← Quay lại trang sách

VUA CÂY TRĂN Thứ Bảy ngày 24 tháng Mười hai-16-Đêm nước Mỹ

Có thứ gì đó trong không khí New York khiến cho giấc ngủ trở nên vô dụng.

Simone de BEAUVOIR

1.

Bốn giờ sáng và Madeline đã khỏe khoắn tỉnh táo.

Cô đã ngủ mười tiếng liên tục một giấc ngủ bồi sức nhất: nặng, sâu, được thanh lọc khỏi mọi cơn ác mộng và những bóng ma. Cơn đau ở bụng cô không biến mất, nhưng đã bớt dữ dội. Thậm chí là có thể chịu đựng được. Madeline đứng dậy, mở rèm ra để thấy phố Greenwich đã nhộn nhịp, rồi xa hơn, giữa hai tòa nhà, là dòng chảy âm u mờ mịt và băng giá của sông Hudson.

Cô liếc nhìn điện thoại di động: ba cuộc gọi nhỡ của Bernard Benedick. Ông chủ phòng tranh muốn gì ở cô nhỉ? Dẫu sao chăng nữa, ông ấy cũng phải đợi thôi, vì ngay lúc này cô đang đói ngấu.

Quần jean, áo phông, áo nỉ liền mũ, áo khoác ngắn. Khi rời khỏi phòng khách sạn, cô thấy trên thềm nghỉ chiếc phong bì có dấu niêm phong. Cô mở nó ra trong thang máy: Coutances đã cất công thảo cho cô một bản báo cáo viết tay dài ba trang giấy về cuộc viếng thăm của anh tới nhà Isabella, em họ của Adriano Sotomayor. Và đề nghị cô gọi cho anh ngay khi có thể để thống nhất địa điểm gặp gỡ. Đã quyết tâm không làm gì chừng nào chưa ăn xong bữa sáng, cô gấp các trang thư lại rồi nhét chúng vào túi áo để sau mới đọc.

Khách sạn mới chỉ đang trong cơn gà gật. Vào buổi sáng ngày 24 tháng Mười hai này, các khách lưu trú vốn chỉ quá cảnh tại New York đã xuất phát rồi. Ở quầy lễ tân, hai nhân viên phụ trách hành lý trẻ măng đang bận rộn chất các hòm xiểng lên nhiều xe cộ, một số xe xuất phát ra sân bay, các xe khác tới một khu trượt tuyết trên dãy Appalachia.

Madeline rời tiền sảnh tới phòng khách ở tầng trệt nơi một ngọn lửa đang cháy tí tách trong lò sưởi. Được soi chiếu bởi một thứ ánh sáng khuếch tán, sảnh khách sạn Bridge Club giống với một câu lạc bộ kiểu cổ của Anh: những chiếc trường kỷ Chesterfield và ghế bành nhồi nệm khâu chần, giá sách bằng gỗ gụ, các mặt nạ châu Phi, các đầu động vật hoang dã được nhồi kiểu tự nhiên. Cô ngồi vào một globe chair: một chiếc ghế bành hình cầu mà các đường nét mang đậm chất thập niên 1960 lạc lõng với phần còn lại trong cách bài trí. Một dạng nhân viên phục vụ mặc chế phục màu trắng đột ngột xuất hiện đằng sau cây thông Giáng sinh hoành tráng tọa lạc sừng sững ngay giữa phòng. Madeline liếc qua thực đơn rồi gọi một tách trà đen và phô mai tươi từ sữa dê cùng crostini. Nói cho cùng, ở Paris và ở Madrid lúc này đã hơn 10 giờ sáng. Bất chấp ngọn lửa đang nổ lét đét trong lò sưởi cách mình chưa đầy một mét, cô vẫn thấy lạnh. Cô vớ lấy một chiếc chăn bằng len thô rồi khoác lên người làm khăn choàng.

Một bà lão ngồi sưởi ấm, mình đã trở nên như thế đấy, cô thở dài nghĩ bụng. Rõ ràng là cô không còn bất kỳ grinta nào nữa, không còn bất kỳ ngọn lửa thiêng nào nữa. Cô nhớ lại bài viết trên tạp chí New York Times mà Coutances đã cho cô xem ở Madrid. Người phụ nữ trẻ kiên định, ngùn ngụt tinh thần chiến đấu kiêm nữ chiến binh không kiệm sức và chẳng bao giờ vụn vỡ đã biến đi đâu mất rồi? Cô thầm nhớ lại trong đầu bức ảnh minh họa bài báo: gương mặt linh hoạt hơn, những đường nét kiên định, ánh mắt luôn phục kích. Cô nàng Madeline đó đã bốc hơi mất rồi.

Cô nhớ lại những cuộc điều tra đáng chú ý nhất, tới cảm giác điên rồ đó, cảm giác ngất ngây xâm chiếm khi bạn cứu mạng được ai đó. Cảm giác khoan khoái ngắn ngủi chụp lấy bạn và gây cho bạn ấn tượng, trong khoảnh khắc, rằng một mình bạn có thể cứu chuộc tất cả thói hư tật xấu của loài người. Đời cô chưa từng biết đến điều gì mạnh mẽ hơn. Cô nghĩ đến cô bé Alice Dixon mà cô tìm thấy còn sống sau hàng năm điều tra ròng rã, nhưng kể từ đó cô còn chưa gặp lại. Trước cô nhóc đó, từng có một đứa trẻ khác, Matthew Pears, được cô giành giật khỏi nanh vuốt của một động vật săn mồi. Cũng biệt tăm. Ngay cả khi các cuộc điều tra kết thúc tốt đẹp, cảm giác hưng phấn kia vẫn nhanh chóng nhường chỗ cho một sự vỡ mộng. Một sự nhận thức đột ngột rằng, mặc dù chúng nợ cô mạng sống thì những đứa trẻ kia cũng không phải con cô. Một sự sa sút nhanh chóng khiến cô có nhu cầu tiến hành một cuộc điều tra khác. Một mũi tiêm adrenalin mới giống như thuốc chống trầm cảm. Một vòng luẩn quẩn không hồi kết.

2.

Nhân viên phục vụ lại xuất hiện với cái khay đựng bữa sáng rồi đặt nó xuống mặt bàn thấp trước mặt Madeline. Cô ăn bánh mứt và uống trà trước ánh mắt trống rỗng của một bức tượng thời tiền Christophe Colomb đang đứng gác trên một chiếc kệ đối diện cô. Bản sao vật thờ trong *Bức tượng tai vỡ…

Chú Thích

Tập 6 trong loạt truyện tranh Những chuyến phiêu lưu của Tintin.

Madeline vẫn không thể tin được những điều Coutances kể cho cô. Hay đúng hơn là cô không muốn chấp nhận hệ lụy của điều đó. Tuy thế những sự việc không hề mơ hồ chút nào: trong lúc tin chắc rằng con trai mình vẫn còn sống, Sean Lorenz đã đọc được bài báo nhắc đến một vài cuộc điều tra trước đây của cô. Thế nên ông tin chắc rằng Madeline có thể giúp mình. Ông đã gọi điện đến Đội Án Tồn thuộc Sở Cảnh sát New York mà không được, rồi ông tranh thủ chuyến đi cuối cùng của mình đến New York để tới gặp cô bằng xương bằng thịt. Ở đây, ông đã bị quật ngã bởi một cơn trụy tim rồi quỵ xuống ngay giữa Phố 103. Cách văn phòng cô chỉ vài chục mét.

Chỉ trừ có điều Madeline chẳng biết gì về toàn bộ chuyện này. Cách đây một năm, vào đúng thời điểm ấy, cô đã không còn làm việc cho Sở Cảnh sát New York nữa rồi. Những triệu chứng trầm cảm ở cô khởi phát vào giữa mùa thu. Cuối tháng Mười một, cô xin thôi việc rồi quay về Anh. Tua lại bộ phim này phỏng có ích gì? Ngay cả khi hồi đó cô gặp được Lorenz, thì chuyện đó cũng hoàn toàn không thay đổi được gì. Cô sẽ chẳng tin lời nào trong những lời khẳng định của ông, không hơn gì ngày hôm nay. Cô sẽ chẳng thể giúp ông, không hơn gì ngày hôm nay. Cô không phụ trách vụ án này và không có bất kỳ phương cách nào để điều tra.

Trong khi đang ăn nốt món phô mai tươi, cô bỗng đưa tay ôm bụng. Khỉ thật. Cơn đau đã trỗi dậy. Bụng cô trướng lên như thể cô vừa tăng năm cân trong vòng hai phút. Cô kín đáo nới thắt lưng rộng ra một nấc rồi móc lấy một viên Paracetamol trong túi áo khoác.

Những suy nghĩ của cô lại quay trở về với Gaspard. Ngay cả khi trước mặt anh cô khẳng định điều ngược lại thì Coutances đã dụ được cô. Cô hoàn toàn không đồng tình với những kết luận của anh, nhưng cô phải công nhận ở anh có một sự ngoan cố nhất định và một trí thông minh thực thụ. Chỉ với chút ít tư liệu, anh đã nêu những câu hỏi xác đáng và bước đầu tìm ra những manh mối mà rõ ràng các nhà điều tra dày dạn kinh nghiệm hơn đã để vuột mất.

Cô lấy từ túi áo ra bản báo cáo triệt để và có tìm tòi mà anh đã thảo riêng cho cô. Ba tờ giấy được viết kín hai mặt với sự chuyên cần của học trò và bằng nét chữ nắn nót gần như của phụ nữ – tròn trịa, với những đường vòng to cộ rộng lượng – không mấy khớp với cá tính của nhà soạn kịch. Đọc xong một lượt, Madeline tự hỏi liệu có nên tin vào lời khẳng định theo đó Sean đã rời khỏi nhà Isabella cùng các tài liệu vốn thuộc về Sotomayor hay không. Nếu chuyện này là đúng, không ai tìm lại được chúng sao? Gần xác Lorenz hay trong phòng khách sạn của ông? Sau một giây ngẫm nghĩ, cô bấm số điện thoại của Bernard Benedick.

Ông chủ phòng tranh không đợi điện thoại đổ chuông lâu đã nhấc máy. Và ông đang giận dữ.

– Cô Greene đấy hả? Cô nói lời mà chẳng giữ lấy lời gì cả.

– Ông đang nói về chuyện gì thế?

– Cô thừa biết rồi còn gì: về bức tranh thứ ba! Bức tranh mà cô đã giữ cho riêng mình! Đúng là cô đã lừa bịp tôi với…

– Tôi chẳng hiểu ông đang nói gì cả, cô ngắt lời ông. Tôi đã nhờ anh Coutances trả lại cho ông cả ba bức tranh rồi mà.

– Anh ta chỉ cho người giao tới tôi hai bức thôi!

Cô thở dài. Coutances đã ngậm tăm không báo cho cô biết!

– Tôi sẽ xem anh ta đã gặp phải chuyện gì, cô hứa. Trong lúc chờ đợi, ông hãy làm rõ giúp tôi việc này. Ông từng nói với tôi rằng khi Lorenz qua đời ông đã thu dọn đồ đạc tư trang của ông ấy tại khách sạn, có đúng không nhỉ?

– Chính xác, quần áo và cuốn sổ lịch.

– Tại khách sạn Bridge Club ở khu TriBeCa phải không?

– Đúng thế, thậm chí tôi đã nài nỉ để được tự mình đi lục tìm trong phòng khách sạn của anh ấy.

– Ông không còn nhớ số phòng nữa đâu nhỉ?

– Cô đùa hay sao? Chuyện cách đây đã một năm rồi!

Một ý tưởng khác thoáng qua đầu cô.

– Khi những nhân viên cứu thương cố gắng hồi tỉnh Lorenz trên Phố 103, ông có biết liệu họ đã tìm thấy đồ đạc cá nhân gì trên người ông ấy không?

Benedick cả quyết:

– Anh ấy chẳng mang theo gì ngoài chiếc ví.

– Ông chưa từng nghe nói đến một chiếc cặp xách hay túi đeo bằng da sao?

Im lặng hồi lâu.

– Đúng là Sean có một chiếc túi đeo chéo không bao giờ rời anh ấy. Một mẫu Berluti cũ mà vợ anh ấy tặng cho. Tôi không hề biết cái túi ấy đã biến đi đâu. Tại sao cô lại hỏi như thế? Cô vẫn đang tiếp tục điều tra sao? Chính là vì bài báo trên tờ Parisien chăng?

– Bài báo nào kia?

– Cô tự xem nhé. Trong lúc chờ đợi, tôi yêu cầu hai người hoàn trả ngay cho tôi bức tranh cuối cùng trong bộ ba!

– Tôi nghĩ ông không thể yêu cầu bất cứ điều gì đâu, Madeline bực dọc dập máy không nói thêm lời nào.

Cô day day hai mí mắt trong lúc cố gắng lần lại lý trí của mình. Nếu câu chuyện Isabella kể cho Coutances nghe là thật, kể từ thời điểm Sean lấy lại tài liệu tại nhà Sotomayor cho đến lúc ông qua đời chưa đầy hai mươi tư giờ. Nhưng thế là đủ để họa sĩ có thời gian chuyển chúng lại cho ai đó. Hoặc giả, đơn giản là ông đã giấu chiếc túi đeo chéo của mình đi. Hành vi này khá tương ứng với hình dung của cô về những ngày cuối đời của Lorenz: một con người cuồng tưởng, biến loạn, hoang tưởng. Nhưng giấu ở đâu kia chứ? Sean không còn điểm mốc nào tại New York nữa; chẳng còn gia đình; chẳng còn bè bạn; chẳng còn nhà cửa. Còn lại một giải pháp. Giải pháp đơn giản nhất: Sean đã giấu những tài liệu đó trong phòng khách sạn.

Thử làm điều gì đó. Ngay lúc này.

Madeline đứng dậy tiến về phía tiền sảnh. Đằng sau quầy gỗ bề thế là Lauren Ashford – như bảng tên cô ghi rõ – đang đứng sừng sững, cô gái cao lớn quá mức và xinh đẹp quá mức dường như đang một mình là hiện thân cho tiện nghi và sự tinh tế của Bridge Club.

– Chào chị.

– Chào cô. Tôi là Greene ở phòng 31, Madeline tự giới thiệu.

– Tôi có thể giúp gì được cho chị?

Giọng Lauren lịch sự, nhưng không mặn mà. Cô ta mặc chiếc váy màu xanh thẫm kỳ dị nên xuất hiện trên bục diễn của Tuần lễ Thời trang hơn là trong tiền sảnh khách sạn. Madeline nghĩ tới trang phục của Nữ hoàng Bóng đêm trong buổi trình diễn vở Cây sáo thần mà cô từng xem tại Covent Garden.

– Cách đây một năm, tuần từ 19 tháng Mười hai, họa sĩ Sean Lorenz đã lưu lại khách sạn của các vị…

– Có thể như vậy lắm, cô ta nói mà không thèm ngẩng đầu lên khỏi màn hình máy tính.

– Tôi muốn biết bấy giờ ông ấy ở phòng nào.

– Thưa chị, tôi không thể tiết lộ dạng thông tin này được.

Lauren nói dằn từng âm tiết. Nhìn gần, kiểu tóc của cô ta có vẻ màu mè đến khó tin, vô số những bím và những dải tết được ghim lại bằng đủ loại cặp và kẹp có đính những hạt đá lấp lánh.

– Tôi hiểu, Madeline thừa nhận.

Thực tế, cô chẳng hiểu gì hết. Thậm chí cô còn cảm thấy một cơn hung hăng đang trào dâng: nắm tóc Nữ hoàng Bóng đêm rồi dộng thật mạnh cho cô ta vỡ sọ trên màn hình máy tính kia.

Cô rút lui rồi ra vỉa hè hút một điếu thuốc. Trong khi một nhân viên phụ trách hành lý mở cánh cửa lớn, cái lạnh bất đồ chụp lấy cô. Cái giá phải trả, cô nghĩ trong lúc tìm bật lửa khắp các túi quần túi áo. Trong màn đêm địa cực, cô cảm thấy điện thoại của mình đang rung lên: hai hồi chuông báo hai tin nhắn đến liên tiếp.

Đầu tiên là một tin nhắn dài ngoằng từ Louisa, nữ y tá người Tây Ban Nha của bệnh viện chuyên ngành hiếm muộn, nó báo cho cô biết là mười sáu noãn bào mà người ta trích của cô đều có thể sử dụng được. Theo Louisa, chuyên viên sinh học của bệnh viện đề xuất thụ tinh phân nửa số đó với tinh trùng của một người hiến vô danh và cho đông lạnh nửa còn lại.

Madeline đồng ý và tranh thủ đề cập đến những cơn đau đang quấy nhiễu cô. Nữ y tá hồi âm tức khắc:

Đó có thể là do chị bị nhiễm trùng hoặc kích thích quá mức. Hãy qua bệnh viện gặp bọn em.

Chị không thể, Madeline viết, chị đang không ở Madrid.

Chị đang ở đâu? Louisa hỏi.

Madeline thà không trả lời. Tin nhắn thứ hai có vẻ là một tin tốt lành. Nó đến từ Dominic Wu.

Chào Madeline. Nếu em vẫn đang ở quanh đây, tầm 8 giờ hãy qua Hoboken Park gặp anh nhé.

Cô chộp ngay lấy cơ hội: Chào Dominic. Đã dậy rồi ư?

Anh đang trên đường tới phòng gym, nhân viên FBI trả lời.

Madeline ngước mắt nhìn trời vẻ ngán ngẩm. Cô đã đọc được ở đâu đó rằng, ngay từ 5 giờ sáng, New York đã tiêu thụ điện rất mạnh, hẳn là phần nào liên quan đến hoạt động của các phòng gym nơi mọi người chăm chỉ tới luyện tập càng lúc càng sớm hơn.

Anh có thông tin cho em hả?

Không nói qua điện thoại nhé, Madeline.

Hiểu rằng mình sẽ không moi được gì thêm, cô kết thúc cuộc trò chuyện: OK, hẹn anh lát nữa.

Điếu thuốc trên môi, cô đành thừa nhận mình đã đánh mất bật lửa. Cô đang định quay vào bên trong thì một ngọn lửa dài phụt lên trước mắt cô, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đã chọc thủng cái lạnh giá buốt của buổi sớm mai.

– Tôi nhặt được nó trong phòng khách. Chị đã để rơi nó trên ghế bành, nhân viên phụ trách hành lý trẻ tuổi nói đoạn đưa ngọn lửa sát vào mặt cô.

Madeline châm thuốc rồi gật đầu ra hiệu cảm ơn cậu ta.

Chàng trai chưa đến hai mươi. Trước đó ít lâu cô đã để ý đến anh chàng: ánh mắt sáng, mớ tóc bất trị, nụ cười lém lỉnh kiểu trai lơ hẳn sẽ khiến các cô gái phát điên.

– Sean Lorenz đã ở phòng 41, anh chàng thông báo trong lúc trả lại cô chiếc Zippo.

3.

Thoạt tiên Madeline ngỡ mình nghe nhầm và đề nghị anh chàng nhắc lại.

– Ông họa sĩ đó ở phòng 41, anh chàng nhân viên phụ trách hành lý tuyên bố. Một căn góc tương tự với căn phòng chị đang ở, nhưng nằm ở tầng trên.

– Làm cách nào cậu biết được chuyện này?

– Tôi chỉ căng tai ra thôi. Tối hôm qua, ở quầy lễ tân, anh Coutances hỏi Lauren cùng câu này và đó là câu trả lời của chị ấy.

Madeline không thể tin được điều này: Coutances đã thành công trong việc bắt bà cô bộ tịch ở quầy lễ tân kia mở miệng! Mẹ kiếp! Cô hình dung rõ ràng cảnh tượng: với chiếc vest Smalto, ánh mắt giống chó Cocker và mùi oải hương, Coutances hẳn đã phải trình diễn một màn quyến rũ thống thiết với cô nàng trẻ măng đó. Nửa ông già khoan dung thích chơi trống bỏi nửa tay nhào lộn đường phố đã luống tuổi. Và trò này đã phát huy tác dụng.

– Anh ta còn hỏi cô ta chuyện gì khác không?

– Anh ta muốn tham quan căn phòng đó, nhưng Lauren không đồng ý.

Madeline không khỏi cảm thấy một sự thỏa mãn nhỏ nhen: sức hấp dẫn của Coutances đâu phải là không giới hạn.

– Cậu tên gì?

– Kyle, anh chàng nhân viên phụ trách hành lý đáp.

– Cậu làm việc ở đây được bao lâu rồi?

– Được một năm rưỡi, nhưng chỉ vào dịp cuối tuần và trong kỳ nghỉ thôi.

– Thời gian còn lại, cậu ở trường đại học hả?

– Vâng, ở Đại học New York.

Ánh mắt anh chàng mang sắc xanh lục thủy như xuyên thấu bạn và nụ cười lanh lợi kiểu quỷ quyệt hơn là nhân từ.

– Mùa hè năm ngoái, một phần tầng năm đã bị ngập lụt, cậu chàng kể lại như thể Madeline đã đặt cho cậu ta một câu hỏi. Thực sự là ngập nặng.

Bất chấp vẻ chưa trưởng thành của cậu ta, Kyle vẫn khiến cô lúng túng. Một trí tuệ sắc bén lấp lánh trong đôi mắt màu khoáng olivin nhưng trong đó cũng phảng phất nét đe dọa.

– Rốt cuộc, là do điều hòa bị hỏng, cậu ta kể tiếp. Một đường ống thoát nước bị tắc. Đã phải làm lại trần của nhiều phòng trong đó có phòng 41.

– Tại sao cậu lại kể cho tôi nghe chuyện này?

– Công việc sửa chữa kéo dài ba tuần. Đúng là may: tôi có mặt ở đó khi đám thợ xây tìm thấy thứ gì đấy trong lớp trần giả. Một chiếc túi đeo chéo bằng da. Vậy nên tôi đã xung phong xin mang nó xuống quầy lễ tân.

– Nhưng cậu đã giữ lại chiếc túi đó cho riêng mình, Madeline đoán.

– Đúng thế.

Không được để đứt mạch. Một phần khác vừa bắt đầu. Hiện tại, đằng sau vẻ quyến rũ ngây thơ của chàng thanh niên này, cô đoán ra thứ khác: sự toan tính, sự đồi bại, điều gì đó lạnh lùng.

– Đó thực sự là một chiếc túi xách rất đẹp, ngay cả khi nó cũ rích và chi chít những vệt màu vẽ. Nhưng đó chính là thứ ngày nay mọi người đều muốn, chị có để ý không? Chẳng ai muốn cái túi mới tinh nữa cả. Như thể tương lai chính là quá khứ vậy.

Cậu ta để câu nói của mình phát huy tác dụng.

– Tôi đã kiếm được 900 đô trên eBay. Chiếc túi đã ra đi tức khắc. Tôi biết chiếc túi thuộc về ai vì tên của chủ nhân được thêu bên trong, như thể ông ấy được người ta tặng nó vậy.

– Cậu đã mở chiếc túi ra chứ?

– Tôi đã nghe nhắc tới Sean Lorenz, nhưng thành thực mà nói, tôi không biết những bức tranh của ông ấy. Vậy nên tôi đã tới xem vài bức tranh của ông ấy ở Bảo tàng Whitney và tôi đã hết sức kinh ngạc. Chúng khiến chúng ta cảm thấy bất ổn bởi chúng…

– Cậu đừng nghĩ là buộc phải tụng thuộc lòng cho tôi nghe những gì cậu đọc được trên Wikipedia, cô ngắt lời cậu ta. Cứ nói cho tôi biết cậu tìm thấy gì trong cái túi đó là được rồi.

Nếu Kyle phật lòng, cậu ta cũng không để lộ ra ngoài. Cậu ta trả lời cô bằng giọng giả bộ ngây thơ:

– Những thứ kỳ lạ. Rùng mình đến nỗi tôi biết sớm muộn gì cũng có ngày ai đó quan tâm đến chúng. Vậy nên hôm qua, khi nghe thấy câu chuyện của anh Coutances, tôi bỗng nhiên hiểu ra, cho nên tôi đã quay về nhà để lấy thứ này.

Giống như một người thích khoe thân hay một người bán đồng hồ rong, cậu ta mở phanh chiếc áo Barbour có lớp lót chần ra để lộ một cái túi nhỏ dày dặn bằng giấy bồi.

– Đưa cho tôi thứ này đi, Kyle. Tôi đang điều tra cùng Coutances. Anh ta hay tôi cũng vậy thôi mà.

– Đúng thế, cũng vậy thôi mà. Vậy thì 1.000 đô nhé. Đó là cái giá mà tôi tính đòi anh ta.

– Tôi là cảnh sát, cô nói.

Nhưng để gây ấn tượng với Kyle thì cần nhiều hơn thế.

– Bố tôi cũng là cảnh sát đây.

Cô ngập ngừng giây lát. Một trong những lựa chọn là túm cổ cậu ta và dùng vũ lực đoạt lấy hồ sơ từ cậu ta. Về thể chất, cô cảm thấy mình làm được việc ấy, nhưng điều gì đó ở Kyle thực sự khiến cô thấy sợ. Quỷ dữ ẩn náu trong một vài con người, bà cô thường nói vậy. Nếu đúng là thế, Kyle thuộc típ người đó và tất cả những gì cô đang mưu toan chống lại cậu ta đều sẽ quay ra chống lại cô.

– Tôi không có sẵn 1.000 đô ở đây.

– Cách đây chưa đầy ba mươi mét có máy rút tiền đó, cậu ta lưu ý, vẫn tươi cười chỉ về phía ánh đèn của *Duane Reade, bên kia con phố.

Chú Thích

Hệ thống cửa hàng tạp hóa thường mở cửa 24/24 giờ (TG).

Madeline dùng đầu mẩu điếu thuốc sắp hết châm một điếu khác rồi đầu hàng. Cậu nhóc này không phải đứa trẻ bình thường. Đó là một công cụ của cái xấu.

– OK, ở đây chờ tôi nhé.

Cô băng qua phố Greenwich rồi đi bộ tới tận máy rút tiền nằm trong hành lang của cửa hàng tạp hóa. Trước máy rút tiền, cô tự hỏi liệu thẻ tín dụng có cho phép cô rút chừng ấy tiền mặt không. Thật may, khi cô bấm mã số thẻ, những tờ tiền mệnh giá 50 đô tuôn ra mà không rục rịch phản đối gì. Đã về đến trước khách sạn, cô bỗng tự nhủ rốt cuộc toàn bộ chuyện này hơi quá dễ dàng. Cô không tin vào những món quà từ trên trời rơi xuống. Cô đang băng qua phố thì điện thoại của cô rung lên. Benedick. Một tin nhắn không chứa đựng gì ngoài liên kết siêu văn bản dẫn tới một bài viết trên tờ Parisien. Trên chiếc iPhone của cô, thậm chí không cần mở liên kết, lời mào đầu của bài báo vẫn xuất hiện:

Cái chết bi thảm của Pénélope Kurkowski, người mẫu ngôi sao thập niên 1990 kiêm nàng thơ của họa sĩ Sean Lorenz.

Chết tiệt…

Trong khi vô số thông tin đang chen chúc lồng ghép vào nhau trong đầu Madeline, Kyle vẫn hối thúc cô.

– Chị có tiền chưa?

Cậu nhóc đã hết ca làm và đang cưỡi trên chiếc xe đạp đua. Cậu ta cầm lấy mớ tiền nhét vào túi áo trước khi chìa cho cô cái túi nhỏ bằng giấy bồi. Chỉ vài cú nhấn pêđan, cậu ta đã mất hút vào đêm tối.

Trong giây lát, Madeline nghĩ cậu ta đã lừa cô, và cô vừa mắc lỡm như một con ngốc.

Nhưng không phải vậy. Cô mở chiếc túi nhỏ và bắt đầu đọc những thứ có trong đó dưới ánh sáng đèn đường.

Và cô đã gặp Vua Cây Trăn như thế đó.

17

Vua Cây Trăn

Bố ơi, bố ơi, nó giữ chặt con đây này!

Vua Cây Trăn làm con đau.

Johann Wolfgang von GOETHE

1.

Ngồi xuống một chiếc ghế bành trong phòng khách của khách sạn Bridge Club, Madeline có thể nghe thấy máu mình rần rật trong tĩnh mạch cảnh.

Rải rác trên mặt bàn thấp phía trước cô là những tờ giấy trong hồ sơ chết chóc mà cô đã dành một giờ để tham khảo. Những tài liệu lưu trữ gớm ghiếc, chắc hẳn được Adriano Sotomayor lập thành, tập hợp hàng chục bài báo – một vài bài được trực tiếp cắt ra từ báo giấy, những bài khác được tải xuống từ Internet –, nhưng cũng có cả những đoạn ghi âm được chép ra, những báo cáo khám nghiệm tử thi hay những bản phô tô trích đoạn các tác phẩm về những kẻ sát nhân hàng loạt.

Tất cả những tài liệu này đều liên quan đến một loạt vụ bắt cóc và giết hại trẻ em xảy ra từ đầu năm 2012 đến mùa hè 2014 tại các bang New York, Connecticut và Massachusetts. Bốn vụ án mạng vừa kinh khủng vừa kỳ lạ liên quan đến nhau bởi có chung một cách thức tiến hành khiến người ta phải bối rối.

Loạt vụ việc này bắt đầu từ tháng Hai năm 2012 với cậu bé Mason Melvil, hai tuổi, bị bắt cóc trong một công viên tại Shelton thuộc hạt Fairfield. Mười hai tuần sau xác cậu bé mới được tìm thấy gần một cái ao ở Waterbury, một thành phố khác thuộc bang Connecticut.

Tháng Mười một năm 2012, Caleb Coffin, bốn tuổi, mất tích khi đang chơi trong vườn nhà tại Waltham, Massachusetts. Ba tháng sau xác cậu bé được những người dạo bộ phát hiện trong một vùng đất ẩm ướt trên Núi Trắng.

Tháng Bảy năm 2013, vụ bắt cóc khiến người ta kích động: Thomas Sturm, bị bắt cóc giữa đêm tại Long Island ngay trong nhà bố cậu bé là Matthias Sturm, một kiến trúc sư người Đức kết hôn với một người dẫn chương trình ngôi sao của kênh ZDF. Vụ việc đã được truyền thông Đức đăng tải rất nhiều. Suốt một thời gian, người cha bị tình nghi vì bấy giờ cặp đôi đang ly thân và thủ tục ly dị của họ đang căng thẳng. Báo chí lá cải của Đức liền nổi trận lôi đình – BildHình ảnh hàng đầu – và đả phá Sturm bằng những tiết lộ nhơ nhớp về cuộc sống riêng của anh. Thậm chí nói ngắn gọn là vị kiến trúc sư đó đã bị bỏ tù, nhưng đến đầu mùa thu, xác Thomas đã được nhận dạng gần hồ Seneca thuộc bang New York. Đến lúc này, chính tờ Spiegel đã lần đầu tiên gán cho con thú săn mồi bí ẩn biệt danh Erlkönig, Vua Cây Trăn, dựa trên bài thơ của Goethe.

Sự việc tương tự diễn ra vào tháng Ba năm 2014 khi cậu bé Daniel Russell bị bắt cóc trong một công viên tại Chicopee thuộc bang Massachusetts, trong một khoảnh khắc lơ là của cô trông trẻ. Vài tuần sau, xác cậu bé được tìm thấy, lần này là trong khu vực đầm lầy duyên hải Old Saybrook, một địa điểm nghỉ dưỡng ven biển thuộc bang Connecticut.

Và rồi… chẳng còn vụ nào nữa. Bắt đầu từ mùa hè 2014, Vua Cây Trăn đã biến mất khỏi các ra đa.

2.

Madeline nhấp một ngụm Phổ Nhĩ, thứ trà đen hương sen mà cô uống từ khi thức giấc. Bây giờ là 6 giờ sáng. Phòng khách của khách sạn Bridge Club bắt đầu nhộn nhịp. Lò sưởi lớn đóng vai trò như một cục nam châm, hút vào quanh nó những khách lưu trú dậy sớm nhất ngồi uống cà phê trước vũ điệu của những ngọn lửa.

Cô day day hai thái dương rồi cố gắng triệu hồi các ký ức. Trong những năm tháng sống tại New York, cô đã từng nghe nhắc tới Vua Cây Trăn qua các kênh truyền thông, nhưng chỉ còn lưu giữ những hồi ức mơ hồ: tên sát nhân hoành hành trong vòng hai năm, mối liên hệ giữa những vụ giết người khác nhau đã không được thiết lập ngay tức khắc, bấy giờ cô đang không làm việc trong phòng ban nào liên quan đến vụ án, vân vân.

Tuy nhiên, ở thời điểm đó một sự việc cũng đã khiến cô lưu tâm bởi nó tỏ ra lạc lõng trong dạng tội ác này: trong bốn đứa trẻ đó không một cái xác nào phải chịu ngược đãi. Không bị xâm hại, cũng không có dấu vết của ngược đãi, cũng không có dàn cảnh gì đặc biệt. Các báo cáo khám nghiệm tử thi mà lúc này đang ở ngay trước mắt cô khẳng định rằng, trong lúc bị giam giữ, các tù nhân được nuôi dưỡng đầy đủ. Xác chúng sạch sẽ, được xức nước hoa, được bôi kem; tóc chúng được cắt, quần áo được giặt sạch. Cái chết của chúng có lẽ không đau đớn vì nguyên nhân là do dùng thuốc quá liều. Ghi nhận này không giúp hành vi của tên sát nhân bớt phần đốn mạt, mà nó khiến cho sự diễn giải những hành động của hắn trở nên phức tạp hơn.

Khi đọc hồ sơ này, Madeline đoán rằng toàn bộ các nhà tội phạm học, bác sĩ tâm lý hay chuyên gia phân tích hồ sơ được FBI nhờ cậy hẳn phải chịu thất bại trong việc cố gắng xác định danh tính và bắt giữ kẻ bệnh hoạn này. Nhưng nếu Vua Cây Trăn không còn ra tay kể từ hai năm nay, thì đó cũng chẳng phải nhờ chút công lao nào của cảnh sát.

Một ngụm trà nữa trong lúc ngọ ngoạy trên ghế bành để giảm bớt những cơn đau thắt nơi bụng cô. Không có tới ba mươi sáu lý do để giải thích cho việc một tên giết người hàng loạt ru ngủ bản năng của hắn. Lý do thường gặp nhất, hoặc hắn đã chết, hoặc hắn đã bị bỏ tù vì một nguyên do khác. Ở đây chúng ta có rơi vào một trong những mô típ này không nhỉ?

Nhất là, một câu hỏi khác đang giày vò cô. Vụ án Vua Cây Trăn với vụ bắt cóc Julian Lorenz có liên quan gì tới nhau? Nếu Sean chỉ lấy lại duy nhất hồ sơ này, ông ấy hẳn phải nghĩ Adriano Sotomayor đã đinh ninh rằng Vua Cây Trăn chính là kẻ đã bắt cóc con trai ông. Chỉ trừ có điều nội dung các tài liệu không xác nhận gì cho kết luận này. Không một bài báo nào, dù xa dù gần, nhắc đến cậu bé Julian.

Đành rằng các mốc ngày tháng có thể khớp nhau, nhưng viên cảnh sát đã lập luận thế nào để đi tới kết luận rằng Julian có thể là nạn nhân thứ năm của tên sát nhân này? Và tại sao người ta vẫn chưa tìm ra xác cậu bé?

Những câu hỏi tích tụ lại mà không có bước đầu giải thích dù nhỏ nhất. Trong tâm trí Madeline, toàn bộ những câu hỏi của cô tạo thành một mớ bòng bong, một mê cung nơi Madeline tìm kiếm vô vọng *cuộn chỉ của Ariadne. Nhưng chắc chắn chẳng có gì để tìm hiểu. Bấy giờ Lorenz đã không còn tỉnh táo; còn Sotomayor vốn chỉ là một nhà điều tra tầm thường, tầm cỡ không bao giờ vượt quá cấp bậc trung úy. Ồng đã lo lắng quá mức với câu chuyện này, dễ dãi tặng cho mình cảm giác hồi hộp của cuộc vây bắt trên giấy tên sát nhân hàng loạt mà ông đã vô vọng tìm cách kết nối với vụ bắt cóc Lorenz Con.

Chú Thích

Theo truyền thuyết Hy Lạp, hoàng tử Theseus đã nhờ vào cuộn chỉ do công chúa Ariadne trao cho mới có thể thâm nhập vào mê cung vốn là sào huyệt của quái vật đầu người mình bò Minotaur để tiêu diệt hắn rồi trở ra ngoài, bình an vô sự.

Cô để tâm trí mình phiêu bạt và dựng lên những giả thiết điên rồ nhất. Thế nếu Beatriz Muñoz chính là Vua Cây Trăn thì sao? Xét theo lối tiên nghiệm, chuyện này không hề vô lý. Ngày tháng của những vụ giết hại dĩ nhiên có thể trùng khớp, nhưng Madeline sẽ không bao giờ có thể kiểm chứng được điều này. Chuyển từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác, cô nhớ lại một trong những giả thuyết của Coutances và lọc kỹ nó qua những phát hiện mới đây của mình: phải chăng Sotomayor đã bị chính Vua Cây Trăn sát hại? Không, cô đang suy nghĩ vớ vẩn rồi. Hay đúng hơn, cô đang tìm cách giải một phương trình có quá nhiều ẩn số. Tuy thế cô vẫn không chịu bỏ cuộc mà quyết định đào sâu thêm.

3.

Madeline vớ lấy điện thoại rồi tìm lại trên Internet bài báo gốc của tờ Spiegel chính là chỗ đầu tiên đặt cho kẻ sát nhân biệt danh “Erlkönig”. Cô nhờ cậy Google Dịch và vốn tiếng Đức cũ mèm từ thời trung học của bản thân để dịch bài báo gói gọn ở một bài phỏng vấn rất ngắn với Karl Doepler, một cựu cảnh sát của BPolcảnh sát liên bang Đức tại Munich. Cái gã – rõ ràng là một “khách hàng ngon nghẻ” – vốn là cố vấn cho nhiều kênh thông tin đại chúng.

Trong lúc xem lướt qua những website thông tin khác, Madeline tìm thấy một bài báo đầy đủ và thú vị hơn nhiều trong tờ nhật báo Die Welt, một bài phỏng vấn xen kẽ giữa Doepler và một giáo sư văn hóa người Đức. Một cuộc trao đổi ở tầm cao trong đó hai người đàn ông diễn giải sự đối chiếu giữa cách thức tiến hành của tên sát nhân người Mỹ với bộ mặt của Erlkönig trong văn hóa dân gian Đức.

Mặc dù Goethe không phải người sáng tạo ra thuật ngữ này, nhưng chính là bài thơ dài của ông, được viết vào cuối thế kỷ 18, đã khiến cho nhân vật Vua Cây Trăn trở nên nổi tiếng. Tờ nhật báo đã đăng lại vài câu thơ trong tác phẩm này, hùng tráng và nồng nhiệt, tái hiện chuyến cưỡi ngựa của một người cha cùng đứa con trai còn nhỏ băng qua một khu rừng rậm rạp và âm u. Một vùng đất đầy hăm dọa, với bộ dạng một sinh vật nguy hiểm và khiến người ta e sợ.

Văn bản của Goethe xoay quanh hai cuộc đối thoại. Trước hết là cuộc đối thoại giữa một cậu nhóc đang khiếp sợ con quái vật với cha cậu, người đang tìm cách trấn an con trai mà không được. Rồi cuộc đối thoại thứ hai, náo loạn hơn, trong đó Vua Cây Trăn trực tiếp chất vấn đứa trẻ để kéo nó vào lưới. Đậm dấu ấn dụ dỗ nguy hại ngay từ đầu, lời lẽ của con quái vật nhanh chóng nhường chỗ cho sự hung ác, đe dọa và bạo lực:

Ta yêu ngươi, khuôn mặt xinh xẻo của ngươi khiến ta mê say,

Và nếu ngươi không muốn, ta sẽ dùng vũ lực.

Nhìn thấy con trai sợ đến thất kinh, người cha cố gắng giúp cậu bé thoát thân, thúc ngựa phi nước đại đến rã dây cương để chạy khỏi khu rừng.

Nhưng đoạn cuối bài thơ vẫn đóng dấu số phận bi thảm của đứa trẻ:

Người cha ôm trong tay đúa trẻ đang rên xiết,

Khó nhọc lắm ông mới đến được nơi nghỉ của mình;

Trong vòng tay ông đứa trẻ đã chết.

Bản văn đã gợi cảm hứng cho những nghệ sĩ khác – Schubert từ đó viết nên một bản Lied nổi tiếng –, nhưng nhất là, với những chủ đề liên quan đến sự tấn công và bắt cóc, nó đã được sử dụng làm nền cho cả một hướng phân tích tâm lý và tâm thần học, ở thế kỷ 20. Đối với một số người, bài thơ là phép ẩn dụ rõ ràng về một vụ xâm hại. Những người khác lại thấy ở đó sự gợi nhắc về tính hai mặt của người cha, lúc thì được giới thiệu như một người bảo hộ, khi thì khoác trang phục của một kẻ tra tấn.

Madeline tiếp tục đọc. Trong phần tiếp theo của bài báo, hai tác giả nhấn mạnh về việc mỗi nạn nhân của Erlkönig đều được tìm thấy gần một địa điểm có nước, gần nơi cây trăn mọc. Vậy là tuân theo một lời giải thích có liên quan chặt chẽ đến thực vật học hơn là đến điều tra của cảnh sát.

Cây trăn, bài báo nhắc lại, là loài cây thân gỗ lớn mọc trên nền đất ẩm ướt: đầm lầy, bãi lầy, những bờ bãi ven dòng nước, những tầng rừng thấp mà ánh mặt trời không bao giờ chiếu sáng. Nhất là sức kháng cự mạnh mẽ với độ ẩm đã biến nó thành một loại gỗ được ưu tiên cho việc xây dựng những ngôi nhà sàn, những bến nổi, một vài loại đồ gỗ nội thất và các nhạc cụ. Vượt lên những chất lượng vật lý, nó còn được gắn cho cả một huyền thoại. Ở Hy Lạp, cây trăn là loài cây tượng trưng cho cuộc sống sau cái chết. Trong văn hóa Celtic, các đạo sĩ biến nó thành biểu tượng của sự phục sinh. Dân Scandinavia sử dụng cây trăn để sản xuất những cây đũa thần và khói của nó hỗ trợ việc thực hiện những phép thuật. Ở một số vùng lãnh thổ khác, cây trăn – với thứ nhựa đỏ au tựa máu – là một loài cây thiêng không ai được chặt.

Từ toàn bộ chuyện này có thể rút ra ghi nhận cụ thể nào đây? Làm thế nào để kết nối hệ biểu tượng phong phú này với động cơ của tên sát nhân? Bài báo hết sức thận trọng trong việc đưa ra bất cứ kết luận nào dù là nhỏ nhất. Khi ngắt kết nối mạng, Madeline có cảm tưởng đã vượt qua được một vòng nữa trong một vùng đất không bóng người mịt mờ và thù nghịch. Lãnh thổ của Vua Cây Trăn không để người ta dễ dàng xâm nhập.

18

Thành phố sương giá

Tôi biết cuộc đời mình là chuyến đi triền miên trên một mặt biển mịt mờ.

*Nicolas de STAEL

Chú Thích

(1914-1955): họa sĩ người Pháp gốc Nga, một trong những danh họa của thế kỷ 20.

1.

Ngay lúc 7 giờ sáng, Madeline đã đứng đợi trước hãng FastCar nằm ở ngã tư phố Gansevoort giao cắt phố Greenwich.

Cô tự nhủ thủ tục thuê một chiếc ô tô ở Mỹ sẽ đơn giản thôi, nhưng vì không đặt trước qua mạng nên cô phải chịu đựng những bước tiến hành bất tận và đứng điền những mẫu khai in sẵn mở rộng trong một căn phòng lạnh ngắt trước ánh mắt một nam nhân viên đáng ghét – một gã Mike gì đó nghĩ thà chát chít với lũ bạn qua điện thoại di động còn hơn là tìm ra giải pháp cho vấn đề của cô. Ngay cả tại New York, thời đại khách hàng là thượng đế dường như cũng đã qua rồi.

Lựa chọn xe giới hạn ở một chiếc Spark bảo vệ môi trường nhỏ bé, một chiếc SUV Subaru và một chiếc xe bán tải Chevrolet Silverado.

– Tôi sẽ lấy chiếc Spark, Madeline chỉ rõ.

Nhất định không làm vướng víu bản thân với một chiếc xe to đùng ngã ngửa.

– Thực ra chỉ còn chiếc xe bán tải thôi, Mike đáp trong lúc tra trên máy tính.

– Cậu vừa nói với tôi điều ngược lại cơ mà!

– Đúng vậy, tôi đã nhìn nhầm, cậu ta biến báo trong lúc gặm gặm cây bút. Những xe khác đã được đặt trước cả rồi.

Cô cam chịu chìa cho cậu ta thẻ tín dụng. Dù gì chăng nữa, kể cả đó là một đầu kéo xe moóc thì cô cũng sẽ chấp nhận.

Nhận lấy chùm chìa khóa chiếc xe bán tải, chỉ sau vài khối nhà, cô đã quen với việc lái chiếc xe khổng lồ rồi tiến vào đường quốc lộ, đoạn cắt ngang TriBeCa, nối liền Manhattan với New Jersey.

Đối với một thứ Bảy ngày 24 tháng Mười hai, giao thông đúng ra là khá thông thoáng. Chưa đầy mười lăm phút, cô đã sang tới bờ bên kia và tìm ra một chỗ trong bãi đỗ xe của bến phà.

Madeline chưa từng tới Hoboken. Khi rời khỏi bãi đỗ xe, cô sững sờ trước vẻ đẹp của cảnh vật. Hai bờ sông Hudson mang lại một tầm nhìn toàn cảnh đáng kinh ngạc về Manhattan. Ánh nắng phản chiếu trên những tòa cao ốc chọc trời đem lại cho đường chân trời một vẻ không thực, điểm nét hào nhoáng cho các tòa nhà, làm nổi bật từng chi tiết nhỏ xíu theo cách những bức tranh siêu thực của Richard Estes thường đóng băng thực tại trong sự tràn trề những ánh phản chiếu màu nâu ánh vàng.

Cô bước chừng trăm mét trên lối đi dạo bằng gỗ, điểm xuyết những không gian xanh, đối diện với công viên trên cao High Line và Greenwich Village. Quang cảnh khiến người ta ngây ngất. Chỉ cần quay đầu về phía Nam là có thể nhìn thấy một vạt lịch sử nước Mỹ: bóng dáng xanh xám của nữ thần Tự Do soi sáng thế giới, hòn đảo nhỏ xíu nơi tổ tiên của một trăm triệu người dân nước Mỹ từng quá cảnh. Nơi này thường đông nghịt người đạp xe và chạy thể dục, nhưng sáng nay, cái lạnh địa cực đã ngăn cản phần lớn họ.

Madeline ngồi xuống một băng ghế bên lối đi dạo ven sông, đội chiếc mũ liền áo phao lên để tự bảo vệ mình trước làn gió lạnh băng thốc lên từ sông Hudson rồi thọc hai tay vào túi áo. Cái lạnh buốt giá đến mức hai mắt cô cay sè. Thậm chí một giọt nước mắt nóng hổi còn chảy trên má cô, nhưng nó không hề biểu lộ nỗi buồn hay sự mệt mỏi buồn rầu. Ngược lại thì có.

Nói ra thì thật khủng khiếp, nhưng viễn cảnh điều tra về Vua Cây Trăn đã khiến cô tươi tỉnh trở lại. Đây là tia sáng mà cô chờ đợi ngay từ lúc ban đầu. Điều đã đánh thức bản năng thợ săn trong cô. Ngay cả khi chuyện này khiến cô rụng rời thì bản năng thợ săn đó vẫn cứ là bản chất sâu thẳm trong cô. Madeline vẫn luôn biết điều này.

Người ta khó lòng thoát khỏi bản chất thật của mình. Thí dụ, ẩn đằng sau những gì thể hiện bên ngoài, Gaspard Coutances vẫn là một gã dễ xúc động. Một gã ghét người khẳng định mình ghét cả nhân loại, nhưng thật ra lại yêu thương mọi người và chẳng mấy chốc đã cảm thấy xáo trộn bởi câu chuyện về một người cha suy sụp vì cái chết của đứa con trai. Cô, Madeline, thì không giống thế. Cô không phải người đa cảm. Cô là một kẻ chuyên vây dồn những con mồi cỡ bự. Chảy trong huyết quản cô là dòng máu đen. Một dòng thác dung nham nóng chảy cuồn cuộn không ngừng trong đầu óc cô. Một thứ mắc ma không thể nguội đi hay được giải tỏa.

Điều cô kể với Coutances không hề là lời nói dối. Việc vây bắt những kẻ sát nhân sẽ tàn phá cuộc sống của bạn, nhưng không phải vì những nguyên do người ta thường nêu. Việc vây bắt những kẻ sát nhân tàn phá bạn, bởi chuyện này khiến bạn ý thức được rằng bản thân bạn cũng là một kẻ sát nhân. Và rằng bạn khoái điều này. Đó chính là điều thực sự gây rối loạn. “Người chiến đấu với quỷ dữ phải cảnh giác với nguy cơ bản thân biến thành một con quỷ.” Câu châm ngôn của Nietzsche có vẻ đã cũ. Tuy thế sự chiêm nghiệm nhàm tai của nó là chính xác. Chừng nào cuộc vây dồn còn tiếp tục, bạn không khác lắm với thứ bạn đang truy đuổi. Và kết luận này mang đến cho mọi chiến thắng một vị cay đắng. Ngay cả khi bạn nghĩ đã đánh bại được nó, cái ác vẫn còn mầm mống. Trong bạn. Nỗi u sầu sau ân ái.

Cô hớp lấy một ngụm không khí lạnh băng để trấn tĩnh lại. Cô cần phải trở xuống nhiều nấc nữa. Hãy thực tế, cô em thân mến. Cô sẽ không tự mình giải quyết được một vụ án đã làm hao tổn thần kinh của tất cả các chuyên gia phân tích hồ sơ trên đất nước này đâu.

Nhưng dẫu sao chăng nữa… Madeline không thể ngăn mình nghĩ rằng người ta đang dâng sẵn cho cô một vụ án độc nhất vô nhị. Vụ án mà mọi cảnh sát trên thế giới đều mơ ước được thừa hưởng một lần trong đời. Thêm vào đó, không gì tồn tại nữa: cả ca thụ tinh nhân tạo lẫn viễn cảnh về một cuộc sống êm ả giữa bình sữa và tã lót.

Chỉ có vị của máu là đáng kể.

Cơn cuồng săn.

– Chào Madeline.

Một bàn tay đặt lên vai Madeline khiến cô giật thót mình.

Mải suy nghĩ, cô không nghe thấy tiếng chân Dominic Wu đi tới.

2.

Gaspard bị kéo ra khỏi giấc ngủ bởi tiếng chuông điện thoại di động. Một nhịp điệu samba nghe mà phát bực khiến anh có cảm giác tồi tệ là thức giấc giữa lễ hội hóa trang ở Rio. Thời gian anh mở mắt và vớ lấy điện thoại, hộp thư thoại đã được kích hoạt. Anh mở rèm và gọi lại luôn mà không nghe tin nhắn: đó là Isabella Rodrigues, cô em họ dễ mến của Adriano Sotomayor.

– Tôi đang muộn giờ làm rồi đây, chị thông báo luôn.

Gaspard nghe thấy âm thanh nền là tiếng ầm ì đô thị made in New York: tiếng ù ù của xe cộ qua lại, sự náo nhiệt, tiếng còi hụ của xe cảnh sát…

– Hôm nay không phải ngày dành cho lũ trẻ ư? anh hỏi.

– Mai mới là Giáng sinh mà, mỹ nhân La tinh đáp.

– Chị làm việc ở đâu vậy?

– Tôi quản lý tiệm Adele’s Cupcakes trên phố Bleecker. Và hôm nay là một trong những ngày đông vui nhất năm.

Isabella đã giữ lời. Chị đã hỏi dò những ký ức của chồng mình về chuyến viếng thăm của Sean Lorenz tới nhà họ.

– Có lẽ André có vài điều muốn kể cho anh nghe đấy, chị thổ lộ. Nếu anh muốn thì cứ qua gặp anh ấy, nhưng trước 10 giờ nhé vì anh ấy còn phải đưa bọn trẻ qua nhà bà ngoại chúng. Và nhất là, giúp tôi đừng để họ trễ giờ!

Gaspard muốn biết thêm, nhưng Isabella đã ngắt cuộc trò chuyện. Khi dập máy, anh phát hiện một tin nhắn từ Madeline trên màn hình điện thoại: Về phần mình, tôi phải xác minh vài ba việc đã. Hẹn trưa nay gặp nhau ở khách sạn. M.

Thoạt tiên, sự rút lui này khiến Gaspard phật ý, rồi anh tự nhủ chính xác thì mình đang hy vọng cô sẽ có những chủ động kiểu này kia mà. Và anh không còn thời gian để than vãn nữa nếu muốn kịp gặp chồng của Isabella trước khi anh ta xuất phát. Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, vào tắm vòi sen rồi đi ra, một nhát lược và một nhát xịt Pour un homme sản xuất năm 1992.

Xuống phố rồi, anh cuốc bộ tới tận phố Franklin, mua vé tàu điện ngầm rồi đi theo tuyến 1 tới tận Columbus Circle, phía Tây Nam Công viên Trung tâm. Đến đó, anh chuyển tuyến và đi tiếp khoảng mười bến nữa tới tận bến tàu điện ngầm to nhất khu Harlem. Bến nằm trên Phố 125, nơi “Thợ pháo hoa” đã từng vẽ trên hàng chục toa tàu điện ngầm trong thập niên 1990. Cũng chính là nơi Beatriz Muñoz đã chọn để kết thúc cuộc đời.

Gaspard mất chưa đến mười lăm phút đã tới phố Bilberry, con phố này khiến anh thích thú. Im lìm trong cái lạnh nhưng lại ngập tràn ánh nắng, nó thấm đẫm mùi hương phi thời của một New York được lý tưởng hóa và hoài nhớ. Trước số nhà 12 – nhà Isabella –, thợ sửa cây đang tỉa cành cho một cây dẻ của con phố, bóng râm cành lá rung rinh trên vỉa hè.

– Anh vào đi và cứ tự nhiên như ở nhà mình nhé, André Langlois chào đón anh khi ra mở cửa.

Gaspard gặp lại ba đứa trẻ mà hôm qua anh thấy ngồi quây quần quanh chính chiếc bàn thân thuộc ấy. Nhưng lần này, chúng đang ngồi trước một bữa sáng thịnh soạn: ngũ cốc Granola, phô mai Cottage, dứa Victoria, kiwi vàng. Phần thưởng thêm là những tiếng cười vang, niềm vui, sự nhiệt tình. Âm thanh nền là một chiếc iPad kết nối đài WQXR đang phát “Điệu valse của những đóa hoa” trong vở Kẹp hạt dẻ. Ở gia đình Langlois, mọi thứ đều là cái cớ để tập cho lũ trẻ quen với nền văn hóa.

– Ra là vậy, vợ tôi đã pha sữa lòng đỏ trứng cho anh trong khi tôi nai lưng làm việc tại văn phòng! André đùa trong lúc rót cho Gaspard một tách cà phê.

Đầu cạo nhẵn, cơ bắp cuồn cuộn, làn da nâu và răng thưa, André Langlois gây thiện cảm tức khắc. Trẻ hơn vợ mình, anh đang mặc quần thể thao và chiếc áo phông ủng hộ chiến dịch tranh cử tổng thống của Tad Copeland.

Để cho liền mạch, Gaspard nhắc lại những gì hôm qua anh đã kể cho Isabella nghe rồi tự giới thiệu mình như một nhà văn, trong quá trình biên soạn tiểu sử của Sean Lorenz, đã tự vấn về những vùng tối bao quanh cái chết của con trai ông.

Vừa lắng nghe anh, André vừa bắt đầu gọt một quả cam cho đứa bé nhất trong đám trẻ đang ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế cao của nó.

– Tôi chỉ gặp Lorenz một lần duy nhất đó thôi, nhưng tôi nghĩ anh biết điều này rồi.

Gaspard gật đầu mời anh nói tiếp.

– Thực lòng mà nói, vợ tôi đã kể với tôi chuyện này. Tôi biết họ đã từng có một cuộc phiêu lưu tình ái từ rất lâu trước khi chúng tôi làm đám cưới, vậy nên dĩ nhiên, tôi có đôi chút dè chừng.

– Nhưng sự dè chừng này lập tức biến mất khi anh nhìn thấy ông ấy…

Langlois đồng ý.

– Tôi thực sự thương hại Sean khi ông ấy bắt đầu kể với chúng tôi về con trai mình. Ông ấy hoàn toàn lạc lối, thống khổ, với một tia điên dại trong đôi mắt. Về thể chất, ông ấy giống một kẻ vô gia cư hơn là một gã Don Juan quyến rũ.

André chìa những miếng cam bổ tư cho con trai mình rồi ra một loạt quân lệnh cho hai cậu con trai lớn, từ việc đánh răng cho tới chuẩn bị packed lunchbữa trưa đóng hộp mà chúng phải mang sang nhà bà ngoại.

– Ngay lúc đó, tôi chưa hiểu ra câu chuyện Sean kể cho chúng tôi về mối liên hệ giữa bản thân ông ấy với Adriano, nhưng Isabella vẫn đồng ý để ông ấy lục lọi căn nhà.

André bắt đầu dọn chiếc bàn bày bữa sáng và theo phản xạ, Gaspard giúp anh cho bát đĩa vào bồn rửa.

– Tôi thì chẳng có gì phản đối, André Langlois cam đoan. Nói cho cùng, đó là món thừa kế của vợ tôi, và thủ tục thừa kế kéo dài hơn dự kiến, nhưng tôi đã khuyên Isabella mang lũ trẻ tránh đi còn chính tôi đã ở lại cùng Lorenz để canh chừng ông ấy.

– Chị nhà đã nói với tôi là khi ra về ông ấy có mang theo một số tài liệu.

Giống như hôm qua, Gaspard ngỡ mình sắp biết thêm gì đó về chuyện này, nhưng Langlois không để anh hy vọng lâu:

– Chính xác, anh công nhận trong lúc lôi từ thùng rác mạ crôm ra một túi ni lông đựng đầy rác. Nhưng tôi không biết phải nói sao với anh. Phòng ngủ của Adriano ngập giấy tờ và hồ sơ đủ loại.

Anh buộc túi rác lại rồi mở cửa ra vào để đi vứt nó vào thùng đựng rác bên ngoài.

– Nhưng đó không phải thứ duy nhất mà Sean Lorenz mang theo, anh nói trong lúc bước xuống mấy bậc thềm.

Gaspard theo anh ra vườn.

– Sean Lorenz đã hỏi tôi liệu ông ấy có thể xem qua xe của Adriano được không, một chiếc Dodge Charger vẫn đỗ trong ngõ suốt hơn một năm trước đó.

Anh hất cằm chỉ một lối đi kiểu ngõ cụt vuông góc với đường phố.

– Mùa hè năm ngoái tôi đã bán lại chiếc xe, nhưng quả xế hộp ấy chẳng được ai bảo dưỡng từ khi chủ nhân của nó qua đời. Khi Sean tới, ắc quy đã cạn sạch. Ông ấy đã quan sát chiếc Dodge rất tỉ mỉ. Tôi nghĩ là bản thân ông ấy thực sự không biết thứ mình tìm kiếm là gì đâu. Rồi, như bất chợt nảy ra một ý, ông ấy tới cửa hàng tạp hóa trên Phố 131. Năm phút sau ông ấy lại có mặt tại nhà chúng tôi cùng một cuộn túi rác khổ lớn. Ông ấy mở cốp sau chiếc Dodge rồi giật lấy cái thảm, bỏ vào một trong những túi ni lông đó. Rồi ông ấy bỏ đi mà thậm chí không thèm nói với tôi lời nào.

– Bố ơi! Bố! Anh Sydney đánh con! một cậu nhóc vừa kêu toáng lên vừa lao ra khỏi nhà để ùa vào vòng tay bố nó.

– Anh để mặc Sean làm vậy mà không hỏi gì ông ấy ư? Gaspard ngạc nhiên.

– Chẳng đời nào phản đối nổi ông ấy đâu, André vừa nói vừa dỗ dành con trai. Lorenz giống như bị ma ám vậy. Như thể ông ấy đang sống trên một hành tinh khác cách hành tinh chúng ta nhiều năm ánh sáng. Trên gương mặt ông ấy hiển hiện nỗi đau đớn thực sự.

Cậu nhóc đã ráo nước mắt và nóng lòng muốn vào với anh trai.

André vò rối tóc cậu nhóc.

– Không ai nên mất đi một đứa con bao giờ, anh thì thầm như nói với chính mình.

3.

Dominic Wu lẽ ra phải được mời diễn một vai trong một bộ phim của Vương Gia Vệ.

Công khai đồng tính, anh chàng nhân viên FBI vẫn mặc những bộ đồ được cắt may không chê vào đâu được, thắt những chiếc cà vạt dệt và cài khăn lụa ở túi ngực. Sáng nay, anh giấu ánh mắt đằng sau cặp kính râm và phô trương dáng dấp thanh lịch của mình trước dãy cao ốc chọc trời có gu thẩm mỹ tốt cũng đang trưng ra cùng những sắc xanh kim loại như chiếc áo trench-coat vải cashmere của anh.

– Cảm ơn vì đã đến, Dominic.

– Anh không có nhiều thời gian đâu, Madeline. Hans đang chờ anh trên xe cùng với hai đứa nhóc. Hôm nay, đến cả cát ở vườn trẻ cũng cứng như đá rồi.

Anh ngồi xuống cạnh cô trên băng ghế, giữ một khoảng cách nhất định. Tay anh đeo đôi găng màu đen bằng da mịn. Anh thận trọng rút từ túi trong áo khoác ra một tờ giấy gập làm tư.

– Anh đã tiến hành tìm kiếm như em yêu cầu. Không có gì mờ ám trong vụ sát hại Adriano Sotomayor hết.

– Nghĩa là sao?

– Gã ngốc đó định giở trò khôn lỏi khi chen ngang một vụ ẩu đả giữa hai thằng bán lẻ ma túy trong khi bản thân không mang theo vũ khí. Vừa cao giọng ông ta đã lãnh ngay một nhát dao vào họng. Hết chuyện.

– Tên bán lẻ ma túy đó là ai vậy?

– Nestor Mendoza, hai mươi hai tuổi. Một tên vô lại hèn hạ ở khu El Barrio. Nóng tính và bốc đồng, bấy giờ hắn vừa ra tù sau ba năm thụ án tại Rikers.

– Tại sao người ta không bỏ tù được hắn?

Anh chàng người Á nhún vai.

– Bởi vì hắn đã thoát được, chứ em nghĩ sao nào! Hắn có gia đình tại San Antonio, nhưng người ta không bao giờ tìm ra dấu vết của hắn.

– Thường thì, đối với những kẻ ra tay sát hại cảnh sát, người ta sẽ tỏ ra bền bỉ hơn một chút chứ, không phải sao?

– Một ngày nào đó người ta sẽ tóm cổ được hắn trong một cuộc kiểm tra đường bộ, hoặc sẽ tìm thấy xác hắn sau một cuộc ẩu đả trên đường phố Little Havana. Giờ em hãy nói anh biết tại sao em quan tâm đến cái chết của Sotomayor như vậy thì hơn.

Wu là một nhân viên lõi đời. Madeline thừa biết nếu anh chấp nhận tuồn cho cô vài thông tin, thì cũng chỉ là bởi bản chất thực dụng. Vì cô là một cảnh sát giỏi nên anh nghĩ, nếu cô đã đánh hơi thấy một hướng điều tra nhiều hứa hẹn thì bản thân anh chắc sẽ là người đầu tiên hưởng lợi trong chuyện này.

– Em nghĩ cái chết của Sotomayor có liên quan đến một vụ án khác, cô thổ lộ.

– Vụ nào?

– Anh mới là người nói em biết điều đó chứ, cô đáp.

Wu không bao giờ mất công di chuyển nếu không có được thông tin gì mới.

– Em đang nghĩ đến em trai ông ta, đúng không?

Em trai ông ta ư? Em trai nào nhỉ? Madeline cảm thấy adrenalin đang dâng lên trong cô.

– Anh biết gì thì mau nói cho em đi, cô bực bội.

Nhân viên điều tra liên bang chỉnh lại cặp kính tráng bạc của mình. Mỗi người có những hành vi, những sự chuyển dịch của riêng mình, dường như tuân theo một vũ đạo bí ẩn mà người ta có cảm giác là nó đã lặp đi lặp lại từ trước.

– Anh đã phát hiện ra một điều kỳ lạ khi đào bới về Sotomayor. Lão ta có một người em trai, Reuben, một giáo sư sử học ở UFĐại học Florida.

– Vậy ý anh là em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha phải không?

– Anh biết đâu được. Sự thể là vào năm 2011 Reuben Sotomayor đã bị sát hại và được tìm thấy trong một công viên tại Gainesville nơi anh ta thường tới chạy thể dục.

– Theo phương cách nào vậy?

– Phiên bản hoang