh anh trong khi Hugo rót nước nóng vào cùng một bộ trà cụ anh đã dùng vào đêm đầu tiên Mei dẫn hắn tới. Hơi nước cuồn cuộn bốc lên khi anh đặt ấm trà xuống. Anh nhón hai ngón tay vừa giữ lá trà vừa nhẹ nhàng nhúng nó vào nước. Khi đã chìm hẳn trong nước, lá trà bung ra như một đóa hoa nở rộ. Nước bắt đầu sẫm lại, mang một tông nâu kỳ lạ cả khi lá phai thành một màu xanh xỉn.
“Anh ngửi thấy mùi gì?” Hugo hỏi.
Wallace nghiêng người tới, hít làn hơi kia vào. Nó lấp đầy khoang mũi hắn, và hắn vừa chun mũi vừa lùi lại. “Mùi cỏ?”
Hugo gật đầu, trông rõ là hài lòng. “Chính xác. Ẩn sau vị đắng, trà có hương thảo mộng với hậu vị như mật ong quẩn quanh đầu lưỡi. Tuy vậy, anh phải vượt qua được vị đắng để khám phá vị ngọt ấy.”
Wallace thở dài. “Lại là một lời ý tại ngôn ngoại.”
Hugo mỉm cười. “Hoặc chỉ là trà mà thôi. Không cần phải mang nghĩa gì khác khi trà đã phức tạp đến vậy rồi. Nhấp thử đi. Tôi nghĩ anh có thể sẽ ngạc nhiên đấy. Có lẽ cần hãm lâu hơn, nhưng thử chút là anh sẽ biết thôi.”
Hắn hồi tưởng lại câu châm ngôn treo trên tường tiệm trà. Hugo hẳn đang nghĩ đến điều tương tự, trong lúc đưa tách cho Wallace và nói, “Đây là tách thứ hai của anh.”
Là khách quý.
Wallace vừa nuốt khan vừa nhận tách trà từ tay Hugo. Hắn cũng để ý thấy rằng đây là khoảng cách gần sát đụng chạm nhất mà họ có thể đạt tới với người kia. Hắn cảm thấy ánh mắt Hugo đang đặt lên mình khi hai người cùng cầm lấy cái tách lâu hơn mức cần thiết. Cuối cùng, Hugo buông tay.
Nước trà vẫn trong vắt, dù màu nâu đã chuyển thành màu xanh lá gần giống với màu lá trà hơn. Hắn đưa tách lên môi và nhấp một ngụm.
Hắn nôn khan, nước trà trượt xuống họng hắn, nóng bỏng lan tỏa trong bụng. Thứ này đắng nghét, đúng vậy, rồi phần thảo mộc xộc tới và nước trà có vị như thể hắn vừa gặm hết nửa bãi cỏ. Hậu vị mật ong có xuất hiện, nhưng ngọt ngào đã chìm nghỉm dưới sự thật rằng Wallace hoàn toàn ghét bỏ thứ trà này. “Trời đất ạ,” hắn thốt lên, lau miệng khi Hugo nhận lại tách trà. “Thật kinh khủng. Ai mà tự nguyện uống thứ này kia chứ?”
Hắn nhìn Hugo đưa tách lên miệng. Hắn nhăn mặt khi yết hầu anh di chuyển. “Ừ,” anh nói, hạ tách xuống. “Tôi thích trà không có nghĩa là tôi thích tất cả mọi loại trà.” Anh chép chép miệng. “À. Vị mật ong đây rồi. Cũng gần đáng đấy?”
“Anh đã bao giờ chọn sai trà chưa?”
“Cho những người sống đến đây ư? Có rồi.”
“Nhưng không phải là cho người chết.”
“Không phải cho người chết,” Hugo công nhận.
“Thế thì... quả là phi thường. Quái đản, nhưng phi thường.”
“Đây có phải lại là một lời khen không nhỉ, anh Wallace?”
“Ờ, chắc vậy?” Wallace nói, bỗng dưng thấy bứt rứt. Hắn đang đứng sát Hugo hơn mình tưởng. Hắn vừa hắng giọng vừa lùi lại một bước. “Trời ạ, cái vị kia không chịu biến mất.”
Hugo cười khúc khích. “Nó cứ dính lấy lưỡi ta. Tôi thích trà của anh hơn nhiều.”
Điều lẽ ra không nên khiến Wallace hạnh phúc đến thế. “Đây có phải một lời khen không nhỉ, anh Hugo?”
“Phải đấy,” Hugo đơn giản thừa nhận.
Wallace bắt lấy hai chữ ấy và ôm trọn chúng vào lòng, vị đắng hắn nếm được không là gì so với ngọt ngào của hậu vị.
Hugo lấy thêm lá ra khỏi lọ, đặt chúng lên một cái đĩa nhỏ cạnh ấm và tách. “Đây. Trông thế nào?”
“Trông như anh vừa ra ngoài đường và nhặt thứ đầu tiên mình tìm được dưới đất lên vậy.”
“Tuyệt vời,” Hugo vui vẻ nói. “Vậy tức là chúng ta—”
Từ phía trước tiệm trà, đồng hồ ầm ĩ loạn nhịp rồi dừng hẳn, kim phút giật giật.
“Họ về rồi,” Hugo nói.
Wallace không rõ mình phải làm gì. “Tôi có nên cứ...” Hắn khua khoắng giải thích.
“Anh có thể ra ngoài tiệm với tôi nếu thích,” Hugo nói, bưng khay trà lên. “Dẫu vậy, tôi muốn anh để tôi tiếp cậu ta hoặc bất kỳ câu hỏi nào cậu ta đặt ra. Nếu cậu ấy nói chuyện với anh, anh có thể trả lời, những hãy trả lời một cách từ tốn và điềm đạm. Chúng ta không muốn người này kích động hơn mức có lẽ là vốn có.”
“Anh đang lo lắng,” Wallace nói. Hắn không biết làm sao mình lại có thể bỏ qua khóe mắt căng cứng của Hugo, và cái cách tay anh siết lấy khay trà. “Tại sao vậy?”
Hugo lưỡng lự. Rồi, “Cái chết không phải lúc nào cũng diễn ra chóng vánh. Tôi biết anh không nghĩ vậy, nhưng anh ăn may đấy. Không phải ai cũng được như anh. Đôi khi, cái chết diễn ra một cách bạo lực và đầy sửng sốt, và trải nghiệm ấy sẽ đeo bám người ta. Vài người sẽ tuyệt vọng, vài người thì điên cuồng, và vài người... vài người để khoảnh khắc ấy trở thành toàn bộ những gì mà họ biết tới. Chúng tôi tiếp nhận những người như vậy nhiều hơn anh tưởng đấy, tin hay không thì tùy.”
Hắn tin chứ. Hắn nghĩ mình biết Hugo đang ám chỉ điều gì, nhưng hắn không dám hỏi. Thế giới này có thể thật tươi đẹp— và nó hiện lên như vậy trên những bức tường trong tiệm trà cùng những kim tự tháp và lâu đài và thác nước trông như tuôn trào từ những đỉnh núi chót vót— nhưng nó cũng có thể tăm tối và nghiệt ngã.
Hugo nhìn về phía cửa bếp. “Họ đang theo đường đất tới đây. Anh có tin tôi không?”
“Có,” Wallace lập tức trả lời, và hắn phải kìm nén xung động muốn ngăn Hugo rời khỏi bếp. Hắn không biết thứ gì đang tới, nhưng hắn không ưa nổi những gì anh nói về nó.
“Tốt rồi,” Hugo nói. “Hãy quan sát. Lắng nghe. Trăm sự nhờ anh đấy, Wallace ạ.”
Anh bước qua cửa, để lại Wallace nhìn chằm chằm theo bóng lưng mình.