← Quay lại trang sách

Chương Sáu MƯỜI TRANG TÀI LIỆU

Sau khi hoàn tất công việc của một nhà điều tra bất đắc dĩ chị Thu Dung cất cuộn phim chụp dấu tay của Nguyễn Tư Tâm vào ngăn tủ, sau đó chị mới trịnh trọng đặt sấp tài liệu của Giáo sư tiến sĩ Thomas Vincent lên mặt bàn và cẩn thận đọc kỹ từng trang giấy.

Ở trang mở đầu, Giáo sư ghi một cái tiêu đề chắc là về một công việc mà ông định khảo cứu. Trang giấy chỉ vỏn vẹn có một hàng chữ lớn ÉTUDES SUR LA STRUCTURE GÉOLOGIQUE DE LA CHAINE ANNAMITIQUE (les roches, les mines et les relations avec la tectonique). Chị Thu Dung tạm dịch là “Nghiên cứu về kiến trúc địa chất của rặng Trường Sơn, các loại nham thạch, các loại mỏ và những sự liên hệ với Kiến Trúc Địa Tằng Học” – Qua trang hai, trang ba và trang bốn, liên tiếp ba trang này là những hình vẽ phác hoạ với nhiều nét dập xoá biểu lộ một sự đắn đo suy nghĩ của Giáo sư khi phác hoạ một tiến trình thành lập rặng Trường Sơn.

Chị Thu Dung không am hiểu lắm về Địa chất học nhưng cũng lờ mờ hiểu được ý nghĩ của Giáo sư lúc phác hoạ những hình vẽ này, hình như ông muốn diễn tả một giả thuyết về sự hình thành bán đảo Đông Dương qua các thời kỳ địa chất. Chị đọc thấy những chữ ghi chú như Paléoroique (Nguyên đại Cổ sinh), Mésozoique (Nguyên đại Trung sinh), Cénozonique (Nguyên đại cận sinh)…vân.. vân… đặc biệt ở một hình vẽ thuộc trang 3, chị Thu Dung thấy nét bút tô rất đậm hai giải núi nhô lên mà ở các hình vẽ trước không có. Một giải có lời ghi chú Chaine Annamitique (Trường Sơn) và một giải có ghi Chaine Sud Annamitique (Nam Sơn) phải chăng đó là sự hình thành sơ khởi của giải Trường Sơn mà Giáo sư muốn đề cập đến?

Chị Thu Dung tự nghĩ muốn nghiên cứu tường tận các hình vẽ thì phải mang đến hỏi Giáo sư Trần Vũ mới có thể nắm vững mọi chi tiết được. Sau đó, chị Thu Dung giở qua các trang có hình vẽ để đi vào trang chữ đầu tiên. Ở phần này hình như Giáo sư Vincent dự tính viết một cái tựa phần dẫn nhập mở đầu cho công trình nghiên cứu của ông, nhiều hàng chữ bị dập xoá nhằng nhịt nhưng nội dung không ra ngoài vấn đề Giáo sư đưa ra một quan niệm căn bản đặt ra cho sự nghiên cứu.

Đặc biệt ông nhấn mạnh về những biện pháp áp dụng để tìm hiểu sự tương quan giữa các tầng nham thạch, phương pháp so sánh và ước lượng để dự đoán các loại tuổi tương đối của mỗi tầng. Tất nhiên, chị Thu Dung nghĩ, quan niệm của ông so với những tiến bộ của khoa học hiện đại đã trở nên lỗi thời và thiếu chính xác.

Bây giờ người ta không cần phải lý luận dài dòng mà áp dụng thẳng vào việc cân lường nham thạch dựa trên đặc tính phóng xạ của chất Uranium (U238) một kim loại hiếm có trong tinh khoáng Zircon của đá Hoa Cương. Mỗi kilogam đá hoa cương chứa được 1 miligam tinh khoáng Zircon. Trong tinh khoáng Zircon, kim loại Uranium có tính phóng xạ tự hao mòn để biến thành chì (Pb 207). Thời gian để một trọng lượng Uranium 238 biến ra chì Pb 207, phải mất 7600 tuổi địa chất (mỗi tuổi dài tới triệu năm) – Từ đặc tính này, chỉ việc cân lường việc giảm trọng lượng của Uranium trong tinh khoáng Zircon là các nhà địa chất có thể biết được số tuổi tuyệt đối của nham thạch.

Nhưng hãy trả lại những vấn đề chuyên môn cho các nhà khoa học tận tuỵ vẫn thường hy sinh cả cuộc đời mình để cố gắng giở lại từng trang lịch sử của địa cầu trong quá khứ mù mịt dài đến cả hàng tỉ năm.

Vấn đề chính yếu chị Thu Dung muốn chú trọng tới là coi xem trong mười trang tài liệu này có những chi tiết nào mới lạ giúp ích được cho chị trong cuộc điều tra mà chị đang dấn thân vào. Bài tựa của Giáo sư Thomas Vincent chưa chấm dứt ở trang thứ mười.

Như vậy có nghĩa là Tâm Què đã nói đúng. Hắn chỉ trao cho chị một vài tờ đầu tượng trưng để biết rằng hắn đã nắm được những tài liệu đích thực ở trong tay. Với mớ kiến thức nghèo nàn về khoa địa chất học, cổ địa lý học, cổ sinh vật học, địa tằng học v.v… chị không thấy được soi sáng gì hơn qua những trang giấy cũ kỹ đã khô dòn, nét mực nhoè nhoẹt mang dấu tích của thời gian ba bốn chục năm dầu dãi.

Nhưng dầu sao chị Thu Dung cũng thấy cần phải có sự giúp đỡ ý kiến của Giáo sư Trần Vũ. Biết đâu qua cái nhìn chuyên môn của một bậc lão thành trong ngành khảo cổ, Giáo sư sẽ chẳng giúp chị một vài tia sáng hữu ích. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng Giáo sư Trần Vũ là thầy dạy cũ của chị Thu Dung hồi chị còn là một sinh viên thuộc ban chuyên khoa Sử Địa của trường Đại Học Văn Hoá Đông Phương. Giáo sư vừa là Thạc Sĩ Sử học, vừa là Tiến Sĩ Địa Chất học kiêm nhà khảo cổ lừng danh hiện giữ nhiệm vụ cố vấn cho viện Quốc Gia Nghiên Cứu và Sưu tầm Cổ tích Quốc Sử. Tuy tuổi đã ngoài năm mươi nhưng ông còn đầy vẻ nhanh nhẹn và nghị lực. Giọng nói của ông lúc nào cũng hăng hái, nhiệt thành, dù chỉ đề cập đến một đề tài nhỏ mà nhiều lúc không mấy quan trọng, ông cũng sốt sắng bàn luận như bất cứ lần tranh luận nào khác. Đặc biệt mỗi lần, khi câu chuyện xoay chuyển tới những vấn đề liên hệ tới các cổ tích lịch sử, các hiện tượng địa chất xẩy ra từ thời kỳ Thái cổ trong Đại kỳ vô sinh hay thời kỳ Cổ sinh, Trung sinh… trong Đại Kỷ Hiển sinh thì ông say mê nói hàng giờ không nghỉ không mệt. Trong cuộc điều tra về cái chết của ông già Nguyễn Quốc Viên liên hệ đến những viên kim cương của Giáo sư Thomas Vincent trên núi Thiên Mã hồi năm ngoái, chị Thu Dung đã được Giáo sư chỉ dẫn cho rất nhiều điều hữu ích về sự cấu tạo của các đá phún xuất, chu trình hình thành của kim cương trong các lớp trầm tích thạch, và nhất là ông cũng tiết lộ cho chị biết một vài sự liên hệ của ông đối với Giáo sư Thomas Vincent vào thời kỳ mà Giáo sư Vincent còn cộng tác với trường Viễn Đông Bác Cổ đi lặn lội tìm kiếm những cổ vật thuộc thời kỳ văn minh Thạch khí cách đây chừng 50.000 năm ở Đông Dương như Sơn La, Bắc Sơn, Lạng Sơn (thuộc Bắc Việt) Minh Cầm, Bảo Tro, Xong Tham, Đức Thi (thuộc Trung Việt) Mahaxay, Naveng (thuộc Lào) Sam Ronsen (thuộc Miên).

Chính hai người đã bàn luận với nhau về sự hình thành các dẫy núi thuộc rặng Trường Sơn mà một đôi lần Giáo sư có nhắc đến ngọn Thiên Mã sừng sững trông như dáng một con ngựa xoải vó vươn từ rừng xanh rậm rạp bay lên tận đỉnh trời.

Sau khi giải quyết một vài công việc lặt vặt, chị Thu Dung bắt đầu sửa soạn phòng tối để rửa những bức hình chụp được trên 10 trang tài liệu sau khi đã được xông bằng hơi Iode. Kết quả rất khả quan vì những dấu tay của Tâm Què in trên giấy hiện ra rất rõ.

Vì không phải là nhà chuyên môn nên chị Thu Dung chỉ lướt qua từng tấm hình một chứ không chủ tâm quan sát từng phần quan trọng một trên dấu tay như tại tam phân điểm, trung tâm điểm, các hình cù lao, hình chản hay hình cái móc, vân…vân… vốn là những danh từ chị chỉ còn nhớ một cách loáng thoáng từ hồi còn đi học. Nhưng khi giở đến tấm hình thứ ba thì chị suýt kêu lên một tiếng ngạc nhiên. Bởi vì thật là lạ chưa, ngoài những vân tay chụp được, chị còn thấy bức hình hiện lên một vài nét vân lờ mờ, ra ngoài phạm vi của ngón tay! Chị giật mình đem lại phía đèn sáng soi lên cho kỹ thì quả nhiên đó là nội dung của tấm hình đã chụp được chứ không phải vết tay bẩn được bôi vào.

Chị vội vàng mở ngăn kéo lấy ra một chiếc kính lúp rồi đem soi vào chỗ hình vân “nổi ở ngoài ngón tay” thì lần này chị thấy rõ được rằng đó không phải là hình vân nữa mà chính là những nét vẽ! Giáo sư Thomas Vincent đã vẽ lên trang giấy của ông một nội dung khác với nội dung mà ông đã viết rành rành lên trang giấy bằng thứ mực tím đã phai nhoà. Vừa ngạc nhiên, vừa sung sướng, chị Thu Dung nhẩy bổ lại tủ kính lấy xuống tất cả những dụng cụ cần thiết cho một phóng viên điều tra. Rồi chị trải mười tờ tài liệu của Giáo sư Vincent lên mặt bàn, bật thêm ngọn đèn chụp 75 watt cho tăng cường ánh sáng. Sau đó, với tất cả sự tỉ mỉ và kiên nhẫn sẵn có, chị lần lượt thử những trang giấy với các loại bột hiện hình, kể cả phương pháp xông lại bằng hơi I-ốt mà chị đã sử dụng lúc ban chiều.

Nhưng sau hơn hai giờ cặm cụi chị thất vọng khi thấy các phương pháp của chị không làm cho các hình vẽ nổi lên rõ hơn là một vài nét mờ rời rạc do máy hình của chị đã chụp được. Chị buồn bã buông xuôi tất cả công việc, nằm ngả trên ghế salon, thừ người suy nghĩ. Đồng hồ trên tường điểm thong thả bốn tiếng khô khan. Thế là gần trắng một đêm say sưa với công việc, tuy chưa thu lượm được kết quả gì, nhưng chị tin chắc mình đang nắm giữ một phần tài liệu rất quan trọng trong cuộc chạy đua lên Thiên Mã Sơn. Ở đằng sau những hàng chữ mực tím nhoè nhoẹt đầy nét gạch xoá, Giáo sư Thomas Vincent hẳn đã gửi gấm một điều gì bí ẩn, mà cho đến bây giờ, chưa ai khám phá ra được, kể cả bọn Hoa Phù Dung lẫn kẻ tự nhận mình là Tâm Què. Chị Thu Dung tin tưởng ở điều ấy, bởi vì nếu Tâm Què biết rõ được, hẳn không bao giờ hắn lại trao cho chị mười trang giấy này một cách dễ dàng và vô điều kiện đến như vậy. Vấn đề chính yếu bây giờ là phải làm cách nào đọc được những hình vẽ bí ẩn đó. Theo sự hiểu biết của chị thì các loại mực bí mật viết ẩn giấu trong một tài liệu có thể chia thành ba loại:

– Loại thứ nhất là mực chứa acit và Clorua Coban có thể phát hiện ra bằng cách hơ nóng.

– Loại thứ nhì là mực chế bằng các hợp chất gốc chì (encres de plomb) có thể phát hiện nhờ hơi acit sulfhydric.

– Loại thứ ba là mực chế bằng các thứ hoá chất như clorua thuỷ ngân tam (HgCl3), Nitrat Bismut ngậm nước Bi (NO3)3- 5H2O, phèn chua sulfat kép Nhôm và Kali ngậm nước Al2-K2(SO4)4+24H2O hay acit Oxalic (CO2H)2- 2H2O…vân…vân…Với những loại mực hoá phẩm này, muốn phát hiện lên ta phải dùng các loại nước thuốc tuỳ theo từng loại như nước vôi, nước Javel, dung dịch Am- mô- nhắc, dung dịch Nitrat Cobalt v.v…

Nhờ các loại thuốc phát hiện này, mực bí mật sẽ hiện lên hoặc xanh, hoặc lục đỏ hay đen. Cũng có nhiều trường hợp các vết mực hiện rõ dưới ánh sáng của Tử ngoại tuyến (lumière ultra-violette). Ta biết rằng một luồng ánh sáng trắng đi qua một lăng kính sẽ phân tích thành quang phổ 7 mầu theo thứ tự: tím, chàm, xanh dương, lục, vàng, cam và đỏ sậm. Màu tím ở đầu này trong quang phổ thuộc luồng sóng sáng có khoảng cách giữa hai đỉnh sóng (còn gọi là bước sóng) khoảng 7500 Angstroems ( là một đơn vị đo chiều dài, bằng khoảng 1 phần 10 tỷ của một mét, còn gọi là 0.1 Nano-mét).

Mắt chúng ta chỉ thấy được ánh sáng mặt trời trong trường hợp thường lệ đi từ màu tím qua màu đỏ sậm tức là thuộc các luồng sóng sáng từ 4000 đến 7500 Angstroems (tức khoảng 380 nano-mét đến -700 nm), vượt qua giới hạn này, mắt ta không còn nhìn thấy ánh sáng nữa.

Bên này ranh giới màu tím, tia sáng không còn thấy được chính là Tử ngoại tuyến (tần số từ 4000 xuống đến 136 Angstroems tức khoảng 380 nano-mét đến 10 nm).

Bên kia ranh giới của màu đỏ sậm, tia sáng không thấy được chính là Hồng ngoại tuyến (lumière infrarouge) tần số từ 7500 lên tới 11000 Angstroems. (700 nano-mét đến 1.000 nm).

Nhiều vật chất khi bị rọi tia Tử ngoại tuyến vào thì phản chiếu lại thành tia sáng thường làm cho ta trông thấy, đó là hiện tượng phát quang của vật chất. Đem áp dụng vào việc giảo nghiệm, tác dụng của nó thật là hữu ích. Như một tấm vé số bị cạo sửa dù tinh vi đến đâu, dưới ánh sáng tử ngoại tuyến, hai loại mực khác nhau sẽ cho hai loại ánh sáng phản chiếu khác nhau khiến cho ta thấy rõ sự bôi sửa. Hai tờ giấy bạc giả và bạc thật để cạnh nhau dưới tia tử ngoại cũng cho hai tính chất phát quang khác nhau: một tờ phản chiếu thành nâu lạt, một tờ khác sẽ cho nâu tím hay nâu vàng làm cho ta rất dễ nhận ra thật và giả.

Đèn phát tia tử ngoại chứa hơi thuỷ ngân, có một cái kiếng màu chế bằng Oxyt Nickel (kền) để ngăn chận các tia sáng có màu sắc khác, mà chỉ cho tia cực tím đi qua với loại luồng sóng sáng từ 3400 đến 2900 Angstroems. Trong kỹ nghệ thông dụng, có hai loại đèn tử ngoại: một loại phát ra tia 3130 Angstroems, và một loại phát ra tia 3650 Angstroems. Mỗi loại có tính phát quang khác nhau. Loại đèn này chị Thu Dung không có nhưng chị có thể nhờ được một chuyên viên quen biết ở phòng Giảo Nghiệm Viện Quốc Gia Khoa Học và Kỹ Thuật xem xét giùm. Chị hy vọng những màu mực bí mật cuả Giáo sư Thomas Vincent viết ẩn ở sau bài tựa của ông sẽ hiện lên rõ ràng dưới ánh sáng của đèn Tử ngoại.

Tạm thời tìm được phương cách giải quyết cho vấn đề làm điên đầu suốt từ chập tối, chị Thu Dung mới cảm thấy yên tâm phần nào và cho tới khi đó sự mệt mỏi rã rời sau một đêm gần thức trắng đã khiến cho chị cảm thấy xương cốt mỏi nhừ. Chẳng còn kịp dọn dẹp căn phòng bừa bộn những giấy vụn, chai lọ, giấy ảnh, hoá chất ngổn ngang, chị với tay tắt ngọn đèn trên bàn làm việc rồi nằm ngay lên giường ngủ thiếp đi.