Chương 14
Wallace khựng lại ở ngưỡng cửa, cau mày. Đèn vẫn bật như mọi khi, nhưng trông ánh sáng có vẻ... yếu hơn, như thể bóng đèn đã bị đổi. Apollo rên rỉ, hai tai cụp xuống trong lúc Nelson xoa đầu nó trấn an. “Không sao đâu,” Ông cụ khẽ nói. “Sẽ ổn cả thôi.”
Hugo đã đặt khay trà lên một trong mấy bàn chân cao, đù đó không phải là cùng một chiếc bàn anh đã dùng khi Wallace tới đây. Wallace đi qua chỗ Nelson và Apollo, để Hugo đứng cạnh bàn, hai tay chắp sau lưng.
Giờ trông anh thật khác, cả khi chỉ đứng yên đó. Sự khác biệt ấy rất tinh tế, và nếu Wallace không theo dõi Hugo từ khi mới tới, hắn có lẽ sẽ không nhìn ra. Nhưng hắn đã quan sát anh, và đã lưu giữ từng thay đổi nhỏ nhặt. Chúng nằm trên bờ vai căng cứng của Hugo, trong cách anh cẩn thận giữ cho mặt mình vô cảm dù không hề thờ ơ. Wallace nhớ lại khi chính mình đến đây, tự hỏi khi ấy có phải Hugo cũng như thế này không.
Hắn rời mắt khỏi anh, nhìn quanh phòng trà, cố gắng tập trung vào thứ khác, bất kỳ điều gì làm hắn phân tâm. “Đèn đóm làm sao vậy cụ?” hắn hỏi Nelson. Hắn nhìn ra cửa. “Cụ tắt đèn đi à?”
Nelson nói. “Ca này sẽ máu lửa lắm đây.”
Wallace không thích nghe câu ấy chút nào. “Máu lửa ư?”
“Đa phần người ta đâu có muốn chết,” Nelson lầm bầm, ngón tay vuốt dọc sống mũi Apollo. “Nhưng họ học cách chấp nhận cái chết. Đôi khi theo thời gian rồi họ sẽ nguôi ngoai, như cậu vậy. Nhưng có những người từ chối thậm chí là nghĩ đến chuyện ấy. Những mê say mãnh liệt kết thúc cũng mãnh liệt, và trong hân hoan sẽ lụi tàn, như mồi lửa gặp thuốc súng.”
“Shakespeare à,” Wallace hỏi, liếc nhìn Hugo, người chưa từng rời mắt khỏi cánh cửa.
“Rõ ràng,” Nelson trả lởi. Ông cụ vươn tay lên nắm tay Wallace, siết chặt. Wallace không định rụt tay lại. Hắn tự nhủ ông cụ cần cái nắm tay này. Đây là việc tối thiểu hắn có thể làm.
Sàn hiên cọt kẹt khi có ai đó bước lên bậc thang. Wallace dỏng tai lên nghe, nhưng chẳng có ai lên tiếng. Hắn thấy như vậy thì thật lạ. Mei đã nói tía lia cả một chặng đường đất, ngay cả khi đó là do một vạn câu hỏi vì sao của Wallace. Việc không ai trò chuyện gì khiến hắn bồn chồn.
Ba tiếng đập lên cửa. Ấy là nắm đấm gõ cửa. Một khoảnh khắc lặng im, và rồi cánh cửa mở ra.
Mei bước vào trước, một nụ cười u ám không chạm tới ánh mắt cứng đờ trên mặt. Trông cô nàng nhợt nhạt hơn mọi khi, môi mím thành một đường mỏng dính, loáng thoáng để lộ hàm răng trắng ởn. Cô nhìn quanh phòng, bắt đầu từ Hugo, rồi Nelson, Wallace và Apolo. Chú chó định đứng dậy chạy tới bên cô, nhưng cô lắc đầu, và nó vừa rên rỉ vừa ngồi xuống trên hai chân sau. Nelson lại siết tay Wallace.
Nếu được hỏi tới, Wallace hẳn sẽ không dám chắc mình đang chờ người thế nào bước vào sau cô. Món trà đã cho hắn chút manh mối, nhưng manh mối đó nhỏ xíu, và hắn không tìm được cách đưa nó vào toàn cục. Vị đắng, gay gắt và cay nghiệt, theo sau là vị cỏ xanh xanh tận chân trời, kết thúc bằng vị mật ong, ngậy tới kẹt lại trong cổ hắn.
Có lẽ là một người đầy giận dữ, hơn cả hắn khi trước. Một người la hét, ngập tràn thịnh nộ trước sự bất công của cuộc đời này. Wallace chắc chắn có thể hiểu được cảm giác ấy. Không phải hắn cũng từng như thế đấy ư? Hắn nghĩ đó là một phần trong quá trình, khi ta chôn chân trong chối bỏ và giận dữ.
Dù hắn nghĩ gì đi nữa, thanh niên bước vào Bến Đò Charon tối nay không như những gì hắn tưởng. Cậu ta trẻ hơn, chẳng hạn, có lẽ mới đầu đôi mươi. Cậu chàng mặc áo phông đen rộng rãi trùm ra ngoài quần bò rách gối. Mái tóc vàng rơm của cậu ta dài hơn bình thường, vuốt bừa khỏi trán như thể cậu đã liên tục luồn tay qua tóc. Đôi con ngươi sẫm màu và sáng lấp lánh, khuôn mặt như một chiếc mặt nạ căng ra hết cỡ trên xương sọ. Thanh niên này chẳng sợ sệt gì khi nhìn quanh căn phòng trước mặt, trong ánh sáng tù mù, ánh mắt chỉ thoáng lướt qua Nelson và Apollo. Cậu ta nhìn chằm chằm Wallace hồi lâu. Đôi môi giần giật như thể đang cố nén một nụ cười xấu xí. Một bàn tay xoa lên ngực, và Wallace giật mình khi nhận ra hắn không thấy được lưỡi câu trên ngực cậu ta, và sợi cáp lẽ ra phải dẫn tới chỗ Hugo. Hắn không biết tại sao mình chưa từng nghĩ đến việc này trước đây. Nelson có sợi cáp nào không nhỉ? Apollo thì sao? Và Mei nữa?
Mei đóng cửa lại. Lẫy cửa lại lạch cạch tra vào ổ, và âm thanh này chứa đựng một dấu chấm hết mà Wallace không thích chút nào. Cô nàng nói, “Đây là Hugo. Người lái đò, người tôi đã kể với cậu đó. Anh ấy có mặt ở đây để giúp cậu.” Cô né xa cậu trai kia khi đi về phía Hugo. Biểu cảm trên mặt cô chưa từng lay chuyển, và cô không nhìn Wallace lẫn Nelson. Cô dừng lại cạnh Hugo. Cô không định chạm vào anh.
Thanh niên nọ vẫn đứng gần cửa.
Hugo mở lời, “Xin chào.”
Cậu ta động đậy. “Xin chào. Tôi đã nghe kể nhiều về anh.” Giọng cậu ta nhẹ nhàng hơn Wallace tưởng, dù trong thanh âm tuôn chảy mạch ngầm hiển hiện đầy những điều tăm tối, nặng nề hơn.
“Vậy ư?” Hugo nhẹ giọng hỏi. “Không phải kể xấu chứ, hy vọng là vậy.”
Thanh niên chậm rãi lắc đầu. “Ồ, không. Kể tốt.” Cậu ta nghiêng đầu, “Toàn những điều tốt cả. Tốt quá mức, nói thật lòng là vậy.”
“Mei có tâng bốc tôi thật,” Hugo nói. “Đã cố gắng bảo em ấy bỏ cái tật đó đi rồi, nhưng em ấy không nghe,”
“Phải, cô ta không nghe,” thanh niên nói, và nụ cười kia lại tới. Lớp mặt nạ kéo càng căng hơn, xương gò má thì sắc lẻm. Vẻ mặt này khiến Wallace rùng mình. “Hoàn toàn không nghe. Anh có nghe người khác nói không?”
“Tôi cũng cố gắng nghe,” Hugo nói, hai tay vẫn chắp sau lưng. “Tôi biết việc này rất khó. Biết được những điều cậu vừa biết. Biết rằng mọi chuyện sẽ không bao giờ như xưa nữa. Tới đây, một nơi mình chưa bao giờ tới trước kia với những người cậu không biết. Nhưng tôi hứa với cậu rằng tôi ở đây là để giúp cậu hết sức có thể.”
“Và nếu tôi không muốn anh giúp thì sao?”
Hugo nhún vai. “Cậu sẽ muốn thôi. Và nói vậy là tôi không có ý cợt nhả đâu nhé. Hiện giờ cậu đang du hành, trên một hành trình không như bất kỳ hành trình nào cậu từng đi trước đây. Nơi này chỉ là một trạm dừng trong đó mà thôi.”
Cậu ta lại nhìn quanh. “Cô ta nói rằng đây là một tiệm trà.”
“Đúng vậy.”
“Của anh à?”
“Đúng vậy.”
Cậu ta hất cằm về phía Nelson và Wallace. “Họ là?”
“Ông tôi, Nelson. Bạn tôi, Wallace.”
“Có phải họ...” mắt cậu ta thoáng nhắm nghiền rồi lại mở ra. “Giống anh không? Hay giống tôi?”
Wallace cắn răng nhịn cãi. Mọi người không giống cậu ta chút nào. Từ thanh niên này toát lên một cảm giác lạnh lẽo. Hơi lạnh lan ra khắp phòng, khiến Wallace run rẩy.
“Giống cậu, theo một cách nào đó,” Hugo nói. “Họ có hành trình của riêng mình.”
Người kia hỏi, “Anh có biết tên tôi không?”
“Alan Flynn.”
Mi dưới mắt phải của Alan giần giật. “Cô ta nói tôi chết rồi.”
“Đúng vậy,” Hugo nói, lần đầu tiên cử động. Anh đưa hai tay ra từ sau lưng, đặt chúng lên bàn trước mặt mình. Tách trà lách cách trên khay khi bàn hơi dịch chuyển. “Và tôi rất tiếc vì điều ấy.”
Alan ngửa đầu nhìn trần nhà. “Tiếc à,” cậu ta nói, giọng thích thú. “Anh tiếc à. Anh tiếc vì cái gì kia chứ? Anh có khiến tôi thành ra thế này đâu.”
“Phải,” Hugo nói. “Không phải tôi. Dẫu vậy, tôi vẫn lấy làm tiếc. Tôi biết những lời này vào tai cậu nghe có vẻ thế nào. Tôi sẽ không giả vờ rằng mình hiểu tất cả những điều cậu đang trải qua—”
“Tốt,” giọng cậu ta cộc lốc. “Vì anh không biết tí ti gì đâu?”
Hugo gật đầu. “Cậu có muốn dùng trà không?”
Alan nhăn mặt. “Chưa bao giờ thích trà. Quá nhạt nhẽo.” Cậu ta lại xoa ngực. “Và buồn tẻ.”
“Tách này thì không đâu,” Hugo nói. “Về điểm này cậu có thể tin tôi.”
Alan trông không tin cho lắm, nhưng cậu ta cẩn thận bước một bước về phía bàn. Bóng đèn trong đèn tường chớp tắt cùng tiếng dòng điện rung lên khe khẽ. “Anh ở đây là để giúp tôi,” Cậu ta bước thêm bước nữa. “Đó là những gì anh nói.” Lại một bước nữa.
“Đúng vậy,” Hugo nói. “Không cần phải ngay hôm nay. Không cần phải ngay ngày mai. Nhưng không lâu nữa đâu, khi cậu sẵn sàng, tôi sẽ trả lời mọi câu hỏi mình có thể trả lời. Không phải là cái gì tôi cũng biết. Tôi không giả vờ là vậy. Tôi là một hướng dẫn viên, Alan ạ.”
“Hướng dẫn viên ư?” Alan hỏi, giọng bắt đầu pha chút mỉa mai. “Và anh phải hướng dẫn tôi đi đâu mới được?”
“Tới thế giới tiếp theo.”
Alan đưa tay về phía bàn. Cậu ta thử đặt hai tay mình lên đó, nhưng chúng xuyên qua bàn. Khóe miệng cậu ta trễ xuống khi thu tay lại. “Địa Ngục à? Luyện Ngục? Bà chị này không muốn nói chi tiết cơ.” Vẻ khinh miệt dữ dội và cay cú toát ra từ giọng cậu ta.
“Không phải Địa Ngục,” Hugo nói trong khi Mei nheo mắt lại. “Cũng không phải Luyện Ngục. Không phải nơi nào giữa hai nơi đó.”
“Vậy thì là đâu?” Alan hỏi.
“Một nơi mà cậu sẽ phải tự mình khám phá. Tôi không có câu trả lời, Alan ạ. Tôi ước gì mình biết, nhưng tôi không biết. Tôi sẽ không nói dối cậu về việc này, hay bất kỳ việc nào khác. Tôi hứa với cậu là vậy, và hứa là tôi sẽ làm bất kỳ điều gì có thể làm để giúp cậu. Nhưng trước hết thì, cậu có muốn dùng trà không?”
Alan nhìn xuống khay trà đặt trên bàn. Cậu ta giơ tay chạm lên lọ lá trà, nhưng những ngón tay giật giật và cậu ta lại buông tay. “Mấy lá trà này. Tôi chưa từng thấy loại trà nào thế này. Tôi tưởng chúng ở trong túi lọc có mấy cái dây mỏng. Cha tôi, ông ta...” Cậu ta lắc đầu. “Thôi bỏ đi.”
“Trà có muôn màu muôn vẻ,” Hugo nói. “Có rất nhiều loại, nhiều hơn cậu tưởng tượng ra nổi đấy.”
“Và anh nghĩ tôi sẽ uống trà anh pha à?”
“Cậu không cần phải uống,” Hugo nói. “Đây là chút lễ mọn để chào mừng cậu tới tiệm trà của tôi. Khi người ta dùng trà với nhau, tôi đã để ý thấy trà có khả năng khiến họ trở nên thân thiết hơn.”
Alan cười khẩy chế nhạo. “Tôi không nghĩ vậy đâu.” Cậu ta hít một hơi thật sâu, nghiêng đầu qua lại. “Tôi đã chảy máu. Anh có biết không? Tôi chảy máu trong một con hẻm. Tôi nghe được tiếng người ta qua lại chỉ cách đó vài mét. Tôi cầu cứu họ. Họ lờ tôi đi.” Ánh mắt cậu ta trở nên mơ hồ. Đèn lại chớp tắt. “Tôi đã xin họ giúp mình. Tôi đã van họ giúp mình. Anh đã bao giờ bị đâm chưa?”
“Chưa,” Hugo khẽ trả lời.
“Tôi bị rồi đấy,” Alan nói. Cậu ta giơ tay lên mạn sườn. “Ở đây này.” Cậu ta đưa tay lên ngực, ngón tay siết lại. “Đây.” Lên bên cổ. “Đây nữa. Tôi... tôi nợ hắn khoản tiền mà mình không có. Tôi đã cố giải thích việc ấy với hắn, nhưng hắn... hắn giơ dao ra, và tôi sẽ có tiền cho hắn. Sẽ có mà. Tôi chấp nhận mà. Nhưng trước đó tôi đã bảo hắn là vậy rồi, hết lần này đến lần khác và...” Cậu ta nheo mắt lại. “Tôi đưa tay lấy ví ra để đưa hắn vài đồng đang có trong người. Tôi biết từng ấy là không đủ, nhưng tôi phải thử đã. Hắn hẳn đã nghĩ rằng tôi đang lấy vũ khí vì hắn cứ thế... đâm tôi. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra nữa. Thoạt đầu nó chẳng đau đớn gì. Nghe có lạ không? Tôi có thể thấy lưỡi dao ghim vào người mình, nhưng không thấy đau. Cả khi chảy từng ấy máu, tôi vẫn thấy chuyện ấy không thật. Và rồi chân tôi khuỵu xuống, và tôi ngã vào đống rác. Một miếng giấy bọc đồ ăn nhanh dính lên mặt tôi. Cái mùi đó thật tởm lợm.”
“Cậu không đáng bị như vậy,” Hugo nói.
“Có ai đáng bị vậy kia chứ?” Rồi, không đợi anh trả lời, “Hắn bỏ chạy với bảy đô la và một chiếc thẻ tín dụng mà hắn không có mã PIN. Tôi cố bò ra, nhưng chân tôi không hoạt động. Tay tôi không hoạt động. Và những người ngoài hè phố cứ tiếp tục... bước đi. Không công bằng chút nào.”
“Đúng vậy,” Hugo nói. “Đời chẳng lúc nào công bằng cả.”
“Giúp tôi với,” Alan nói. “Hãy giúp tôi.”
“Tôi sẽ giúp cậu. Tôi hứa tôi sẽ làm những gì mình có thể.”
Alan gật đầu, gần như nhẹ nhõm. “Tốt rồi. Chúng ta phải tìm ra hắn. Tôi không biết hắn sống ở đâu, nhưng nếu chúng ta quay lại, tôi có thể tìm—”
“Tôi đã bảo cậu rồi,” Mei nói. “Chúng ta không quay lại được đâu.” Trông cô có vẻ lo sợ. Wallace tự hỏi chuyện gì đã xảy ra mà khiến cô trông sợ hãi đến vậy. “Cậu chỉ có thể đi tiếp mà thôi.”
Alan không thích điều này. Cậu ta lườm Mei, nhe răng ra. “Phải, đấy là mày nói vậy. Nhưng hãy để sếp sòng ở đây quyết định việc ấy, nhỉ? Mày đã nói đủ rồi. Tao không thích mày mở miệng ra đâu. Mày không nói những điều tao muốn nghe.”
Hugo nâng ấm trà lên và bắt đầu rót nước nóng vào những tách trên khay. Hơi nước cuồn cuộn bốc lên. Anh nhướn mày nhìn Wallace và Nelson. Nelson lắc đầu. Hugo rót ba tách trà rồi đặt ấm xuống. “Cậu sẽ làm gì?” anh vừa hỏi vừa lấy lá trà ra khỏi lọ. Anh đặt một lá vào mỗi tách. “Nếu cậu tìm được hắn? Nếu cậu biết hắn ở đâu?”
Alan do dự, cau mày. Hai tay cậu ta siết thành nắm đấm. “Tôi sẽ đâm hắn như hắn đã đâm tôi vậy.”
“Tại sao?”
“Vì hắn đáng bị như vậy sau những gì hắn làm với tôi.”
“Và làm vậy sẽ khiến cậu thấy vui vẻ hơn sao?”
“Đúng vậy.”
“Ăn miếng trả miếng à.”
“Đúng vậy.”
“Trà này gọi là trà khổ đinh,” Hugo nói. “Nó không giống bất kỳ loại trà nào tôi có ở tiệm trà này. Tôi không nhớ nổi lần cuối mình pha nó là khi nào. Không phải ai cũng thích nó. Người ta nói nó có những công dụng chữa bệnh, và vài người thề thốt rằng nó chữa được.”
“Tôi đã bảo anh tôi không muốn uống trà mà.”
“Tôi biết,” Hugo nói. “Và ngay cả khi cậu muốn uống, tôi cũng chưa cho cậu uống được. Trà này cần thời gian để ngấm, cậu hiểu không. Muốn trà ngon là phải kiên nhẫn. Đây không phải là cảm giác thỏa mãn ngay tức thì, không như trà túi lọc có dây treo kia. Những loại ấy có thể chỉ là thoáng qua, đến rồi lại đi trước khi cậu nếm được vị. Trà kiểu này khiến cậu trân trọng công sức mình bỏ vào đó. Càng ngấm lâu, càng đậm vị.”
“Cái đồng hồ kia,” Alan nói. “Nó không chạy kìa.”
“Đúng vậy,” Hugo nói. “Nó đã dừng lại để cho chúng ta thời gian cậu cần.” Anh nâng một tách trà lên và đặt nó gần Alan. “Đợi thêm chút nữa, rồi thử đi và nói với tôi cậu thấy thế nào.”
Một giọt nước mắt lăn dọc má Alan. “Anh có nghe tôi nói đâu.”
“Tôi đang nghe đây,” Hugo nói. “Kỹ hơn là cậu tưởng đấy. Tôi sẽ không bao giờ biết cậu đã cảm thấy thế nào trong con hẻm đó. Không ai đáng phải cảm thấy cô đơn như vậy.”
“Anh có nghe tôi nói đâu.” Cậu ta quay người đi ra cửa.
“Cậu không thể đi được,” Mei nói. Cô dợm bước theo thanh niên kia, nhưng Hugo đã giữ cô lại. Đợi đã, anh mấp máy môi với cô. Cô nàng thở dài, buông rũ vai.
“Tao có thể chứ,” Alan nói. “Cửa ở ngay kia kìa.”
“Nếu cậu đi,” Hugo nói, “một chuyện gì đó sẽ bắt đầu xảy ra với cậu, một chuyện mà cậu càng đi xa nó càng trầm trọng hơn. Bên ngoài những bức tường này là dương gian, là nơi cậu không còn thuộc về nữa. Alan, tôi rất tiếc vì chuyện này. Tôi biết cậu có thể không tin, nhưng tôi thực sự rất tiếc. Tôi sẽ không nói dối cậu, đặc biệt là về vấn đề quan trọng như thế này. Rời khỏi đây sẽ chỉ khiến tình hình tồi tệ hơn thôi. Cậu sẽ đánh mất toàn bộ con người mình.”
“Tôi đã mất rồi đấy thôi,” Alan gằn giọng.
“Không đâu,” Hugo nói. “Cậu vẫn còn đây mà. Cậu vẫn là cậu. Và tôi có thể giúp cậu. Tôi có thể chỉ cho cậu con đường để đi và giúp cậu siêu thoát.”
Alan quay người lại. “Và nếu tôi không muốn siêu thoát thì sao?”
“Cậu sẽ muốn thôi,” Hugo nói. “Cuối cùng sẽ là vậy. Nhưng không việc gì phải vội. Chúng ta có thời gian mà.”
“Thời gian ư,” Alan lặp lại. Cậu ta nhìn xuống tách trà. “Trà ngấm chưa?”
“Ngấm rồi đấy.” Giọng Hugo nghe nhẹ nhõm, nhưng Wallace vẫn còn cảnh giác.
“Và tôi chạm được vào tách trà?”
“Cậu chạm được. Nhưng cẩn thận nhé. Tách nóng đấy.”
Alan gật đầu. Tay cậu ta run rẩy khi đưa ra cầm tách. Mei và Hugo làm theo. Wallace hồi tưởng lại mình đã trải qua giây phút này như thế nào, mùi bạc hà trong không trung, đầu điên cuồng suy nghĩ ra sao, cố tìm cách thoát khỏi tình thế này. Hắn biết Alan cũng sẽ thấy tương tự.
Hugo và Mei đợi tới khi Alan nhấp ngụm trà đầu tiên. Cậu ta nhăn mặt nuốt xuống.
Hugo uống trà của mình.
Mei cũng vậy, và nếu có không thích cái vị kia, cô nàng cũng không biểu lộ ra mặt.
“Tôi chết rồi,” Alan nói, nhìn xuống tách trà của mình. Cậu ta đong đưa cái tách. Nước trà sánh ra bàn.
“Phải,” Hugo nói.
“Tôi đã bị sát hại.”
“Phải.”
Thanh niên đặt tách trà xuống khay. Cậu duỗi căng hai tay. Cậu hít một hơi thật sâu, chậm rãi thở ra.
Rồi, Alan vung tay qua mặt bàn, gạt trúng ấm trà. Nó rơi xuống sàn và vỡ tan, nước trà tung tóe. Cậu lui lại một bước, ngực phập phồng. Cậu đưa hai tay lên thái dương, ghì chặt đầu mình rồi cúi gập người xuống và gào lên. Wallace chưa bao giờ nghe âm thanh nào giống vậy trước kia. Nó thiêu đốt như thể nước trà nóng đã làm bỏng da của chính hắn. Tiềng gào thét không ngừng vang vọng, giọng Alan không hề lạc đi. Bóng đèn trong chụp đèn lóe lên chói lòa rồi tắt phụt, khiến cả tiệm trà chìm trong bóng tối. Apollo gầm gừ, đứng trước Nelson và Wallace, bờm cổ dựng đứng, đuôi dựng thẳng.
Alan cố lật bàn, lật ghế, lật bất cứ thứ gì cậu vớ được. Cậu ta càng tức giận hơn khi ghế hầu như chẳng xê dịch gì, còn bàn thì hoàn toàn đứng im. Cậu đá chúng, nhưng chẳng ích gì. Cậu sải bước vòng quanh phòng. Apollo gằn lên khi cậu ta tới quá gần hai người họ. Wallace mau chóng đứng dậy, chen vào giữa Nelson và Alan, nhưng Alan lờ họ đi, mắt tóe lửa khi cố gắng phá hoại hết mức có thể mà vẫn chẳng phá được gì.
Cuối cùng, thanh niên nọ tự làm mình mệt nhoài, tóc rũ xuống quanh mặt khi cậu ta cúi xuống, hai tay chống gối, mắt lồi cả ra. “Chuyện này không có thật,” cậu ta lẩm bẩm. “Chuyện này không thật. Chuyện này không thật.”
Hugo bước tới. Wallace dợm ngăn anh, nhưng Nelson đã túm cánh tay hắn, giữ hắn lại. “Đừng,” ông cụ thì thầm vào tai Wallace. “Cháu ta biết nó đang làm gì. Hãy tin nó.”
Hugo dừng lại trước Alan, cúi đầu nhìn con người này với vẻ buồn đau. Anh khom người trước Alan, cậu ta đã khuỵu gối, hai tay chống trên sàn, đung đưa người. “Là thật,” Hugo thì thầm. “Tôi hứa với cậu là vậy. Và cậu nói đúng: thế này chẳng công bằng chút nào. Cuộc đời chẳng bao giờ thực sự công bằng. Tôi không trách cậu vì nghĩ vậy. Nhưng nếu cậu cho phép, tôi sẽ làm những gì mình có thể để cho cậu thấy rằng thế giới này còn nhiều điều có thể xảy ra hơn cậu tưởng đấy.”
Cậu ta quỳ dậy, ngửa đầu lên nhìn trần nhà. Cậu ta lại gào thét, gân cổ dữ tợn gồ lên.
Tiếng gào thét như chẳng có hồi kết.
✽Wallace cố cự nự khi Hugo đề nghị họ rời đi, bảo họ rằng Alan cần chút không gian. Hắn không thích việc Hugo bị bỏ lại một mình với thanh niên kia. Tự đáy lòng hắn biết rằng Hugo thừa sức làm được, nhưng ánh mắt Alan điên loạn đến gần như hoang dại. Mei cản hắn lại trước khi hắn kịp phán chắc nịch với Hugo rằng họ sẽ không đi. Cô nàng hất cằm về phía sau nhà.
“Không sao đâu,” Nelson nói, dù giọng ông cụ cũng đầy lo lắng. “Hugo có thể xử lý được cậu ta mà.”
Apollo từ chối di chuyển. Dù Mei có làm hay nói gì, chú chó cũng không động đậy. Hugo lắc đầu. “Không sao. Nó ở lại được. Anh sẽ gọi em nếu cần.” Anh và Mei trao đổi một cái nhìn mà Wallace không phân tích được. Alan gầm gừ với sàn nhà, nước bọt văng tung tóe trên môi.
Hình ảnh cuối cùng mà Wallace thấy được là Hugo khoanh chân ngồi trước mặt Alan, một bàn tay đặt lên đầu gối cậu ta.
Hắn đi sau Nelson trong khi ông cụ lệt xệt theo lưng Mei. Họ đi dọc hành lang về phía cửa sau. Khí trời lạnh lẽo hơn những đêm trước, như thể mùa xuân đã tạm thời buông tay chốn này. Wallace thấy thật muộn phiền khi hắn nhận ra rằng mình không biết hôm nay là ngày nào. Hắn nghĩ hôm nay là thứ Tư, và bây giờ hẳn phải là tháng tư rồi. Ở nơi đây thời gian trôi nhanh như gió. Hắn đã không để ý, vì quá mải mê sống cuộc đời hắn đã vô tình bước vào. Hắn đã ở Bến Đò Charon được hơn ba tuần rồi. Mei từng nói rằng khoảng thời gian lâu nhất người ta ở lại tiệm trà là hai tuần. Vậy nhưng không ai đẩy hắn về phía cánh cửa kia cả. Thậm chí còn chẳng có ai nhắc tới nó kể từ sau mấy ngày đầu.
“Cháu ổn chứ?” Nelson hỏi Mei khi cô nàng đi qua đi lại trên thềm sân. Ông cụ vươn tới nắm lấy cổ tay cô. “Ca này hẳn phải khó lắm nhỉ.”
Cô nàng thở dài. “Vâng ạ. Cháu biết công việc có thể khó khăn như vậy mà. Quản Lý cũng đã cho cháu thấy là vậy. Cậu ta không phải là người bị sát hại đầu tiên mà cháu giải quyết.”
“Nhưng đây là lần đầu tiên cháu giải quyết một mình,” Nelson khẽ nói.
“Cháu xử lý được mà.”
“Ta biết là cháu làm được. Ta chưa từng có lúc nghi ngờ điều ấy. Nhưng thấy không ổn cũng không sao mà.” Cô nàng nhũn người tựa lên ông cụ, đầu đặt trên vai ông. “Cháu làm tốt lắm. Ta tự hào về cháu.”
“Cảm ơn cụ,” cô lầm bầm. “Cháu đã nửa tin rằng cậu ta sẽ nghe cháu. Ít ra ban đầu là vậy.”
“Cô tìm ra cậu ta ở đâu?” Wallace hỏi, nhìn ra vườn trà phía dưới. Không ai nghĩ đến chuyện bật đèn lên, và mặt trăng đã khuất sau những đám mây. Trong bóng đêm đám cây trà trông chết lặng.
“Gần chỗ cậu ta bị giết,” cô nàng nói. “Cậu ta đang... hò hét. Cố sức khiến ai đó chú ý đến mình. Trông cậu ta nhẹ cả người khi biết tôi nghe thấy cậu ta.”
Nếu Alan có chút gì giống Wallace, sự nhẹ nhõm ấy sẽ chỉ là tạm thời. “Cô có biết không?”
“Biết gì?”
Hắn không quay lại nhìn họ. Trong đầu hắn có sợi chỉ thừa mà hắn đang kéo ra, sợi chỉ mà hắn biết mình nên mặc kệ, nhưng cứ khăng khăng phải kéo. Hắn vừa vân vê nó vừa lựa lời để nói. “Khi tập hồ sơ đến là cậu ta đã chết rồi ư?”
Im lặng trong chốc lát. Rồi. “Phải, Wallace ạ. Dĩ nhiên là vậy rồi. Nếu không thì hồ sơ cũng sẽ không được gửi tới chỗ chúng ta.”
Hắn gật đầu cụt lủn, hai tay siết chặt lan can. “Và cô... sao nhỉ? Chấp nhận thế thôi à?”
“Cậu đang nói chuyện gì vậy?” Nelson hỏi.
Hắn không rõ nữa. Hắn giựt giựt sợi chỉ kia. “Mọi người được gửi cho những tập hồ sơ. Hồ sơ của chúng tôi. Nhưng chỉ sau khi chúng tôi chết rồi thôi.”
“Đúng vậy,” Mei nói.
“Tại sao mọi người không được nhận hồ sơ sớm hơn?” hắn hỏi vọng vào đêm đen. “Điều gì ngăn không cho Quản Lý hay ai kia gửi nó đi trước khi việc ấy xảy ra?”
Hắn biết họ đang nhìn hắn chằm chằm. Hắn cảm nhận được cái nhìn của họ xoáy vào lưng hắn, nhưng hắn không thể quay lại. Hắn đang đấu tranh nội tâm, và hắn không muốn họ thấy được điều ấy trên mặt hắn.
“Việc này không vận hành như vậy,” Mei chậm rãi nói. “Chúng tôi không thể... Wallace ạ. Không ai có thể làm gì để cứu anh hay cậu ta.”
“Phải rồi,” Wallace chua chát nói. “Vì cái số cậu ta là phải chảy máu đến chết trong một con hẻm.”
“Thế giới này là như vậy đó,” Nelson nói.
“Nếu cụ muốn biết thì như thế thật là loạn.”
“Cái chết hỗn loạn thật mà,” Mei nói. Cô đi về phía hắn, ván sàn cọt kẹt theo từng bước chân. “Anh sẽ không phải nghe tôi gắng sức cãi lại đâu, trời ạ. Nó không... mọi thứ đều có trật tự của nó. Một quy trình mà chúng ta đều phải trải qua. Cái chết không phải là việc ta có thể can thiệp vào—”
Wallace cười khẩy. “Trật tự à. Cô đang nói với tôi rằng thanh niên kia là một phần của trật tự. Một thanh niên đau đớn khổ sở mà không ai dừng lại để giúp cậu ta. Đó là thứ cô tin vào à. Đó là niềm tin. Là trật tự của cô đấy à.”
“Thế anh muốn tôi làm gì?” Cô hạch hỏi. Cô tựa lên lan can cạnh hắn. “Chúng ta không cản được cái chết. Không ai làm được. Đó không phải là thứ để ta chinh phục. Ai rồi cũng chết, Wallace ạ. Anh. Nelson. Alan. Tôi. Hugo. Tất cả chúng ta. Không có gì vĩnh hằng cả.”
“Vớ vẩn,” Wallace gắt lên, bỗng dưng nổi cáu. “Quản Lý đã có thể ngăn được việc ấy nếu ông ta muốn. Ông ta đã có thể nói với hai người điều gì sắp xảy ra với Alan. Ông ta đã có thể cảnh báo hai người, và mọi người đã có thể...”
“Không bao giờ,” Mei nói, giọng đầy sửng sốt. “Chúng tôi không can thiệp vào cái chết. Chúng tôi không thể.”
“Tại sao không?”
“Vì cái chết luôn có mặt trên đời. Dù anh làm gì, dù anh sống một cuộc đời thế nào, tốt hay xấu hay đâu đó ở giữa, nó sẽ luôn chờ đợi anh. Từ giây phút ra đời trở đi, là anh đã chết dần rồi.”
Hắn thở dài đẩy mệt mỏi. “Cô hẳn phải biết những lời này nghe sáo rỗng đến đầu chứ.”
“Tôi biết,” cô trả lời. “Vì đó là sự thực. Anh thích tôi nói đối anh hơn à?”
“Không. Tôi chỉ là... vậy thì có nghĩa lý gì chứ? Cho cuộc đời? Cho bất kỳ điều gì trên đời? Nếu việc gì chúng ta làm cũng chẳng quan trọng, vậy tại sao chúng ta còn phải cố nữa?”
Hắn đang suy sụp, hắn biết. Lung lay và suy sụp. Da hắn lạnh băng, và chẳng phải do khí trời quanh hắn. Hắn nghiến chặt răng để giữ cho chúng khỏi đánh lập cập vào nhau.
“Bởi vì đó là cuộc đời của cậu,” Nelson nói, đi tới bên tay kia của hắn. “Đời cậu là do cậu xây nên. Phải, đời không phải lúc nào cũng công bằng. Phải, đời không phải lúc nào cũng tốt. Nó thiêu đốt và cào xé cậu và có những lúc nó nghiền cậu nát đến không ra hình người nữa. Có nhiều người chống chọi với cuộc đời. Những người khác thì... không thể, dù tôi nghĩ ta không thể trách họ vì điều ấy. Từ bỏ thì dễ lắm. Tự gượng dậy thì không. Nhưng chúng ta phải nghĩ rằng nếu đứng dậy, chúng ta có thể bước thêm bước nữa. Chúng ta có thể—”
“Đi tiếp ư?” Wallace đốp chát. “Vì cụ có đi tiếp đâu. Cụ vẫn ở đây, nên đừng có thử lặp lại cùng mấy lời vớ vẩn đấy nữa. Cụ có thể nói gì tùy thích nhưng cụ là kẻ đạo đức giả nhất trong các kẻ đạo đức giả đấy.”
“Và đó là khác biệt giữa ta và cậu,” Nelson nói. “Vì ta chưa bao giờ tuyên bố rằng mình không đạo đức giả.”
Wallace xìu xuống. “Chết tiệt,” hắn lẩm bẩm. “Lẽ ra tôi không nên nói vậy. Tôi xin lỗi. Cụ không đáng bị gọi như vậy. Cả hai người đều không. Tôi...” Hắn nhìn sang Mei. “Tôi tự hào về cô. Tôi chưa từng nói vậy trước đây, và đó là lỗi của tôi, nhưng tôi tự hào thật đấy. Tôi không tưởng tượng ra nổi làm công việc của cô sẽ như thế nào, và những cực nhọc nó hẳn đã gây ra cho cô. Và tiếp xúc với những người như cậu ta.” Hắn nuốt khan. “Như tôi. Nếu tôi chỉ bằng được một góc của cô thôi, thì...” Hắn vừa lắc đầu vừa mở mắt. “Tôi cần ở riêng một lát, được chứ?”
Với những suy nghĩ cuồn cuộn như một cơn bão khổng lồ, hắn bỏ họ lại sau lưng.
Hắn đi tới đi lui giữa những luống cây, để ngón tay mình khẽ lướt qua chóp lá, cẩn thận tránh những lá mỏng manh ra. Hắn nhìn ra xa hơn, vào trong khu rừng. Hắn tự hỏi mình đi được bao xa trước khi da thịt bắt đầu bong tróc. Bỏ cuộc sẽ có cảm giác thế nào? Khi mặc cho bản thân bay biến? Viễn cảnh ấy lẽ ra phải dọa cho hắn sợ hơn mới phải. Từ những gì hắn đã thấy, cảm giác ấy trống trải và tăm tối, như cái xác rỗng của một cuộc đời người ta từng sống.
Vậy nhưng hắn vẫn nghĩ tới chuyện ấy. Nghĩ tới chuyện tìm cách giụt lưỡi câu ra khỏi ngực mình, và bay lên, bay lên, bay lên qua những tầng mây, tới với những vì sao. Hoặc bỏ chạy, chạy tới khi hắn không thể chạy nữa. Chỉ thoáng qua thôi, những suy nghĩ này, vì nếu hắn làm đúng như vậy, hắn có thể sẽ lạc lối, biến thành thứ mà Hugo sợ nhất. Một con Trấu. Anh sẽ ra sao, khi thấy Wallace với đôi mắt chết lặng và ngây dại kia chứ? Cảm giác tội lỗi sẽ nuốt chửng anh, và Wallace không thể làm thế được. Bây giờ thì không. Mãi mãi sau này cũng không.
Hugo quan trọng với hắn. Không phải vì anh là Người lái đò, mà vì anh là Hugo.
Wallace dợm bước trở lại lên thềm, một lời xin lỗi khác sẵn sàng nơi đầu lưỡi. Hắn đông cứng lại khi nghe thấy tiếng thở dài, một âm thanh dài thượt, thều thào như tiếng gió thổi qua lá khô. Bóng đêm quanh hắn trở đặc quánh lại như thể có tri giác, sao trời mờ đi tới khi chỉ còn một màu đen kịt.
Có chuyển động, về phía bên phải hắn.
Wallace quay đầu nhìn sang, sống lưng đông lạnh thành một cột băng.
Cameron đứng giữa những cây trà. Chỉ cách đó vài mét. Vẫn ăn mặc như trước. Quần cáu bẩn. Giày tả tơi. Cởi trần, lớp da bệnh hoạn và xám xịt. Miệng há hốc, lưỡi dày cui, răng đen sì.
Wallace không kịp phản ứng, không kịp kêu lên. Cameron lao tới, hai tay vươn ra trước như hai móng vuốt. Nó túm lấy cánh tay Wallace, và mọi thứ tạo nên con người Wallace phai thành một màu trắng xóa khi những ngón tay bấu lên hắn, lớp da lạnh lẽo và như da thuộc.
Wallace thì thầm, “Không, làm ơn, đừng,” trong khi Mei thét lên gọi Hugo.
Cameron nghiêng người tới trước, mặt chỉ cách mặt Wallace vài tấc, cặp mắt là hai mặt hồ đen như mực. Nó nhe hàm răng, tiếng gầm gừ trầm thấp bò ra từ cổ họng.
Những màu tối sẫm của thế gian về đêm bắt đầu rút đi quanh Wallace, tan chảy như sáp nến. Hắn nghĩ đến chuyện lùi lại, nhưng đó là một xung động xa xăm, gần như chẳng đáng để tâm. Hắn là một cây trà, rễ đâm sâu vào trong đất, lá chờ người đến hái.
Những tia sáng vĩ đại vạch ngang tầm mắt hắn, những ngôi sao sáng nhất kéo vệt ngang không trung đen kịt. Trong mỗi ngôi sao chứa đựng một thoáng hình ảnh, một âm thanh vang vọng. Hắn thấy Cameron và khi ấy nó là Cameron. Khung cảnh ấy thật đường đột, gay gắt và thô bạo. Nó sáng rực và tê dại và khủng khiếp. Nó—
Cameron bật cười. Một người đàn ông ngồi đối diện cậu ta, và anh ta như vầng thái dương. Ở ven tầm nhìn mơ hồ, một nghệ sĩ vĩ cầm đi qua, giai điệu phát ra từ những dây đàn ngọt ngào và ấm áp. Cameron chẳng muốn đi đâu khác nữa. Cậu ta yêu người đàn ông này, yêu bằng cả cơ thế lẫn tâm hồn mình.
Người đàn ông hỏi, “Sao mà cười mỉm thế?”
Và Cameron trả lời, “Chỉ là em yêu anh, có vậy thôi.”
Một ngôi sao khác. Tiếng vĩ cầm phai phôi. Cậu ta còn trẻ. Trẻ hơn nữa. Cậu ta đang đau khổ. Hai người đứng trước cậu ta, một người đàn ông và một người phụ nữ, cả hai đều nghiêm nghị. Người phụ nữ nói “Mày quả là một nỗi thất vọng” và người đàn ông nói “Tại sao mày lại thế này? Tại sao mày vô ơn bạc nghĩa bỏ mẹ ra thế? Mày không biết chúng tao đã làm gì cho mày ư? Và đây là cách mày chọn để trả ơn chúng tao à?”
Và hỡi ôi, những lời ấy mới nghiền nát tâm can, mới tàn phá cậu ta biết bao. Cậu thấy đau tim và nôn nao, cậu muốn bảo họ rằng cậu có thể ngoan hơn, cậu có thể trở thành người họ muốn, cậu không biết làm thế nào thôi, cậu—
Ngôi sao thứ ba. Người đàn ông và người phụ nữ đã biến mất, nhưng sự khinh miệt của họ còn đọng lại như mưng mủ dọc khắp huyết mạch lẫn xương cốt.
Người đàn ông như vầng thái dương lại xuất hiện, chỉ có điều ánh sáng đang mờ dần. Họ đang cãi nhau. Vì cái gì cũng chẳng quan trọng, chỉ là họ đang cao giọng, và đang cào cấu nhau, từng chữ đều như một cú thụi vào bụng. Cậu không muốn họ cãi nhau thế này. Cậu hối tiếc, vô cùng hối tiếc, cậu không biết cậu bị sao nữa, cậu đang cố đây, “Em thề là em đang cố mà, Zach, em không thể—”
“Anh biết,” Zach nói. Anh ta thở dài rồi xìu xuống. “Anh đang cố gắng mạnh mẽ đây. Cố thật sự đây. Em phải nói chuyện với anh, được chứ? Hãy để anh bước vào cõi lòng em. Đừng để anh mò mẫm nữa. Chúng ta không thể cứ tiếp tục thế này được. Tình trạng này đang giết mòn đôi ta.”
“Giết mòn đôi ta ư,” Cameron thì thầm khi sao trời rào rào rơi xuống quanh họ.
Wallace chứng kiến những mảnh vụn của một cuộc đời không thuộc về hắn. Có bạn bè và tiếng cười, có những ngày tăm tối khi Cameron hầu như không thể gượng dậy khỏi giường, cảm giác chua chát lan tràn khi cậu ta đứng cạnh mẹ mình, nhìn cha mình trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Cậu ghét ông ta và cũng yêu ông và cậu chờ đợi, đợi, đợi cho ngực ông ngưng phập phồng, và khi việc ấy đến, đau buồn trong cậu bị trung hòa bởi cảm giác nhẹ nhõm đến điên cuồng.
Hàng năm trời. Wallace chứng kiến hàng năm trời lao vút qua khi Cameron đơn độc, khi cậu không chỉ có một mình, khi cậu nhìn vào mình trong gương, tự hỏi liệu sống trên đời có lúc nào dễ dàng hơn không trong khi quầng thâm dưới mắt cậu lan ra như những vết bầm tím. Cậu là một đứa trẻ đạp xe trong cái nóng mùa hè. Cậu mười bốn tuổi và lúng túng ở ghế sau ô tô với một cô gái mà cậu không nhớ nổi tên. Cậu mười bảy tuổi khi lần đầu tiên hôn một chàng trai, bộ râu lún phún của người kia cọ sát như điện giật tê rần trên da cậu. Cậu bốn tuổi rồi sáu tuổi rồi mười chín và hai tư và rồi Zach, Zach, Zach đã đến, chàng trai nắng ấm, và ôi chao, tim cậu mới lỡ nhịp làm sao khi thấy anh ở đầu bên kia phòng. Cậu không biết là điều gì ở anh, điều gì đã hút hồn cậu mau lẹ đến vậy, nhưng âm thanh của bữa tiệc lặng đi quanh cậu khi cậu đi về phía anh, tim đập loạn nhịp. Cameron lúng túng và lúng búng, nhưng cậu đã nói được tên mình khi chàng trai nắng ấm hỏi, và anh mỉm cười, ôi trời ơi, anh mỉm cười và nói, “Chào Cameron, anh là Zack. Chưa từng thấy em ở đây trước kia. Lạ thật nhỉ?”
Thật là sướng. Sướng muốn chết.
Cuối cùng, họ đã có ba năm bên nhau. Ba năm sung sướng, hạnh phúc, khiếp đảm với những thăng trầm và chậm rãi mở mắt trong nắng ban mai khi họ thức dậy bên nhau, da thịt ấm nồng sau giấc ngủ khi họ vươn tay ôm lấy nhau. Ba năm cãi cọ và nồng nàn cùng những chuyến đi lên núi vào mùa tuyết và xuống biển nơi làn nước ấm áp và xanh thẳm như ngọc.
Chính vào cuối năm thứ ba thì Zach nói, “Anh thấy không khỏe cho lắm.” Anh cố mỉm cười, nhưng nụ cười biến thành méo mặt. Và rồi mắt anh trợn ngược trong hốc mắt, và anh ngã xuống.
Phút trước, mọi thứ còn tốt đẹp.
Phút sau, Zach đã đi rồi.
Những tàn phá theo sau thật là thảm họa. Mọi thứ họ đã gây dựng đều bị san phẳng, để lại Cameron gào thét trong đống đổ nát. Cậu rú rít và cuồng giận trước sự bất công của cuộc đời, và không có gì, không thứ gì có thể kéo cậu ra khỏi đống đổ nát ấy. Cậu phai tàn, phai tàn tới khi thành một cái bóng bước tiếp trên đời chỉ bằng sức mạnh của thói quen.
Wallace nói, “Ôi không, xin đừng,” nhưng đã quá muộn, đã quá muộn vì đây là quá khứ, những điều này đã xảy ra, đã chấm dứt rồi.
Một ngôi sao khác ở đằng xa, nhưng không phải là của Cameron.
Nó thuộc về Wallace.
Khoảng thời gian dài nhất mà người ta từng ở đây là bao lâu?
Sao thế? Định an cư lạc nghiệp à?
Không. Tôi chỉ đang hỏi vậy thôi.
À. Phải rồi. Chà, tôi biết Hugo từng tiếp một người ở lại suốt hai tuần. Đó là... một ca khó nhằn. Qua đời vì tự tử thường như vậy.
Hắn nói, “Cameron, tôi rất tiếc.”
Và Cameron nói, “Tôi vẫn ở đây. Tôi vẫn còn đây.”
Những ngôi sao nổ tung, và hắn bị kéo đi, đi, đi mãi.
Wallace ngẩng phắt đầu dậy. Hắn đang ở trong vườn trà, bàn tay Mei siết quanh cánh tay hắn, và cô nàng đang gọi, “Wallace? Wallace. Nhìn tôi này. Anh ổn rồi. Tôi cứu được anh rồi.”
Hắn giãy giụa rời khỏi cô. “Không, đừng, cô không hiểu đâu—” Hắn ngoái lại qua vai và thấy Hugo đứng trước Cameron giữa những rặng trà, gần cái cây khiến anh rất đỗi tự hào, cái cây mười năm tuổi ấy. Cameron hắn nhìn thấy trong những vì sao đã biến mất, bị thế chỗ bởi cái vỏ khủng khiếp kia. Hàm răng đen sì của hắn nhe nhởn, ánh mắt vô cảm và đầy thú tính.
“Cameron,” Hugo thấp giọng thì thầm.
Ngón tay Cameron giật giật bên người. Cái miệng há hốc của nó không phát ra âm thanh nào.
Khi Mei kéo Wallace lên thềm, Apollo điên cuồng sủa, Nelson trợn tròn mắt, Cameron quay lưng và chậm rãi đi về phía khu rừng.
Hình ảnh cuối cùng Wallace thấy được là tấm lưng của Cameron khi nó biến mất vào trong rừng.
Hugo quay người trở lại nhà. Trông anh thật suy sụp.
Wallace không bao giờ muốn chứng kiến theo kiểu kia lần nào nữa.
Trong lúc mây tan trăng tỏ, họ đứng nhìn nhau nơi góc đời nho nhỏ này.