TIẾNG GỌI CỦA ÁNH SÁNG Thứ Năm ngày 22 tháng Mười hai-10-Phía sau ánh sáng
Đen không phải một màu.
*Georges CLEMENCEAU
Chú Thích
(1841-1929): chính trị gia, nhà vật lý, nhà báo người Pháp, ông từng giữ chức Thủ tướng Pháp trong các giai đoạn 1906-1909 và 1917-1920, đồng thời là người đã đưa nước Pháp đến thắng lợi trong Chiến tranh thế giới thứ nhất.
1.Tôi đang trên đường. Tôi sẽ gặp cô trong mười phút nữa.
Diane Raphaël.
Madeline đọc được tin nhắn từ bác sĩ chuyên khoa tâm thần của Lorenz trong lúc tới trước hai mũi tên của thánh đường Sainte-Clotilde. Bấy giờ là 8 giờ 30 sáng. Không khí mát mẻ hơn và khô hơn ngày hôm trước. Vì vẫn chưa qua phố Seine lấy lại chiếc xe tay ga, cô đã chạy bước nhỏ từ phố Cherche-Midi tới đây. Một cuốc chạy bộ bổ ích nhằm đánh thức cơ thể.
Cô đã ngủ thiếp đi lúc 3 giờ rồi thức dậy lúc 6 giờ. Những giờ đồng hồ trước đó thật là gian khổ. Trước tiên là về thể chất, bởi lẽ họ đã phải lén lút đưa những bức tranh kia từ trường học về tận nhà. Sau đó là về mặt trí tuệ và cảm xúc. Với một câu hỏi ngay lúc này chưa tìm ra bất cứ câu trả lời nào dù là nhỏ nhất: tại sao chỉ vài ngày trước khi qua đời, Sean Lorenz lại tin chắc rằng con trai mình vẫn còn sống?
Hai bàn tay chống trên đầu gối, Madeline nghĩ đến Gaspard trong lúc điều hòa lại hơi thở. Từ khi họ tìm ra thông điệp của người họa sĩ, được viết bằng những chữ cái phát quang, nhà soạn kịch không thể ngồi yên một chỗ. Anh, người vốn dĩ không biết gì về Internet, đã dành một quãng thời gian buổi đêm để đọc lướt trang web của các hãng truyền thông lớn của Mỹ. Anh sửng sốt với khám phá của bản thân: quả nhiên, nhiều bài báo được đăng tải trong những ngày tiếp theo sau khi thảm kịch xảy ra đã chỉ ra rằng không tìm thấy xác của cậu nhóc Julian trong nhà kho nơi Pénélope bị giam cầm.
Trong lúc dựng lại quá trình trượt dốc để rồi trở thành kẻ sát nhân của Beatriz Muñoz, các nhà điều tra đã kết luận rằng ả đàn bà người Chile đã vứt xác đứa trẻ xuống hải khẩu Newtown Creek, phía Nam quận Queens. Cảnh sát đã thu được con thú bông dính máu cậu bé bên mép nước. Người ta đã cử tới đó vài thợ lặn, nhưng địa điểm này – một trong những nơi ô nhiễm nhất New York – rất khó tiếp cận, và bấy giờ nước sông đang dâng cao, dòng chảy quá xiết nên không hy vọng gì tìm lại được một cái xác nhỏ bé đến thế.
Mặc dù vậy, phiên bản do Pénélope Lorenz kể – người một mực khẳng định rằng con trai bị đâm bằng dao ngay trước mắt bà ta – đã không bao giờ bị nghi ngờ. Và, khách quan mà nói, Madeline không có bất kỳ lý do gì để nghi ngờ chuyện đó. Theo những bài báo cô đã tra cứu, tất cả đều khiến người ta nghĩ rằng Muñoz đã hành động mà không có bất cứ đồng phạm nào. Cái chết của cậu bé không gây nên bất cứ nghi ngờ gì. Máu của cậu được tìm thấy khắp mọi nơi: trong chiếc xe tải nhỏ dùng vào việc bắt cóc, trong nhà kho ở quận Queens, bên mép nước ở Newtown Creek.
Madeline quyết định đợi nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần trên khoảng sân hiên ấm áp của quán cà phê trông ra khu vườn của thánh đường. Một tiếng trước cô đã xin được gặp Diane Raphaël tại phòng làm việc bằng cách gửi cho bà qua tin nhắn nhiều tấm ảnh chụp những bức tranh của Sean Lorenz. Cô ngồi bên dưới một tán ô rồi gọi một ly expresso đúp. Trên màn hình điện thoại, một bức thư điện tử từ Air France nhắc nhở cô phải làm thủ tục cho chuyến bay sang Madrid. Khỏi hành 11 giờ 30 từ Charles-de-Gaulle, hai tiếng sau sẽ tới thủ đô Tây Ban Nha. Cô làm thủ tục trực tuyến, nuốt thứ cà phê pha quá vội mà người ta vừa mang ra cho cô rồi gọi luôn ly thứ hai để rồi vừa nếm náp vừa nhớ lại cuộc thám hiểm của họ hồi đêm qua.
Trái ngược với Gaspard, điều khiến cô bối rối nhất không phải thông điệp với những chữ cái phát quang – cô chỉ thấy nó kỳ cục –, mà là… toàn bộ phần còn lại. Đặc biệt là chuyến đi gần như về mặt tinh thần được Sean Lorenz miêu tả thông qua tác phẩm tranh bộ ba của ông. Một chuyến đi mà cô biết rõ bởi lẽ bản thân cô đã thực hiện nó vài tháng trước.
Khi tự dùng dao lam rạch cổ tay trong bồn tắm, Madeline đã trôi dạt trước khi bất tỉnh. Cô đã chậm rãi rút bỏ một phần máu mình, chóng mặt bởi hơi nước nóng bỏng. Cô đã chìm đắm, dò dẫm đi trong một khung cảnh sương mù dày đặc. Và cô chắc chắn rằng thứ mà Sean Lorenz đã cố thể hiện trong những bức tranh cuối cùng của ông chính là sự trôi dạt này.
Trước tiên là màu ĐEN. Chiếc cầu dao điện xoay chiều và ngắt kết nối giữa bạn với thế giới, trong thoáng chốc đã quẳng bạn trở lại với những đau đớn day dứt của mình. Mê cung của nỗi khổ đau riêng bạn. Ngục tối mà cuộc đời bạn đã trở thành.
Rồi chuyến đi qua một đường hầm dài tăm tối kết thúc bằng việc ùa vào một thứ ánh sáng ấm nóng, dịu dàng, lan tỏa. Cảm giác tuyệt vời được nổi trôi bềnh bồng trong một lớp kem đánh dậy ánh xà cừ. Được vượt qua một mảnh đất không bóng người mềm mịn tựa bông gòn. Được để mặc cho mình bị cuốn đi bởi làn gió hiu hiu của một đêm hè, được dẫn lối bởi hàng nghìn ngọn đèn ngủ với độ sáng của ngọc trai.
Sau đó, Madeline có cảm giác lạ kỳ là rời khỏi thân xác mình, cho đến khi có thể quan sát những nhân viên cấp cứu đang cúi xuống cô và thử hồi sinh cô trước khi đưa cô lên một chiếc xe cứu thương. Cô đã ở lại với họ và với Jul’ một lúc trên quãng đường tới bệnh viện.
Rồi cô đã lại tìm ra ánh sáng. Một vòng xoáy ốc sáng quắc nuốt chửng Madeline, phóng cô vào một dòng thác ánh sữa dữ dội nơi đầu óc cô quay cuồng 360 độ trước bộ phim cuộc đời mình. Cô đã nhận ra hình dáng và gương mặt cha cô, chị gái Sarah, chú Andrew. Cô những muốn dừng lại để chuyện trò cùng họ, nhưng lại không thể ngăn dòng chảy đang cuốn cô theo.
Một dòng chảy ấm nóng, bao bọc và dịu dàng. Mạnh hơn tất thảy. Bên tai cô, một tiếng thì thào vô cùng êm dịu giống như những khúc hát thiên giới tước đi của bạn toàn bộ mong muốn quay trở lại.
Tuy nhiên, Madeline đã không đi đến cuối đường hầm. Cô đã gần như chạm ngón tay vào đường biên giới. Đường biên giới chỉ để người ta vượt qua theo một chiều duy nhất. Nhưng điều gì đó đã nhắc cô trở về. Linh tính rằng câu chuyện đời cô có lẽ xứng đáng với một kết cuộc khác.
Khi mở mắt ra, cô đang trong bệnh viện. Bị đặt ống thở, bao quanh là những ống tiêm truyền và băng cứu thương.
Madeline thừa biết bản thân kinh nghiệm đó của cô chẳng có gì đặc biệt. Đã có hàng chục nghìn câu chuyện thuật lại giống với câu chuyện của cô. Những “kinh nghiệm cận tử” được miêu tả trong văn hóa đại chúng thông qua vô số các tiểu thuyết và phim ảnh. Dĩ nhiên, cô đã thoát khỏi hành trình ấy với tâm thế hoàn toàn biến đổi. Không nhất thiết thiên về hướng tin vào sự sống sau cái chết, nhưng với khao khát sống trọn vẹn quãng thời gian còn lại của cuộc đời. Trút bỏ gánh nặng từ tất cả những gì không quan trọng. Mang lại cho cuộc đời mình một ý nghĩa khác. Và bởi vậy, cô sẽ sinh một đứa con.
Ký ức về Kinh nghiệm Cận tử này vẫn khắc sâu trọn vẹn trong trí nhớ của cô. Như thể cô vừa trải nghiệm nó ngày hôm qua. Chẳng điều gì mờ nhạt hết. Trái lại, thậm chí những cảm giác còn trở nên chín muồi, những hình ảnh còn trở nên chính xác. Vẻ êm đềm của “chuyến hành trình”, lời kêu gọi đến nhức đầu của ánh sáng. Và Lorenz đã thành công trong việc họa nên thứ ánh sáng này. Trong tất cả các sắc thái của nó, trong toàn bộ cường độ của nó. Thứ ánh sáng khốn kiếp này, theo cách khó bề lý giải, tỏa rạng như những tia nắng man trá của một tình yêu ngời sáng.
– Cô là Madeline Greene phải không?
Câu hỏi kéo cô ra khỏi cơn mơ màng. Một người phụ nữ tươi cười niềm nở đang đứng dưới tán ô ở sân hiên. Tuổi trạc tứ tuần, mặc một chiếc áo khoác da khóa kéo màu be và đeo một cặp kính râm màu mật ong.
– Tôi là Diane Raphaël, bà tự giới thiệu rồi chìa tay cho cô bắt.
2.Lần này, Coutances không phải nài nỉ lâu mới được Pénélope tiếp đón. Anh đã có mặt tại phố Saint-Guillaume, ngay từ sáng sớm, tay cầm một bức tranh nặng trịch. Khi anh xưng danh qua điện thoại nội bộ, vợ cũ của Lorenz đã mở cửa cho anh mà thậm chí không cần biết anh muốn gì.
Gaspard bước ra khỏi thang máy, thở dốc. Philippe Careya không có mặt trong ban tiếp đón, hẳn là ông ta còn chưa dậy. Cánh cửa đã mở khóa, Gaspard vừa bước vào phòng ngoài vừa đẩy cho khung tranh bằng gỗ hồ đào mà anh đã dùng một tấm chăn bọc lại trượt trên mặt sàn.
Pénélope đang ngồi chờ anh trên trường kỷ phòng khách trong thứ ánh sáng lạnh lẽo của buổi sáng. Thứ ánh sáng tự nhiên, phơn phớt xanh, lạnh tựa đá, đã nhân đôi công trạng khi nhấm chìm cảnh bài trí lòe loẹt trong khung cảnh mờ tối và biến bà góa Lorenz thành một hình sấp bóng, giúp tôn lợi thế của bà ta hơn là một thứ ánh sáng quá chói gắt.
– Đã hứa là làm, anh thông báo đoạn đặt bức tranh vẫn được bảo vệ bằng tấm chăn choàng len dày xuống trường kỷ chất liệu da sần.
– Cà phê nhé? bà ta vừa đề xuất vừa mời anh ngồi lên một chiếc ghế Ottoman.
Mặc quần jean xám bạc màu và áo phông thể thao hiệu Poivre Blanc đã cũ, Pénélope dường như vẫn kẹt lại trong thập niên 1990. Lần thứ hai gặp gỡ, Gaspard thấy bà ta đỡ kinh khủng hơn. Khuôn mặt như được ép dẻo của bà ta có vẻ đỡ cứng đờ hơn lần gặp trước. Cái miệng như mỏ vịt của bà ta không còn gây cảm tưởng sắp rách toạc mỗi lần chủ nhân của nó nói câu gì đó.
Con người ta quen dần với mọi thứ, anh nghĩ bụng trong lúc cầm lấy một bình cà phê moka để trên mặt bàn thấp.
– Vậy là hai người đã tìm ra thứ vẫn hằng kiếm, bà ta ghi nhận đồng thời chỉ cái khung tranh.
Trái lại, giọng bà ta không thay đổi: khàn đục, chua loét, khản đặc, như thế một lứa mèo đã làm ổ trong họng bà ta.
– Chúng tôi đã tìm ra các bức tranh và trong đó có một bức mà bà nên xem.
Bà ta thở dài.
– Ít nhất thì đó cũng không phải một bức vẽ chân dung Julian chứ?
– Không hẳn.
– Tôi sẽ không chịu đựng nổi chuyện đó đâu.
Gaspard đứng dậy và không khua môi múa mép thêm lời nào, nhấc lớp vỏ bọc lên để cho Pénélope thấy bức tranh cuối cùng do chồng cũ của bà ta vẽ.
Được đặt gần hai khung cửa sổ cao, bức tranh hiện ra trong toàn bộ vẻ rực rỡ huy hoàng của nó. Thậm chí Gaspard còn có cảm giác vừa tái khám phá nó. Một thứ ánh sáng quyến rũ mê hồn dường như đang tỏa ra từ đó và nhảy múa đằng trước bức tranh.
– Đặc quyền của người nghệ sĩ là tiếp tục sống thông qua các tác phẩm của họ, Pénélope ghi nhận.
Gaspard chậm rãi kéo kín bốn tấm rèm để căn phòng chìm trong bóng tối.
– Anh đang làm gì vậy? bà ta lo lắng.
Rồi bà ta nhìn thấy những chữ cái phát quang và thông điệp bí ẩn của chúng:
JULIAN CÒN SỐNG.
– Đủ rồi đấy! Mở những tấm rèm kia ra! bà ta ra lệnh.
Một cơn thịnh nộ đúng nghĩa chụp lấy Pénélope khiến khuôn mặt bà ta đỏ tía lên và biến dạng, càng làm nổi bật thêm đôi lông mày quá cao, sống mũi quá thẳng và đôi gò má quá tròn của bà ta.
– Tại sao Sean lại tin chắc con trai ông ấy còn sống chứ? Gaspard hỏi, không chút xót thương.
– Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đó đâu! Pénélope kêu lên, bà ta đã nhảy khỏi trường kỷ, quay lưng về phía bức tranh.
Bà ta mất hơn một phút mới trấn tĩnh được và lại đối diện với bức tranh.
– Hôm qua khi anh hỏi chuyện, tôi đã khẳng định không còn nhớ điều mà Sean nói với tôi khi ông ấy gọi điện từ New York vài phút trước khi ông ấy qua đời.
– Tại sao vậy?
– Bởi vì tôi không muốn nói ra những lời này, nhưng…
– Vâng?
– Ông ấy nói với tôi chính xác như thế này: “Con trai chúng ta vẫn còn sống, Pénélope ạ!”
– Bà đã phản ứng thế nào?
– Tôi đã rủa xả ông ấy rồi dập máy. Không ai lại đùa cợt với cái chết của con cái cả!
– Bà không tìm hiểu điều ông ấy…
– Nhưng tìm hiểu chuyện gì kia? Tôi đã chứng kiến con trai tôi lãnh những cú dao đâm. Tôi đã chứng kiến nó bị con quỷ đội lốt người đó giết chết, anh hiểu không? Tôi đã chứng kiến chuyện đó. Tôi đã CHỨNG KIẾN chuyện đó! TÔI ĐÃ CHỨNG KIẾN CHUYỆN ĐÓ!
Và Gaspard đọc thấy trong mắt Pénélope rằng bà ta đang nói với anh sự thật.
Pénélope nấc lên, nhưng không chịu để lộ mình trước mặt người khác. Bà ta vội vàng nuốt ngược nước mắt vào trong và muốn nói cho rõ:
– Không có lối thoát cho mối quan hệ giữa tôi và Sean. Ông ấy không ngừng trách móc tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của Julian.
– Bởi vì bà đã nói dối nơi mình đến vào cái ngày cậu nhóc bị bắt cóc chăng?
Bà ta gật đầu xác nhận.
– Nếu cảnh sát bắt đầu tìm kiếm từ khu vực đó, biết đâu họ sẽ tới kịp để cứu sống thằng bé. Dẫu sao chăng nữa Sean cũng đã nghĩ như vậy, và tôi đã mang nặng cảm giác tội lỗi này rất lâu. Nhưng nếu chúng ta đi đến tận cùng logic thì chính Sean mới là người có lỗi trước.
Gaspard hiểu Pénélope đang chơi lại một trận đấu mà bà ta hẳn phải trải nghiệm lại hàng nghìn lần suốt từ hai năm qua.
– Nếu ông ấy không xúi giục Muñoz đi cùng mình trong những vụ cướp có vũ trang thì bà ta đã không nuôi oán hận và gây ra tội ác kia!
– Ông ấy không thừa nhận sao?
– Không! Bởi vì ông ấy khẳng định mình làm như thế là vì tôi. Để kiếm tiền sang Paris gặp tôi. Tôi đã bảo với anh rồi: chuyện này không có lối thoát. Mọi chuyện là lỗi do tôi.
Đến lượt Gaspard cảm thấy muộn phiền kỳ lạ. Anh đứng dậy từ biệt Pénélope.
– Tôi đã ngay lập tức cảm thấy anh là người chính trực, anh Coutances ạ.
– Tại sao bà lại nói điều này?
– Bởi vì anh đã không đeo mặt nạ mà tiến hành mọi chuyện.
Hơi không liên quan đến câu nói vừa rồi, Pénélope nói thêm:
– Trong cuộc sống, có những người đàn ông tốt và những gã khác. Đường ranh giới rất rõ ràng. Anh là một chàng trai tốt. Giống như Sean vậy.
Gaspard tận dụng khe hở. Đã đặt bàn tay lên nắm đấm cửa, anh bỗng quay ngoắt lại rồi bước về phía Pénélope.
– Tôi biết là vô cùng khó khăn đối với bà khi phải nhắc đến chuyện này, nhưng tôi vẫn muốn biết chuyện gì đã thực sự xảy ra vào hôm Julian bị bắt cóc.
Bà ta thở dài chán nản.
– Chuyện này đã được miêu tả trong hàng chục bài báo rồi còn gì.
– Tôi biết, nhưng tôi muốn nghe từ chính miệng bà.
3.Phòng làm việc của Diane Raphaël là một căn phòng rộng rãi chạy dài theo chiều dọc, mang lại những góc nhìn hiếm thấy về Paris. Một mặt là giáo đường Sainte-Clotilde, mặt kia là nhà thờ Saint-Sulpice, mái vòm của điện Panthéon và đồi Montmartre.
– Ở đây, tôi có cảm tưởng như đang trong chòi gác của một con tàu cướp biển: tầm bao quát xa đến mức ta nhìn thấy những cơn dông, cơn bão và những vùng áp thấp đang đến. Chuyện này thuận tiện cho một bác sĩ chuyên khoa tâm thần.
Nữ bác sĩ mỉm cười với phép ẩn dụ của riêng mình như thể bà vừa sáng tạo ra nó vào đúng thời điểm đó. Cũng như trong chuyến viếng thăm Fayol, Madeline tự nhủ mình đã hoàn toàn sai lầm. Cô đã hình dung ra một bà giáo già đeo kính với mái tóc hoa râm búi gọn. Trên thực tế, Diane Raphaël là một phụ nữ vóc dáng nhỏ nhắn với ánh mắt tinh nghịch, mái tóc ngắn với những lọn xoăn. Với áo khoác da ngắn màu vàng hung, quần jean ôm sát và đôi giày thể thao hiệu Gazelle sạch tinh tươm, bà gây ấn tượng đang mơ mộng mình vẫn còn là cô sinh viên phóng khoáng.
Bà đã để gần cửa ra vào một chiếc va li gắn bánh xe được bảo vệ bằng một lớp vỏ màu bạc ánh kim.
– Bà sắp đi nghỉ lễ sao? Madeline hỏi.
– Tới New York, bác sĩ tâm thần đáp. Tôi thường dành phân nửa thời gian của mình ở đó.
Bà chỉ nhiều bức ảnh treo trên các mặt tường. Những bức ảnh bảng lảng tựa không khí chụp một tòa nhà ốp kính nằm giữa rừng và đại dương.
– Đó là Lorenz Children Center, trung tâm y tế dành cho trẻ em mà tôi đã thành lập nên nhờ có Sean. Nó nằm ở Larchmont, phía Bắc New York, trong hạt Westchester.
– Chính Lorenz đã trực tiếp tài trợ cho bệnh viện này sao?
– Trực tiếp và gián tiếp, Diane nói rõ. Quỹ được hình thành một phần từ số tiền thu được khi bán hai bức tranh khổ lớn mà tôi đã mua của ông ấy với giá rẻ mạt hồi năm 1993 rồi bán lại khi thị giá của ông ấy lên cao chót vót. Sau đó, Sean nghe phong thanh về kế hoạch của tôi nên ông ấy giao cho tôi ba bức tranh khác và cho phép tôi bán đấu giá chúng. Ông ấy vô cùng hãnh diện vì hội họa của mình phục vụ được điều gì đó cụ thể: chăm sóc trẻ em không nơi nương tựa.
Madeline ghi lại thông tin đâu đó trong đầu cô trong khi nữ bác sĩ tâm lý ngồi vào vị trí sau bàn làm việc. Diane đổi chủ đề:
– Vậy ra cô đã tìm thấy ba bức tranh cuối cùng của Sean. Chúc mừng. Và cảm ơn vì những bức ảnh cô chụp. Những bức tranh có vẻ rất tuyệt. Tinh hoa của Lorenz! bà khẳng định, đoạn mời Madeline ngồi xuống một chiếc ghế tựa hiệu Wassily đối diện mình.
Toàn bộ căn phòng được bài trí theo phong cách Bauhaus: những chiếc ghế làm từ ống thép uốn cong, ghế bành Cube, ghế sưởi Barcelona, giường thư giãn nhồi nệm chần, bàn thấp bằng gỗ ép mạ crôm.
– Bà có biết những bức tranh này miêu tả điều gì không? Madeline vừa hỏi vừa ngồi cho vững trên ghế.
– Hội họa của Sean không miêu tả, nó…
– … nó thể hiện, tôi biết chứ, người ta đã sử dụng công thức đó với tôi. Nhưng ngoại trừ điều đó ra thì sao?
Nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần trở nên kích động. Mếch lòng, rồi bà đầu hàng vẻ thích thú:
– Thông qua những bức tranh của mình, Sean muốn giải thích hai EMI: hai kinh nghiệm cận tử của bản thân.
– Vậy là bà biết chuyện rồi sao?
– Về những bức tranh này thì không, nhưng tôi chẳng hề ngạc nhiên. Sean là bệnh nhân của tôi đã hai chục năm nay rồi mà! Như tôi đã nói rõ với anh Coutances, hồi 2015, Sean đã chịu đựng hai cơn tai biến tim mạch hết sức nghiêm trọng cách nhau chỉ vài tháng. Hai cơn nhồi máu cơ tim đã nhấn chìm ông ấy trong hôn mê trước khi ông ấy được hồi sinh. Cơn ngừng tim thứ hai còn nặng thêm vì bị sốc nhiễm khuẩn…
– Một ca nhiễm trùng máu sao?
– Đúng vậy, một ca nhiễm khuẩn hết sức nghiêm trọng suýt thì cướp đi sinh mạng của ông ấy. Thậm chí ông ấy đã bị tuyên bố chết lâm sàng trước khi thoát được một cách kỳ diệu.
– Chính là sau hai vụ tai biến đó mà ông ấy bắt đầu vẽ những gì mình từng trải qua ư?
– Tôi nghĩ vậy. Ông ấy đã hết sức kích động với kinh nghiệm đó. Lối đi từ những cảnh tối tăm tới ánh sáng này để lại dấu ấn sâu đậm trong ông ấy. Ông ấy luận giải về nó như một sự sáng lòa, một sự phục sinh. Từ đó nảy sinh ý chí muốn tìm lại cảm giác này thông qua những bức tranh mình vẽ.
– Chuyện này có khiến bà ngạc nhiên không?
Bà bác sĩ nhún vai.
– Tôi từng làm việc tại bệnh viện suốt mười lăm năm trời. Những bệnh nhân được hồi sinh đều khẳng định đã băng qua một đường hầm ánh sáng sau cơn hôn mê, chuyện đó là bình thường, cô biết đấy. Những kinh nghiệm cận tử là một hiện tượng có từ thời Cổ đại.
– Sean vẫn phải chịu những di chứng về thể chất sau hai cuộc phẫu thuật đó phải không?
– Dĩ nhiên rồi: những vấn đề về trí nhớ, cảm giác mệt mỏi tột độ, những khó khăn trong việc phối hợp cử động…
Diane dừng lại giữa câu. Mắt bà lấp lánh sự tinh nghịch và thông tuệ.
– Cô vẫn chưa nói hết mọi chuyện với tôi, phải không?
Madeline vẫn lạnh như tiền, chờ cho nữ bác sĩ tâm thần nói tiếp.
– Nếu cô khẩn khoản muốn gặp tôi đến thế, đó là bởi cô đã tìm ra một thứ khác… Có lẽ là một bức tranh khác chăng?
Madeline rút điện thoại ra rồi chỉ cho Diane xem ảnh chụp bức tranh cuối cùng trong bóng tối với thông điệp bằng những chữ cái phát quang khẳng định: JULIAN CÒN SỐNG.
– Vậy ra là chuyện này…
– Chuyện này có vẻ không khiến bà ngạc nhiên.
Diane tì khuỷu tay lên mặt bàn rồi chắp tay lại như thể bà chuẩn bị cầu nguyện.
– Cô biết tại sao Sean lại bị xáo trộn bởi hai chuyến đi của ông ấy tới ranh giới cái chết không? Trước tiên là bởi, trong đường hầm ánh sáng trứ danh đó, ông ấy đã trông thấy tất cả những người đáng kể trong cuộc sống của mình và đã qua đời: mẹ ông ấy, bạn bè của ông ấy ở Harlem hồi thập niên 1990 vốn đã chết vì dùng ma túy quá liều hoặc trong cuộc thanh trừng giữa các băng nhóm. Thậm chí ông ấy còn trông thấy cả Beatriz Muñoz.
– Đó là một điều hết sức bình thường trong những kinh nghiệm cận tử mà, Madeline lưu ý. Bà thấy lại cuộc đời mình và gặp lại tất cả những người quá cố quan trọng đối với bà.
– Cứ như thể cô đang nói về chuyện này bằng kinh nghiệm của bản thân ấy nhỉ.
– Nếu bà muốn, chúng ta cứ dừng lại ở kinh nghiệm của bản thân Lorenz thôi nhé. Tôi đâu phải bệnh nhân của bà.
Nữ bác sĩ chuyên khoa tâm thần không gặng hỏi.
– Có một người mà Sean không gặp trong đường hầm…, bà tuyên bố.
Rốt cuộc Madeline cũng hiểu ra và máu trong người cô đông đặc lại.
– Con trai ông ấy.
Diane gật đầu.
– Quả thật, mọi chuyện xuất phát từ đó. Sean bắt đầu phát triển một lý thuyết hoang tưởng như thế, nếu ông ấy không gặp Julian thì đó là vì cậu bé vẫn còn sống.
– Và bà không tin vào chuyện này ư?
– Tôi tin vào những lời giải thích dựa trên lý tính về hiện tượng. Bất kỳ sự tiếp thêm ôxy cho bộ não nào, dù là nhỏ nhất, cũng thường gây rối loạn phần vỏ não điều khiển thị giác, hậu quả của những loại thuốc ảnh hưởng xấu đến ý thức. Trong trường hợp của Sean, chuyện đó là hiển nhiên: để khoanh vùng bệnh nhiễm trùng máu của Sean, người ta đã tiêm cho ông ấy những liều lớn dopamine, một chất thúc đẩy ảo giác.
– Bà không thử thuyết phục ông ấy sao?
Bà bác sĩ phác một cử chỉ bất lực.
– Điếc lác nhất vẫn cứ là người không muốn lắng nghe. Sean có nhu cầu tin rằng con trai vẫn còn sống. Cô không thể làm gì chống lại một ai đó không sẵn lòng lắng nghe cô nói.
– Và ông ấy đã rút ra kết luận gì về việc đó?
– Tôi nghĩ ông ấy những muốn mở lại cuộc điều tra về vụ bắt cóc Julian, nhưng cái chết đã ngăn ông ấy làm việc đó.
– Còn bà lại thấy không có bất cứ cơ may nào là cậu nhóc còn sống ư?
– Không, thật không may là Julian đã chết. Tôi chẳng ưa gì Pénélope, nhưng chẳng có bất kỳ lý do nào để bà ta không kể đúng sự thật. Toàn bộ phần còn lại, đó là những lời mê sảng của một người đàn ông vốn là bạn tôi, nhưng cũng là người đang mang nặng nỗi đau và bị thuốc men làm cho u mê mụ mẫm.
4.“Chúng tôi bắt đầu nhận hành khách lên chuyến bay AP118 tới Madrid tại cửa số 14. Các gia đình có trẻ nhỏ đi cùng cũng như hành khách ngồi hàng ghế từ 20 đến 34 được ưu tiên xuất trình trước.”
Madeline kiểm tra số ghế của mình trên tấm vé mà cô vừa in ra tại một bốt giao dịch Air France. Chỉ còn hai ngày nữa là tới Giáng sinh. Tình trạng chậm trễ hỗn độn đang diễn ra và sảnh E của sân bay Charles-de-Gaulle đông nghịt người.
– Cảm ơn vì đã đi tiễn tôi, Gaspard. Tôi biết anh không khoái các sân bay mà…
Anh lờ cái câu châm chọc nhỏ nhen ấy đi.
– Vậy là cô cứ như thế mà lên đường sao?
Cô nhìn anh mà không hiểu anh muốn dẫn dắt tới đâu.
– Anh còn muốn tôi làm gì khác nào?
– Cô coi như mình đã xong việc chỉ vì đã tìm lại được các bức tranh sao?
– Đúng thế.
– Còn phần tiếp theo của cuộc điều tra thì sao đây?
– Cuộc điều tra nào kia?
– Cuộc điều tra về cái chết của Julian.
Cô lắc đầu.
– Cả anh lẫn tôi, chúng ta nào phải cảnh sát đâu, Coutances. Và cuộc điều tra đã kết thúc từ lâu rồi.
Cô cố gắng quay vào khu vực lên máy bay, nhưng anh ngăn lại.
– Đừng nói với tôi như thể tôi là gã ngốc thế chứ.
– Ồ được thôi!
– Còn lâu mới tháo gỡ được hết các vùng tối.
– Anh đang nghĩ đến cái gì thế?
– Chỉ một chi tiết thôi, anh dùng giọng mỉa mai. Người ta chưa bao giờ tìm được xác cậu nhóc.
– Chuyện bình thường thôi mà, nó đã trôi theo dòng sông Đông rồi. Thành thực mà nói, phải chăng anh đang có chút hồ nghi nào đó về cái chết của cậu bé?
Vì anh không trả lời, cô gặng hỏi:
– Anh nghĩ Pénélope Lorenz đã nói dối anh hả?
– Không, anh thừa nhận.
– Nếu đã vậy thì anh đừng nghĩ gì thêm cho mệt xác. Cậu bé đã chết được hai năm rồi. Đó là một thảm kịch, nhưng nó đâu có liên quan tới chúng ta. Hãy quay trở lại với những vở kịch của anh đi, đó mới là việc anh nên làm nhất.
Không trả lời Madeline, anh đi cùng cô tới tận cổng kiểm soát an ninh. Madeline cởi thắt lưng ra rồi đặt vào một cái khay to, tiếp đến là chiếc áo khoác ngắn và điện thoại di động của cô.
– Thôi nào, tạm biệt nhé, Gaspard. Anh có được ngôi nhà cho riêng mình rồi đó. Tôi chẳng còn ở đó quấy rầy anh nữa. Anh sắp có thể yên tĩnh mà sáng tác rồi!
Anh nghĩ đến khái niệm này trong tiếng Hy Lạp, kairos: thời điểm mấu chốt. Và đến nghệ thuật nắm bắt thời điểm. Khả năng không để sổng cơ hội của bản thân mỗi khi nó xuất hiện, và nó có thể làm đảo lộn cuộc sống theo chiều hướng này hoặc chiều hướng khác. Kiểu bước ngoặt mà anh chưa bao giờ biết nắm bắt trong cuộc đời mình. Và cả lần này nữa, Gaspard tìm cách nói điều gì đó để ngăn Madeline đừng đi, rồi anh bỏ cuộc. Lấy quyền gì? Để làm gì? Cô có cuộc sống riêng, một kế hoạch nung nấu bấy lâu mà cô hằng đấu tranh vì nó. Thậm chí anh còn tự trách mình vì đã nảy ra ý tưởng này, anh liền chúc cô may mắn.
– Can đảm lên nhé, Madeline. Cô sẽ cho tôi biết tin tức chứ?
– Làm sao tôi có thể làm chuyện đó đây, Gaspard? Anh làm gì có điện thoại.
Anh nghĩ bụng, suốt hàng thế kỷ, con người đã trao đổi thư từ với nhau mà chẳng cần đến điện thoại đấy thôi, nhưng anh giữ ý không nói nhận xét ấy ra.
– Để lại cho tôi số điện thoại của cô đi, tôi sẽ gọi cho cô.
Trong đầu anh hiểu rằng cô không đặc biệt thiết tha gì với chuyện này, nhưng rốt cuộc cô cũng nhượng bộ và anh chìa cho cô cái cổ tay băng bó của mình để cô viết số điện thoại lên đó, vội vã, như thể anh mới mười bốn tuổi.
Rồi cô bước qua cổng kiểm soát an ninh, gửi tới anh một cái vẫy tay từ biệt cuối cùng và đi khỏi mà không ngoái lại. Anh dõi theo cho đến khi cô khuất dạng. Thật kỳ lạ khi từ biệt cô như thế. Thật kỳ lạ khi tự nhủ rằng mọi chuyện đã kết thúc và anh sẽ không gặp lại cô nữa. Họ mới chỉ trải qua hai ngày cùng nhau, nhưng anh có cảm tưởng đã quen biết cô từ rất lâu rồi.
Khi cô khuất dạng rồi, anh vẫn đứng đó nhiều phút liền, bất động, như gã trai gàn dở. Anh sẽ làm gì bây giờ? Tranh thủ đang có mặt tại sân bay để tới một quầy Air France mua một tấm vé đi Athens, ý tưởng này thật hấp dẫn. Trong vài giây, anh đùa giỡn với ý nghĩ chuồn khỏi địa ngục Paris, khỏi nền văn minh mà anh căm ghét này và nó cũng chẳng ưa gì anh. Nếu đáp một chuyến bay nội trong hôm nay, thì ngay tối nay anh sẽ gặp lại hòn đảo Hy Lạp của mình. Một cuộc sống cô độc cách xa mọi thứ gây tổn thương: đàn bà, đàn ông, công nghệ, ô nhiễm, tình cảm, hy vọng. Anh ngập ngừng hồi lâu, nhưng rốt cuộc cũng từ bỏ kế hoạch này. Điều gì đó giữ anh lại Paris, tuy anh còn chưa biết đó là gì.
Anh ra khỏi sảnh sân bay, rồi đứng vào hàng người đang chờ taxi. Quãng thời gian chờ đợi không lâu như anh e sợ. Anh bảo tài xế chở mình về quận 6. Rồi anh nghe thấy mình nói một câu mà anh không bao giờ nghĩ mình sẽ nói ra:
– Anh có thể thả tôi xuống trước một cửa hiệu Orange được không? Tôi cần mua một chiếc điện thoại di động.
Trong suốt hành trình, anh mải miết suy nghĩ rồi hồi tưởng trong tâm trí câu chuyện khủng khiếp Pénélope Lorenz đã kể anh nghe mà lòng trĩu nặng.
Một câu chuyện phủ đầy xác chết, máu và nước mắt.
Pénélope
1.Julian! Con làm ơn nhanh lên nào!
Khu Tây Thượng Manhattan. Ngày 12 tháng Mười hai năm 2014. 10 giờ sáng.
Tôi là Pénélope Kurkowski, vợ của Lorenz. Nếu là phụ nữ, chắc hẳn bạn đã nhận ra, cách đây vài năm, trên bìa tạp chí Vogue, Elle hoặc Harper’s Bazaar. Và bạn đã căm ghét tôi. Bởi vì tôi cao ráo hơn, mảnh mai hơn, trẻ trung hơn bạn. Bởi vì tôi đẳng cấp hơn, nhiều tiền hơn, dáng đẹp hơn. Nếu là đàn ông, có lẽ bạn từng gặp tôi trên phố và đã ngoái nhìn theo tôi. Và dù trình độ học vấn hay sự tôn trọng mà trên lý thuyết bạn khẳng định sẽ dành cho phụ nữ có là thế nào, thì trong sâu kín trí não đàn ông bẩn thỉu của mình, hẳn bạn vẫn nghĩ đến điều gì đó đại loại từ “Cô ta quá ngon” cho đến “Con điếm, mình sẽ chén nó ngon lành”.
– Julian, đi nào!
Taxi thả chúng tôi xuống góc phố Tây Công viên Trung tâm giao với phố 71. Chỉ còn chưa đầy hai trăm mét nữa là tới khách sạn nơi Philippe đang chờ tôi, nhưng thằng con trai quẩn chân tôi vẫn đứng im như phỗng.
Tôi ngoái nhìn. Julian mặc chiếc áo khoác dày sụ ngồi trên bậc thềm đá của một trong những ngôi nhà bằng đá sa thạch đỏ đẹp đẽ bao quanh con phố. Vẻ mơ mộng viển vông, thằng bé đang tròn xoe mắt ngạc nhiên với làn hơi nước ngưng đọng trong không khí giá lạnh, ngay khi nó mở miệng. Thằng bé có nụ cười ngây ngô để lộ hàm răng thưa và như thường lệ, mang theo con chó bông hôi hám chỉ chực rách vụn ra.
– Giờ thì đủ rồi đấy!
Tôi quay bước kéo tay thằng bé để buộc nó đứng dậy. Thằng bé trào nước mắt ngay khi tôi động đến nó. Vẫn màn kịch đó, vẫn những lời than vãn ai oán đó.
– Con thôi ngay đi!
Đứa trẻ này khiến tôi phát bực! Mọi người đều ngây ngất trước nó và dường như chẳng ai nhận ra cuộc sống hằng ngày của tôi với thằng bé là như thế nào. Ích kỷ một cách vô phép. Không bao giờ biết ơn về những gì người ta làm cho nó.
Tôi toan dọa lấy mất con chó bông của thằng bé thì một chiếc xe tải nhỏ màu trắng chờm lên vỉa hè rồi dừng lại ngay phía sau chúng tôi. Tài xế lao vọt ra khỏi xe rồi mọi chuyện nối tiếp nhau với tốc độ nhanh tới mức tôi không kịp có cả thời gian lẫn sự nhanh trí để kháng cự chút nào. Một bóng đen chồm lên tôi, thoi một cú đấm vào giữa mặt tôi, một cú khác vào bụng, cú thứ ba vào mạng sườn trước khi đẩy tôi vào khoang sau chiếc xe thùng. Tôi thở không ra hơi. Người gập làm đôi, tôi đau tới mức thậm chí không kêu nổi. Vừa ngóc đầu lên, mặt tôi đã phải hứng toàn bộ sức nặng cơ thể của con trai tôi, thằng bé vừa bị người ta quẳng vào thùng xe. Phần xương sọ phía sau của thằng bé làm sống mũi tôi vỡ toác. Một suối máu tuôn ra trên mặt tôi. Mắt tôi bỏng rát và hai mí mắt tôi khép lại.
2.Khi tỉnh lại, tôi đang ở trong một khung cảnh tranh tối tranh sáng, bị nhốt trong một nhà tù với những chấn song sắt hoen gỉ. Một cái chuồng dành cho súc vật đúng nghĩa, chật chội, bẩn thỉu, nhơ nhớp. Julian đang nằm vắt lên người tôi. Nước mắt nước mũi tùm lum và máu me bê bết. Tôi ôm chặt thằng bé vào lòng và hiểu ra rằng máu trên mặt thằng bé chính là máu của mình. Tôi ủ ấm cho thằng bé, cam đoan với thằng bé rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi, bố sẽ tới giải cứu mẹ con mình. Tôi ôm hôn thằng bé, tôi ôm hôn thằng bé, tôi ôm hôn thằng bé. Trong một giây, tôi hối hận về toàn bộ sự hằn học cay nghiệt thường xuyên trút lên thằng bé. Và tôi linh cảm rằng chuyện đang xảy ra với chúng tôi có lẽ là hậu quả từ những lầm đường lạc lối của tôi.
Tôi nheo mắt lại rồi chăm chú quan sát cảnh tăm tối đang bao quanh chúng tôi. Hai chiếc đèn công trường treo trên những thanh xà kim loại đang tỏa ra một thứ ánh sáng yếu ớt cho phép suy đoán rằng chúng tôi đang ở trong một dạng nhà kho nơi chứa tạm những đồ dùng thiết bị liên quan đến vườn thú, rạp xiếc hoặc thảo cầm viên. Tôi nhác thấy những cái chuồng khác, những cuộn lưới sắt đan sợi, một chồng ghế sắt cũ, những núi đá giả, những khay gỗ mục mủn, những cây nhỏ bằng nhựa.
– Con tè dầm rồi mẹ ơi, Julian khóc.
– Không sao đâu, con yêu.
Tôi quỳ gối bên cạnh thằng bé, trên nền bê tông cứng đanh và lạnh băng. Không khí nồng nặc mùi ẩm mốc, mùi hăng hắc và ôi khét của nỗi sợ hãi. Tôi nhặt con chó bông đang lăn lóc dưới đất và sử dụng nó như một con rối.
– Nhìn thú bông này, nó muốn được hôn!
Trong vài phút, tôi cố gắng chơi đùa với thằng bé, cùng lúc thử tạo ra một bong bóng âu yếm dịu dàng bảo vệ thằng bé khỏi cơn điên loạn này. Liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Thậm chí còn chưa đến 11 giờ 30. Chúng tôi ở trên xe không lâu, vậy là chúng tôi đang cách Manhattan chẳng bao xa. Có lẽ đang ở New Jersey, Bronx hay Queens gì đó… Tôi tin chắc kẻ bắt cóc hai mẹ con tôi không hành động theo kiểu hú họa. Kẻ đó đã cực kỳ liều mạng khi tấn công chúng tôi giữa trung tâm thành phố. Vậy thì, đối tượng kẻ đó tìm kiếm chính là chúng tôi. Kẻ đó muốn nhắm tới chính chúng tôi: gia đình Lorenz. Nhưng vì lý do gì nhỉ? Một món tiền chuộc chăng?
Tôi bấu víu vào ý nghĩ này bởi lẽ nó khiến tôi yên tâm. Sean sẽ trả bất cứ giá nào để đưa chúng tôi ra khỏi đây. Rốt cuộc, có lẽ không phải vì tôi, mà là vì con trai ông ấy, đó là điều chắc chắn. Dù số tiền chuộc có là bao nhiêu chăng nữa, ông ấy cũng sẽ nộp đủ. Sean có cỗ máy in tiền của riêng mình: ba nhát cọ trên một tấm toan và ông ấy sẽ tìm ra một bầy cừu sẵn sàng chi tiền triệu. Những kẻ đầu cơ, những thương gia, những triệu triệu phú, những *hedge funders, những tài phiệt Nga, đám nhà giàu mới nổi Trung Quốc: tất cả bọn họ đều muốn có một bức Lorenz trong bộ sưu tập riêng. Một bức Lorenz! Một bức Lorenz! Một bức Lorenz còn giá trị hơn vàng ròng! Giá trị hơn cả nghìn dây ma túy. Giá trị hơn một chiếc máy bay riêng hay một căn biệt thự tại Bahamas.
Chú Thích
Những nhà đầu tư chuyên nghiệp và am hiểu thị trường thường tham gia vào loại quỹ đầu tư ít phổ biến với công chúng và không bị quản chế quá chặt.
– Đồ đĩ non!
Bị bất ngờ, tôi hét lên một tiếng khiến Julian òa khóc.
Một mụ đàn bà đang lại gần cái chuồng mà tôi không hề hay biết.
Phì nộn, lưng gù, chân tập tễnh. Tôi đoán mụ ta mắc chứng lão hóa sớm: mái tóc dài, xam xám và cứng quèo như rễ tre, sống mũi khoằm như mũi diều hâu, đôi mắt chất chứa nộ khí. Khuôn mặt đầy nếp nhăn đáng sợ của mụ ta phủ kín các hình xăm: sọc chữ chi, thánh giá, hình tam giác, hình tròn, tia chớp, giống như những hình vẽ trên mặt thổ dân da đỏ Mỹ.
– Bà… là ai?
– Câm miệng, đồ đĩ non! Mày không được phép nói!
– Tại sao bà làm vậy?
– CÂM MIỆNG! mụ ta thộp lấy họng tôi.
Với sức mạnh của một con bò mộng, mụ ta kéo tôi về phía trước rồi dộng mặt tôi nhiều lần vào những thanh sắt gỉ. Con trai tôi rú lên. Mũi tôi lại bắt đầu chảy máu. Tôi chịu đựng những cú dộng này không chút kháng cự, nhưng tôi hiểu ra mụ ta chẳng hề cân nhắc thể lực của mình.
Cuối cùng mụ ta cũng buông tôi ra. Khuôn mặt đầm đìa máu, tôi ngã quỵ xuống sàn. Trong khi Julian lao tới ôm cổ tôi, tôi nhận ra mụ da đỏ đang lục lọi trong một hộp dụng cụ cũ mòn hoen gỉ.
– Tới đây! mụ ta hét lên.
Tôi chùi bớt máu đang nhỏ giọt vào mắt rồi ra hiệu cho Julian tránh xa về phía góc trong cùng của cái chuồng.
Chớ làm mụ ta phật lòng.
Mụ ta tiếp tục tìm bới, lấy ra lần lượt một cây kìm cắt bu loong, một cái bào, một cái kẹp ván, một cái kìm sắc.
– Cầm lấy cái này, mụ ta thét bảo trong lúc đưa cho tôi một cái kìm cắt.
Vì tôi vẫn không nhúc nhích, mụ ta bực lên và rút từ cái bao mụ ta đeo ở thắt lưng ra một con dao khía đi rừng dài ba chục phân.
Mụ ta túm lấy cánh tay tôi rồi bằng một động tác nhanh gọn, cắt đứt dây đồng hồ đeo tay của tôi. Mụ ta huơ huơ cái đồng hồ trước mặt tôi rồi chỉ kim giây.
– Nghe tao cho kỹ đây, con đĩ. Mày có đúng một phút để mang cho tao một trong những ngón tay của con trai mày. Nếu mày từ chối, tao sẽ vào trong chuồng cắt cổ nó rồi sau đó tao sẽ giết mày.
Tôi khiếp đảm. Thậm chí não tôi còn nghiêm cấm việc mường tượng ra điều mụ ta đang yêu cầu tôi.
– Rốt cuộc, bà không…
– Làm đi! mụ ta hét lên rồi quẳng cái kìm vào mặt tôi.
Tôi sẽ ngất ra đó mất.
– MÀY CÒN BỐN MƯƠI GIÂY NHÉ! MÀY KHÔNG TIN TAO HẢ? NHÌN CHO RÕ ĐÂY!
Mụ ta bước vào chuồng rồi chụp lấy Julian đang nấc lên vì kinh sợ. Mụ ta dắt thằng bé ra trước, con dao khía của mụ ta gí vào cổ họng con trai tôi.
– HAI MƯƠI GIÂY.
Bụng tôi quặn lên. Tôi rên rỉ:
– Tôi sẽ không bao giờ làm vậy được đâu.
– MÀY TỰ XOAY XỞ ĐI!
Tôi hiểu là mụ ta sẽ chuyển từ đe dọa sang hành động và tôi chẳng còn lựa chọn nào khác.
Tôi nhặt lấy cây kìm cắt rồi tiến về phía mụ ta và về phía Julian đang bắt đầu gào lên.
– Không, mẹ ơi! Không, mẹ ơi! Đừng làm vậy! ĐỪNG LÀM VẬY!
Trong lúc bước về phía con trai tôi, tay cầm một thứ vũ khí, tôi hiểu ra hai điều.
Chỗ này là địa ngục.
Địa ngục sẽ còn kéo dài.
3.Và địa ngục này còn tệ hại hơn cơn ác mộng tệ hại nhất của bạn.
Sau khi bắt tôi làm điều gớm ghiếc kia, con quỷ đó đã mang con trai tôi đi. Để chống lại cơn thịnh nộ điên cuồng của tôi, mụ da đỏ đã đấm đá tôi đến ngất ra đó. Vào bụng, vào họng, vào ngực. Khi tôi tỉnh lại, mụ đã cho tôi ngồi vào một chiếc ghế tựa bằng kim loại và đang quấn quanh nửa thân trên của tôi bằng dây thép gai, trói tôi thật chặt.
Nhiều giờ đã trôi qua mà tôi không thể nói là bao lâu. Tôi căng tai ra nhưng không nghe thấy Julian nữa. Chỉ hít thở nhẹ thôi cũng khiến tôi đau.
Những mấu nhọn của dây thép gai cào xé da thịt tôi.
Tôi ngất đi, tôi tỉnh lại, tôi đã mất khái niệm về thời gian. Tôi chảy máu ròng ròng. Tôi ngâm trong cứt đái của tôi, nước mắt của tôi, nỗi sợ hãi của tôi.
– Nhìn đi, đồ đĩ non!
Tôi giật mình ra khỏi cơn mê lịm.
Mụ da đỏ xuất hiện trong ánh sáng. Mụ đang bế Julian bằng một cánh tay. Bàn tay kia, mụ đang cầm con dao đi rừng. Thậm chí tôi không kịp kêu lên. Lưỡi dao vung lên, ánh lên một tia sáng bồn chồn trước khi bổ nhào xuống con trai tôi. Một lần, hai lần, mười lần. Máu phọt ra. Tôi nấc lên. Tôi rống lên. Những mấu sắt nhọn khoét thủng da thịt tôi, toàn thân. Tôi phát uất. Tôi nghẹn thở. Tôi muốn chết.
– ĐỒ ĐĨ NON!
11Cursum Perficio
Bản ngã không phải chủ nhân trong ngôi nhà của riêng nó.
Sigmund FREUD
1.Khi quay về phố Cherche-Midi, Gaspard tình cờ chạm trán Sean Lorenz.
Bức chân dung khổ lớn của họa sĩ – bức ảnh đen trắng được nữ nhiếp ảnh gia người Anh Jane Bown chụp – áp đặt sự hiện diện nghiêm trang của ông, làm đông đặc phòng khách trong bầu không khí yên lặng sắc lạnh và tạo cảm giác không rời mắt khỏi bạn.
Thoạt đầu, Gaspard chọn cách lờ nó đi rồi chuồn vào bếp cắm bình pha cà phê mà anh đã mua khi rời khỏi cửa hàng bán điện thoại. Để tự làm mình tỉnh táo, anh pha một tách ristretto kiểu Ý và uống một hơi cạn sạch, rồi đến một tách lungo chắc sẽ kéo dài lạc thú.
Tách cà phê trên tay, anh quay ra phòng khách và lại đụng phải ánh mắt của người họa sĩ. Lần đầu tiên trông thấy bức ảnh này, anh có cảm giác gương mặt Sean đang nói với mình Biến mẹ mày đi. Còn lúc này, anh càng có cảm giác là đôi mắt ông, lấp lánh và xuyên thấu, đang nói một ngôn ngữ khác và cầu xin anh: Hãy giúp tôi.
Anh cưỡng lại vài giây trước lời kêu gọi rồi bỗng động lòng trắc ẩn:
– Ông muốn tôi giúp ông thế nào đây? Con trai ông chết rồi, ông thừa biết như thế mà.
Anh ý thức được rằng mình thật ngu ngốc khi nói chuyện với một bức ảnh, nhưng nhu cầu phân trần đang giày vò anh. Cũng có cả nhu cầu tập hợp những suy nghĩ của bản thân và điểm lại tình hình.
– OK: người ta không tìm thấy xác cậu nhóc, anh nói tiếp, nhưng điều này không có nghĩa là cậu nhóc còn sống. Câu chuyện về kinh nghiệm cận tử của ông không hề logic, hãy thừa nhận điều ấy.
Gương mặt nghiêm trang tiếp tục lặng lẽ nhìn anh chăm chú. Gaspard bịa ra cho nó một câu trả lời: Nếu chính con trai anh chết, anh tin là…
– Tôi nào có con trai, anh bác bẻ.
– Hãy giúp tôi.
– Ông đang làm phiền tôi đấy.
Một câu trong bài phỏng vấn của Lorenz với Jacques Chancel trở lại vang vọng trong tâm trí anh. Ở cuối cuộc trò chuyện, nhà báo đã hỏi họa sĩ về mục đích tối hậu của mọi nghệ sĩ. Trở nên bất tử, Sean đã trả lời không chút ngập ngừng. Điều có thể bị coi là sự dí dỏm mang tính hoang tưởng tự đại này đã mang một ý nghĩa hoàn toàn khác khi Lorenz nói rõ chủ định của mình: “Bất tử tặng bạn cơ hội chăm lo lâu nhất có thể cho những người thân yêu của bạn.”
Vì cứ thách thức bức chân dung, Gaspard cảm thấy hơi chóng mặt và bị ảo giác: gương mặt người họa sĩ chồng chéo lên các đường nét của bố anh và nhắc đi nhắc lại lời thỉnh cầu của ông: Hãy giúp tôi. Nhà soạn kịch chớp chớp mắt để làm tiêu tan cơn khó ở của mình. Triệu chứng rối loạn thị lực giảm dần rồi biến mất.
Được giải thoát khỏi sự chi phối của hai người đàn ông, anh quay về hang ổ của mình ở tầng trệt, cởi đồ, tháo lớp bông băng rồi đi tắm vòi sen. Anh hiếm khi tắm gội vào giữa buổi chiều, nhưng sự sôi sục và biến động gắn với những sự kiện đêm hôm trước đã khiến anh mất ngủ. Nếu cơn mệt mỏi lên đến đỉnh điểm đánh úp Gaspard ngay khi anh về nhà, thì nước lạnh lại giúp gột rửa đôi chút cảm giác kiệt quệ trong anh. Trong khi Gaspard cẩn thận lau khô cái nẹp tay, hình ảnh phản chiếu trong tấm gương lấm chấm những vệt đen khiến anh mếch lòng: râu tóc lông lá xồm xoàm, bệu mỡ.
Gaspard tìm thấy trong ngăn kéo tủ ở phòng tắm một chổi cạo râu, một bàn cạo và kem bọt kiểu cũ. Bất chấp hai bàn tay đang băng bó, anh bắt đầu dùng kéo loại bỏ quầng râu quai nón dày rậm của mình, cạo râu thật nhẵn và cắt phăng những món tóc. Việc vệ sinh cơ thể cho anh cảm giác dễ thở hơn. Nó cũng trút bỏ khỏi anh toàn bộ mong muốn mặc lại chiếc áo sơ mi kẻ ca rô và quần nhung túi hộp.
Mặc quần đùi và áo may ô ôm sát, anh bước vào phòng thay đồ sát cạnh phòng ngủ lớn nhất của ngôi nhà. Giống như Steve Jobs hay Mark Zuckerberg, Sean Lorenz là tín đồ của capsule wardrobe – tủ quần áo bất biến. Trong trường hợp này là khoảng một tá vest Smalto từ đen tới xám sáng và hàng loạt sơ mi màu trắng vải popeline bông cổ cồn với cúc ánh xà cừ. Mặc dù trông Gaspard có hơi béo tốt nhưng vóc dáng anh không khác lắm so với họa sĩ. Anh mặc một chiếc áo sơ mi rồi một bộ com lê và lập tức cảm thấy thoải mái lạ lùng, như thể vừa nhẹ đi được nhiều kí lô.
Trong một ngăn kéo tủ, anh phát hiện ra vài lọ nước hoa để cạnh những chiếc thắt lưng da cuộn lại. Năm hộp giấy đã hơi ngả vàng in nhãn hiệu Pour un homme của Caron, một vài trong số đó vẫn còn nguyên giấy bóng kính. Anh còn nhớ một giai thoại mà Pauline đã kể cho anh nghe để minh họa cho tính cách cuồng ám của Lorenz. Loại nước hoa này là món quà đầu tiên Pénélope tặng cho chồng tương lai khi mối quan hệ của họ bắt đầu. Sean đã không bao giờ thôi xức nó, nhưng vì tin chắc công thức pha chế đã bị thay đổi trong quá trình sản xuất, ông liền săn lùng trên eBay loại nước hoa này và mua bằng sạch tất cả những chai được sản xuất năm 1992 mà ông tìm thấy.
Gaspard mở một chai ra rồi xịt. Mùi oải hương và vani mang nét chân phương và phi thời không hề khiến anh chán ghét. Đúng lúc rời khỏi phòng thay đồ, anh thoáng thấy hình ảnh phản chiếu của mình trên tấm gương soi có chân và bỗng có cảm giác đang ngắm nhìn một người khác. Một phiên bản Lorenz tròn xoay hơn và ít nóng nảy hơn. Để hoàn thiện hiệu ứng này, anh cất cặp kính đang đeo vào ngăn kéo đựng nước hoa. Hoàn toàn tự nhiên, anh không khỏi nghĩ đến một trong những bộ phim mình yêu thích – Chóng mặt – và cuộc tìm kiếm điên rồ của nhân vật Scottie do James Stewart thủ vai. Một người đàn ông cố gắng biến đổi vị hôn thê mới của mình để khiến cô giống với tình yêu vĩ đại đã mất của anh ta. Việc tìm cách chiếm chỗ những người quá cố có thể hết sức nguy hiểm, Hitchcock đã cảnh báo chúng ta thông qua phần kết cuộc. Nhưng vào khoảnh khắc này, Gaspard không bận lòng đến chuyện ấy. Anh vuốt phẳng những nếp li của chiếc áo vest đang mặc trên người rồi nhún vai rời khỏi phòng.
2.Ngay ngày đầu tiên, có điều gì đó đã khiến Gaspard sửng sốt: tại sao Bernard Benedick, người thừa kế kiêm thực hiện di chúc của Sean, lại chọn cách cho thuê ngôi nhà trong khi vẫn để lại đó chừng ấy đồ dùng cá nhân của người họa sĩ như vậy? Ngày hôm nay, câu hỏi ấy xuất hiện trở lại trong khi anh thơ thẩn ở phòng ngủ xưa kia vốn thuộc về Lorenz và Pénélope. Hành động này gây ra một cảm giác mâu thuẫn. Vừa dễ chịu khi được ở trong một nơi chốn quen thuộc; vừa bồn chồn nôn nao hơn khi thấy mình giống như một kẻ rình mò nhìn trộm. Gaspard chọn cách không bận lòng với những ngại ngùng đó và chấp nhận mang tiếng kẻ xâm phạm đời tư – mình có lý do chính đáng kia mà, anh tự biện minh như vậy. Anh tiến hành lục soát triệt để căn phòng, mở tất cả tủ tường, ngăn kéo, thăm dò khắp mặt tường, thậm chí còn kiểm tra các thanh ván lát sàn bất chấp sự vụng về nhất định vì vết thương ở hai bàn tay. Những gì anh thu hoạch được vô cùng ít ỏi. Dẫu sao anh cũng tìm ra một tủ con nhiều ngăn kéo gắn bánh xe chứa đầy giấy tờ và phong bì bên dưới bàn làm việc bằng gỗ cẩm lai.
Anh kiểm tra kỹ bên trong, phát hiện ra những bài báo trích từ các trang web tin tức của báo chí chính thống có liên quan xa gần tới cái chết của Julian. Vẫn những bài báo trên tờ New York Times, Daily News, Post hoặc Village Voice mà Gaspard đã đọc ngày hôm trước trên máy tính của Madeline. Không có gì quá mới mẻ, ngoại trừ lời khẳng định rằng trước khi qua đời, Lorenz đã lại vùi đầu vào cuộc điều tra về cái chết của con trai ông. Ngạc nhiên hơn, cái tủ này còn chứa đựng thư từ mà họa sĩ tiếp tục nhận được sau khi chết. Những hóa đơn truyền thống của Điện lực Quốc gia và nhà mạng Orange, hàng núi thư quảng cáo, những thư từ của Ngân hàng Nhà nước đeo đẳng bạn muôn đời…
Tiếp giáp với phòng ngủ khép kín của bố mẹ là cửa phòng ngủ của Julian. Gaspard ngập ngừng một hồi nơi ngưỡng cửa trước khi chấp nhận thử thách.
Hãy giúp tôi.
Anh cố gắng gạt cảm xúc của mình sang bên rồi tiến vào căn phòng. Được bố trí ở tầng trệt ngay sát vườn, đó là một căn phòng vuông vắn, xinh xắn và sáng sủa, với sàn gỗ được mài sạch và đồ đạc sơn theo các gam màu phấn. Trong không gian tĩnh lặng tựa nhà thờ, những tia nắng đổ vào qua các ô cửa sổ soi sáng bừng một chiếc giường trẻ em phủ chăn màu be, làm ánh hạt bụi trên bề mặt đánh xi của một giá sách dùng làm nơi cất giữ những cuốn sách tranh và những chiếc ô tô sưu tập nhỏ xíu. Một bức tranh gốc của *Norman Rockwell.
Chú Thích
(1894-1978): họa sĩ minh họa người Mỹ, gắn liền với những trang bìa tạp chí Saturday Evening Post trong suốt giai đoạn 1916-1960.
Không hy vọng tìm thấy gì trong căn phòng này, Gaspard vẫn đứng đó hồi lâu, bất động, như tại một nơi hành hương bí mật. Nơi này chẳng có gì nguy hại. Trái lại, căn phòng dường như đang chờ cậu nhóc quay về. Chẳng bao lâu nữa, cậu nhóc sẽ đi học về, sẽ mở các ngăn tủ hốc tường để lấy ra những bộ Lego, tấm bảng thần kỳ, những mô hình khủng long nho nhỏ… Cảm giác này dai dẳng trong tâm trí Gaspard cho tới khi anh nhìn thấy một con chó bông lấm tấm vết máu đặt trên gối.
Gaspard đứng sững lại. Đây có phải món đồ chơi Julian mang theo khi bị bắt cóc không? Nếu đúng là vậy thì tại sao con thú bông – một vật chứng – lại vẫn còn ở đây?
Anh cầm lấy con vật bằng cả hai bàn tay bị thương. Con chó có một khuôn mặt vừa buồn cười vừa hiền lành không mấy hợp với vệt máu khô dính trên mõm nó. Gaspard đưa con thú bông lại sát mặt mình và bỗng nhận ra rằng đó không phải máu, mà chắc chắn là sô cô la. Bấy giờ anh đã hiểu ra sự nhầm lẫn của mình: mánh kinh điển của các bậc cha mẹ khéo xoay xở để có một con thú bông thay thế. Trên mõm con chó, chẳng có dấu vết nào về mùi hăng hắc của nỗi sợ hãi. Ở đó chỉ có mùi của thời thơ ấu, ngọt ngào và ấm áp, và chắc hẳn đó là lý do Lorenz giữ nó lại như một thánh tích: hương thơm của món bánh bích quy vừa ra lò vốn gợi ra những hình ảnh yên bình trong cuốn sách tập đọc, một bông lúa mì chín, lớp vỏ màu nâu gai góc của những hạt dẻ, những chiếc lá tiêu huyền bay xập xòe trong làn gió ấm. Những khoảnh khắc chớp nhoáng mang tới cho Gaspard một niềm tin chắc tuyệt đối: một con đường đang mở ra phía trước anh và anh sẽ đi tới cùng hành trình này, bất chấp hậu quả có như thế nào chăng nữa.
3.“Chín tháng mùa đông, ba tháng địa ngục.” Câu ngạn ngữ cổ của Tây Ban Nha là điều bất công thường gặp nhất: trời chỉ thực sự mưa có mười ngày trong năm tại Madrid. Rủi thay, ngày 22 tháng Mười hai năm 2016 này lại là một ngày trong số đó và khi hạ cánh xuống thủ đô Tây Ban Nha, Madeline đã chứng kiến một thứ thời tiết còn chẳng được ôn hòa bằng Paris.
Sau một chuyến bay lận đận – ở Charles-de-Gaulle, trong khi máy bay của cô sắp sửa cất cánh, nó lại mất lượt xuất phát vì một hành khách bị đau cần phải cho xuống –, Madeline đã hạ cánh xuống Madrid-Barajas trễ gần hai tiếng để rồi dính vào cả loạt những trò vui vốn có của dạng hành trình này. Kiểu những rắc rối vẫn khiến Gaspard mất kiểm soát: sân bay đông nghịt, những khách đi nghỉ bực bội, cảnh chờ đợi liên miên, cảm giác ê chề vì bị biến thành gia súc-người. Sau khi đã chịu đựng chuyến xe buýt chật chội lúc vừa xuống máy bay, cô lại gặp ngay phải chiếc taxi cũ mèm nồng nặc mùi thuốc lá và mồ hôi. Một chiếc xe cà khổ với các cửa kính đọng hơi nước bởi không khí ô nhiễm mà cô đã chịu đựng suốt gần một giờ đồng hồ cùng với những vụ tắc đường của tuầ