← Quay lại trang sách

Chương Bảy THEO DẤU TÂM QUÈ

Trong khi chị Thu Dung bù đầu về những trang tài liệu của Giáo sư Thomas Vincent thì thằng Sơn lại đeo đuổi cuộc điều tra theo một hướng khác. Nó chú ý tới nhân vật Tâm Què, không phải Tâm Què giả mạo đã trao tài liệu cho chị Thu Dung mà là Tâm Què thứ thiệt, kẻ đã có dấu tay và căn cước với tên Nguyễn Tư Tâm mà ông Thanh Tra Mạc Kính đã cung cấp lý lịch. Theo lý luận của Sơn thì phải tìm manh mối khởi đầu từ nhân vật ấy. Hắn vừa là người liên hệ tới tập tài liệu bị mất tích, lại vừa là cái nút liên lạc giữa hai phe đang kình chống nhau trong hội Hoa Phù Dung với một bên là Đông Hưng vừa vượt ngục và một bên chính là kẻ giả mạo Tâm Què đã tới tiếp xúc với chị Thu Dung hôm vừa qua.

Nhờ hình dạng đã được mô tả, nhất là với một cái chân què đi khập khiểng, Sơn đã bấm nút cho guồng máy của cả ngàn trẻ bán báo trong Đô Thành chuyển động để thâu lượm tin tức. Không đầy ba giờ đồng hồ sau, Sơn được loan báo: “Tâm Què hay lui tới hàng bún riêu của bà Năm trong khu Dân Sinh chợ cầu Ông Lãnh” –

Lập tức Sơn không bỏ phí thời giờ, nó giao hơn hai chục số báo còn lại cho một thằng bạn rồi tìm vào khu Dân Sinh. Bún của bà Năm ngon tuyệt. Chỉ mới hít hà thôi, nước rãi đã nhễu đầy cả những chân răng. Trong lúc chờ bà Năm sửa soạn bát bún, Sơn hỏi bất ngờ:

– Cấp này bác Tâm Què có hay ăn đây thường không?

– Mọi khi thì thường, mà điều ảnh đi khỏi đây cả tháng nay rồi.

Một lát nó lại lân la:

– Vậy ra bác Tâm Què đi khỏi rồi mà tôi không hay. Bác ta đi đâu vậy cà?

– Đi đâu ai mà biết. Người ta có việc của người ta chớ, ai rỗi hơi mà hỏi.

– Vậy mà bác nói như đã biết hết cả rồi.

Người đàn bà trừng mắt:

– Tao nói cái gì?

– Thì nói là bác ta đã đi khỏi đây cả tháng nay rồi đó. Ngộ lỡ bác ta chưa đi thì sao?

– Bộ tao thèm nói xạo với mày sao? Mày không tin tới lão Phúc hỏi coi.

Mắt Sơn hơi nhếch lên:

– Lão Phúc nào nhỉ?

– Lão bán đồ phế thải nhà binh ở đầu dẫy này này. Chính lão bán cho thằng chả con dao đi rừng gần ngàn bạc đó.

Rồi người đàn bà cười khẩy:

– Ý sì! Thời buổi này người ta ở quê chạy ra tỉnh còn chưa xong, mà đòi tính về quê làm ruộng. Cấp này ở Bến Tre đâu có yên.

– Ủa! Bác ta là người Bắc mà.

– Phải, mà điều vợ chả quê ở Bến Tre. Mới lấy nhau bảy tám tháng nay chứ lâu lắc gì.

Sơn reo lên:

– À! Tôi biết rồi. Vợ bác ta bán đồ hộp ở chợ Cầu Ông Lãnh đây chớ gì!

– Mày tổ xạo. Chẳng biết cái mẹ gì mà cũng nói. Gã lấy con gái thím Hường có xe nước đá ở ngay cổng vô đây nè!

Sơn vội vàng xí xoá:

– À, phải rồi. Tôi lộn. Thím Hường thì tôi biết. Thím vẫn ngồi bán ở cổng kia chứ gì.

– Thôi ăn lẹ lẹ lên cha nội. Xí xọn hoài, trễ rồi đó!

Sơn vội vàng lùa nhanh những sợi bún mềm nuột rồi buông bát đứng dậy móc túi trả ra ba chục bạc. Nó thầm nghĩ ba chục thật là rẻ quá. Vừa được ăn bún lại vừa thu thập được cái tin đáng giá ngàn vàng. Dấu tích của Tâm Què thế là đã được bật mí. Gã đã rời Sài Gòn cả tháng nay. Gã về quê vợ. Mà quê vợ gã thì ở Bến Tre. Muốn biết ở Bến Tre thuộc vùng nào thì chỉ việc tìm đến thím Hường bán nước đá là xong. Chà! Ăn bún riêu vào rồi lại được uống một ly nước đá chanh nữa thì thật là tuyệt.

Sơn khoan khoái đứng dậy giơ tay áo lên quệt ngang mồm. Đoạn nó rút êm về phía cổng ra vào. Thím Hường còn ngồi bán ở đó với xe nước đá lỉnh kỉnh những chai nước ngọt đủ màu, những hũ đựng đầy đậu đỏ, đậu xanh, hột é và chanh muối. Sơn tiến lại gần nở một nụ cười thật tươi:

– Thím Hường! Chà, hồi này xe nước của thím coi bảnh dữ.

Thím Hường đang ngồi phe phẩy cái quạt, nghe thấy tiếng gọi vội vàng quay lại. Thím nhìn nó như dò hỏi. Hình như thím đang lục lọi trí nhớ coi thằng oắt con đã quen mình trong dịp nào.

Đoán biết sự bỡ ngỡ của thím, Sơn vội vàng nói tiếp:

– Chà! Anh Tâm vậy mà cũng tệ chớ. Đi cả tháng nay không có tin tức gì về cho đàn em cả.

Người đàn bà thoáng lộ một nét vui mừng:

– Ủa! Vậy ra cậu là chú em của anh Tâm đó hả?

Sơn gật đầu rối rít:

– Dạ…dạ…đúng vậy đó thím.

Sau khi nhìn Sơn một cách kỹ càng, thím Hường mới lại hỏi:

– Cậu tên gì nhỉ. Tại sao không thấy anh Tâm nhắc tới?

Sơn cố làm ra vẻ thản nhiên:

– Dạ…bị chỗ đàn em của anh Tâm thì đông thiếu gì.

– Bộ sở đông lắm hả?

Óc Sơn loé lên một tia sáng như kẻ đi đêm vừa được một tia chớp dẫn đường, nó vội vàng đáp vừa thận trọng vừa lo:

– Dạ đông lắm, nhiều việc lắm thím à…

– Vậy sao nó còn thì giờ đi chơi kìa. Nó nói về nghỉ ngơi mười ngày mà tới cả tháng nay rồi, chưa thấy ra.

Sơn túm ngay được cơ hội, vội vàng tấn công ngay:

– Dạ, thưa đằng sở cũng thắc mắc vậy đó. Họ biểu sao anh Tâm nói đi có vài ba ngày. Tới nay là một tháng rồi chưa thấy trở lại. Bao nhiêu công việc trễ.

Người đàn bà lo lắng:

– Chết vậy có làm sao không? Họ có nói gì không?

– Dạ kể ra cũng phiền lắm. Nhưng họ cứ cố chờ anh Tâm. Họ sai cháu tới tìm ảnh để biết coi làm sao?

Thím Hường đáp:

– Tôi cũng chẳng biết làm sao đây. Mấy bữa rày tôi lo quá.

– Dạ, thưa thế còn chị Tâm?

– Vợ nó đó hả? Về ở luôn dưới đó rồi. Cũng chưa thấy viết thư ra.

Sơn “à” lên một tiếng ra vẻ hiểu biết rồi nói:

– Vậy ra chuyến này anh Tâm đưa chị Tâm về nghỉ ngơi ở hẳn dưới quê. Thôi. Vậy chắc ảnh còn ở lại chơi với chị Tâm ít bữa rồi mới ra chứ gì?

Thím Hường gật đầu:

– Chắc là như vậy.

– Mà cũng khá lâu rồi. Ở đằng sở người ta bắt đầu sốt ruột.

– Tôi cũng vậy nữa!

– Dạ, bởi thế người ta tính cho cháu tới kiếm thử nếu cần thì cũng đi Bến Tre luôn để gặp ảnh. Công chuyện nhiều cái gấp, cần ảnh lắm.

Người đàn bà vui mừng:

– Ờ!… Vậy thế cũng hay đó. Cậu thử xuống kiếm giùm coi. Tôi muốn đi mà kẹt cái hàng này quá.

Sơn hăng hái:

– Cháu thì lúc nào cũng sẵn sàng. Mà điều chỉ không có địa chỉ rõ ràng của anh Tâm.

– Để tôi vẽ cho rồi cậu ghi lấy. Chẳng có khó khăn gì đâu.

Nói rồi thím Hường chỉ vẽ cho Sơn lung tung từng đường đi nước bước, tới đâu thì xuống xe đò, tới đâu thì qua bắc, đi xe lam, hỏi thăm chỗ nào, về đâu, tất cả những chi tiết đó Sơn ghi chép cẩn thận vào một cuốn sổ tay nhàu nát vẫn thường đem theo trong mình. Trước khi từ giã thím Hường, Sơn hứa hẹn:

– Có tin tức gì về anh Tâm, cháu sẽ quay lại báo tin sau.

Thím Hường vui vẻ hưởng ứng, thím căn dặn thêm một vài điều, nhờ nó nhắn dùm một vài tin tức gia đình, và tất nhiên, chẳng đời nào thím tính tiền với nó về ly đá chanh, nhiều chanh, lại nhiều đường.

Ở khu Dân Sinh ra, Sơn trở về nhà thu xếp công việc với một vài bạn bán báo đồng nghiệp, đi mua sắm vài thứ cần dùng rồi sau cùng nó tạt lại toà báo Ánh Sáng gửi chị Thu Dung vài chữ vắn tắt: “Chị, em đi Bến Tre gấp để theo chân anh Tâm thân mến. Chừng xong việc em tường trình cho chị sau – Sơn”.

Sở dĩ Sơn không đến gặp thẳng chị Thu Dung là vì hai lý do: thứ nhất là trong vụ này, nó hy vọng làm nên chuyện lớn. May ra, nếu thánh cho ăn lộc nó lại ôm được mớ tài liệu của Giáo sư Thomas Vincent mà Tâm Què đã lấy trộm của hội Hoa Phù Dung rồi đem về thì ắt hẳn nó sẽ chiếm công đầu và chị Thu Dung cũng như ông Mạc Kính phải phục nó sát đất. Thứ hai là nó sợ chị Thu Dung vì lo lắng cho nó mà cản lại không cho đi. Ôi! Không mạo hiểm vào hang cọp thì làm sao bắt được cọp con. Sơn nghĩ thế và tin tưởng ở mình. Hồi năm trước nó đã chẳng liều mạng cho anh Tư Bạch Đằng bịt mắt dẫn tuốt vô Chợ Lớn, để vào tận trụ sở của hội Hoa Phù Dung mà rồi có làm sao đâu. So cuộc điều tra mà nó và chị Thu Dung đang theo đuổi kỳ này, Sơn thấy khó khăn hơn lần trước nhiều. Một đằng chỉ cần đấu trí sắc bén, lanh lẹ, còn một đằng thì phải bắt tay ngay vào hành động. Kẻ nào chậm chân thì sẽ thua cuộc. Biết đâu trong lúc này Đông Hưng cũng chẳng đang ráo riết theo dấu của Tâm Què. Biết đâu Tâm Què bây giờ chẳng đang ráo riết tìm đường lên Thiên Mã Sơn. Vậy thì chỉ có cách là bám sát theo họ để thừa cơ hội nhào vô “ăn có” vào lúc thuận tiện nhất. Nhưng kiếm được Tâm Què giữa cả một thế giới ồn ào này không phải là chuyên dễ dàng. Phải khởi sự từ chỗ bắt đầu.

Nghĩa là dù có chậm hơn Tâm Què đến một tháng trời ròng rã thì cũng phải theo dấu của gã lúc cất bước đầu. Bước đầu ấy là đây, địa chỉ này, đường đi nước bước Sơn đã ghi chép cẩn thận ở đây rồi. Chỉ còn có việc đi lấy vé xe và lao mình vào nguy hiểm. Phần còn lại, hãy trông chờ may hoặc rủi.

Nghĩ như vậy, Sơn thấy tin tưởng mạnh mẽ hơn. Tối hôm ấy nó đi ngủ thật sớm. Và sáng hôm sau, chỉ mới tờ mờ đất nó đã có mặt ở bến xe để đáp chuyến đi sớm nhất. Chuyến xe khởi hành, trực chỉ hướng Phú Lâm vào hồi đúng năm giờ bốn mươi lăm phút.

Sơn tìm được đến nhà chị Tâm không khó khăn gì. Cuộc hành trình vượt hơn 70 cây số lại thêm gần 10 cây số ngồi trên xe ngựa lắc lư trên đường ruộng không làm cho Sơn mỏi mệt. Lần này nó gọi cổng nhà chị Tâm với một nhiệm vụ thuần tuý gia đình. Nó vin cớ về quê, được thím Hường ở khu Dân Sinh tiện thể nhờ ghé qua hỏi thăm tin tức gia đình. Với lý do minh bạch như vậy, Sơn tin chắc nếu có chạm trán với anh Tâm thì cũng chẳng nguy hiểm gì.

Nhưng trái với sự mong ước của Sơn, anh Tâm không có nhà, chỉ có chị Tâm ra đón ở cổng với một cái nhìn dò hỏi. Chị Tâm rất trẻ, nhiều lắm thì cũng độ hai mươi bẩy, hai mươi tám là cùng. Chị có dáng dấp của một người đàn bà đảm đang, hiền lành, quanh năm chỉ lo lắng đến công việc ở trong nhà. Nghe Sơn tự giới thiệu là có thím Hường nhờ ghé qua hỏi thăm, chị đã đón tiếp Sơn, một cách hết sức vồn vã. Chị mời Sơn vào nhà rót nước cho nó uống rồi hỏi thăm rối rít.

Qua câu chuyện, Sơn được biết anh Tâm mới lấy chị chừng non một năm, và chị hầu như không biết gì về những việc làm của chồng. Chị chỉ nghe nói anh Tâm làm việc với một ông chủ tốt (chắc là Đông Hưng, Sơn đoán vậy).

– Ông chủ tốt với ảnh lắm, chú à. Cách đây một tháng ổng cho ảnh nghỉ ngơi dưỡng sức…

– Trong thời gian ở nhà, chị thấy ảnh ra sao, có ốm đau, buồn rầu gì không?

– Cũng không được khoẻ lắm. Nhiều khi ảnh tỏ ra lo lắng cho công việc; nhưng thường thì ảnh vẫn vui vẻ như thường.

– Rồi bây giờ ảnh ở đâu? Sao không thư từ gì cho trên đó, làm bà cụ mong.

– Tôi mới viết thư hôm qua đó, chắc vài bữa nữa thì má tôi nhận được. Ảnh chưa về Sài Gòn đâu. Nghe nói ảnh đi công việc chắc lâu mới về.

Sơn giật mình hỏi ngay:

– Chị có nghe nói ảnh đi đâu không? Mà đi từ bao giờ?

Chị Tâm nghĩ một chút rồi nói:

– Cách nay cũng hai hôm rồi.

Sơn nghĩ bụng đúng vào thời gian Đông Hưng vượt ngục hay trễ hơn một chút, chắc lại có chuyện rắc rối đây. Chị Tâm vẫn tiếp tục nói:

– Bữa hổm có một người bạn nói là cùng sở đến tìm ảnh. Nói là ảnh phải về gấp ông chủ kêu. Rồi hai người cùng đi.

– Người ấy thế nào chị nhớ không?

– Nhớ chứ! Anh ta cũng trạc tuổi anh Tâm, người to con, da đen trũi, đội cái kết tùm hụp, chắc là thợ máy gì đó.

Sơn kêu lên:

– Tư Bạch Đằng!

Chị Tâm hỏi:

– Ủa! Thế ra chú biết anh ta hả?

– Em không quen nhưng có nghe nói.

– Chắc là vậy đấy. Anh Tư… anh Tư gì nhỉ?

Sơn nhắc:

– Anh Tư Bạch Đằng!

Chị Tâm gật đầu:

– Phải, anh Tư Bạch Đằng đến đón anh Tâm được hơn một ngày thì quay trở lại trao cho tôi hai chục ngàn, nói là tiền lương của anh Tâm gửi lãnh trước, bởi vì ảnh phải đi xa chắc lâu mới về.

Sơn có cảm giác lạnh buốt ở xương sống, nó vội hỏi:

– Nhưng anh Tâm có gửi giấy căn dặn hay từ biệt gì không?

Chị Tâm lắc đầu:

– Không, tôi không thấy gửi thư gì cả. Ảnh chỉ nhờ anh Tư trao hộ hai chục ngàn thôi và nhắn là ông chủ sai đi công việc xa, chắc lâu mới về.

– Xa là ở tỉnh nào, chị có hỏi không?

– Tôi có hỏi nhưng anh Tư nói là tuỳ công việc, chưa thể nói chắc được.

– Lúc anh Tâm đi ảnh có mang theo đồ dùng gì không? Ảnh có để lại nhà thứ gì không?

Chị Tâm trả lời:

– Có, ảnh xách theo cái túi vải trong đựng vài thứ lặt vặt như quần áo khăn mặt, bàn chải, thế thôi.

Sơn mỉm cười:

– Chị làm sao biết hết những gì ảnh mang đi được.

– Thì tay tôi soạn cho ảnh mà. Bị vội quá thành ra quên mất của ảnh cái quần dài mới giặt chưa khô.

Sơn móc nối ngay:

– Quên như vậy là ít đó chị. Nhưng không hiểu ảnh chỉ bỏ lại cái quần dài hay còn nhiều thứ khác! Sách vở, giấy má chẳng hạn.

Chị Tâm cười:

– Chẳng có cái gì hết trơn. Ảnh thì có bao giờ ngó đến sách vở đâu.

Sơn suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:

– Thế hôm anh Tư Bạch Đằng trở lại đưa cho chị hai chục ngàn, ảnh có lấy chiếc quần dài đem dùm cho anh Tâm không, hay ảnh có hỏi thăm gì đồ dùng của anh Tâm bỏ quên lại không?

Chị Tâm lắc đầu:

– Không hỏi gì hết. Ảnh chỉ đưa tiền, nói vội mấy câu rồi đi ngay mà thôi.

Sơn làm như chợt nhớ ra điều gì liền hỏi:

– À, ở đây về Sài Gòn thường đi bằng xe đò hãng nào tốt chị nhỉ? Bữa hôm đó anh Tâm với anh Bạch Đằng cùng đi bằng xe đò hay đi bằng xe hơi.

– Làm gì có xe hơi. Bộ chú tưởng giàu lắm sao, cũng là đi làm công cả. Bữa đó cả hai người cùng đi bằng xe đò của hãng Á Châu.

– Sao chị biết?

– Bị có người ở xóm này gặp hai ảnh ở bến xe của hãng Á Châu mà. Vả lại hãng đó được tín nhiệm, đi có bảo đảm hơn cả.

Trò chuyện một lát, Sơn đứng dậy xin về mặc dầu chị Tâm cố giữ nó lại ăn cơm. Qua cuộc tiếp xúc vừa rồi, Sơn tìm thấy được một vài ánh sáng mới:

– Thứ nhất là Tâm Què có về quê nghỉ ngơi từ một tháng trước.

– Thứ hai là Tâm đã rời nhà để đi cùng với Tư Bạch Đằng nhưng không biết là đi đâu.

– Thứ ba là sau đó Tâm biệt tích. Lý do mà Tư Bạch Đằng đưa ra nói với chị là anh Tâm đi làm xa chỉ đánh lừa được những người chất phác như chị mà thôi. Còn theo ý của Sơn, thì Tâm nhất định gặp chuyện không may rồi. Món tiền hai chục ngàn là tiền “nhã ý đền bù” của nhóm Đông Hưng chứ gì.

Vấn đề bây giờ là Sơn phải trả lời được những câu hỏi mà tự nó đặt ra: Tâm Què và Tư Bạch Đằng đã đi đâu? Họ có về Sài Gòn không? Sau đó đã có chuyện gì xẩy ra giữa hai người? Hiện nay Tâm Què ở đâu? Tại sao anh Tư lại nói dối chị Tâm là anh Tâm phải đi làm xa? Có phải Tâm đã bị thủ tiêu rồi không? Nếu đúng là vậy thì Tư Bạch Đằng đã ra tay ở đâu? Xác Tâm Què được giấu ở đâu? Tư Bạch Đằng hay hội Hoa Phù Dung giết Tâm Què vì lý do gì?

Việc trước tiên mà Sơn thấy cần tìm hiểu ngay là hai người đã bảo nhau đi đâu? Sài Gòn hay một nơi nào khác? Muốn hiểu rõ, không còn cách nào khác hơn Sơn phải tìm đến hãng xe Á Châu. Nói là hãng chứ thật ra đấy chỉ là một khoảng đất trống dựng lên một tấm dù lớn và ở dưới là một cái bàn nhỏ kê làm chỗ bán vé và ghi tên tuổi số căn cước của khách hàng mỗi chuyến xe.

Lúc Sơn tìm đến thì chuyến xe cuối cùng trong ngày đang sửa soạn lên đường. Hành khách tuy vậy vẫn còn đông đảo, người đi, người tiễn, người rao hàng, các quán lụp sụp tấp nập tạo thành một khung cảnh ồn ào náo nhiệt. Sơn chú ý tới ngay chiếc bàn bán vé xe kê ở dưới một gốc cây lớn. Chiếc dù che ở trên tuy may bằng vải dày nhưng cũng đã rách hở nhiều chỗ. Lúc này hành khách đang chen nhau đưa thẻ căn cước cho người bán vé để ghi tên và số thẻ vào một bản danh sách kê khai khách hàng sẽ đi chuyến xe. Đó là một thủ tục lưu thông cần thiết.

Người ngồi làm việc là một gã đàn ông trạc ngoài ba mươi tuổi. Gã có vẻ một người thợ nhiều hơn là một viên thư ký. Chỉ cần nhìn vào cách cầm bút của gã cũng đủ thấy gã viết lách một cách khó khăn. Người chen vô thì đông mà gã viết thì thật chậm, nét bút quều quào, nguệch ngoạc trên tờ giấy mỏng làm hằn lên mặt giấy những chỗ lõm thật sâu. Đã thế gã lại không được yên ổn để làm việc một cách thuận tiện. Người ở bên phải, người ở bên trái, người ở đằng trước, người ở đằng sau, họ xô đẩy, chen lấn nhiều lúc làm chính gã cũng phải ngả hẳn người đi, khiến cho đầu bút của gã bị lôi đi thành những vệt dài. Gã bực bội la lối om sòm:

– Chèn ơi! Cô bác có để cho tui mần không đây. Trước sau gì cũng tới lần mà. Không ghi được hết cái này làm sao xe chạy mà cứ xấn tới xấn lui hoài.

Lời giải thích hợp lý của gã không thay đổi gì được hơn. Cái tâm lý của người mình như vậy, ai cũng thích mình được làm xong trước, mặc dầu có khi mình lại là kẻ đến sau và mặc dầu nếu có làm xong trước rồi thì cũng đến lóng ngóng đứng ngồi cho đến khi tất cả đều làm xong.

Tuy vậy Sơn không để ý gì tới sự ồn ào của mọi người. Qua khe hở của đám đông bu lấy cái bàn nhỏ, Sơn chú ý tới một cuốn sổ lưu trữ những bản danh sách ghi tên những khách hàng đã đáp các chuyến xe của các ngày qua. Cuốn sổ để ở một góc bàn, phía trên chặn lại bằng một ly nước đã uống cạn, ở bên trong chỉ còn chiếc muỗng bằng nhựa cũ kỹ.

Sơn tự nghĩ không còn dịp nào tốt hơn lúc này để hành động. Nó liền len qua lưng một người đàn bà, hai tay của nó xô mạnh một người đàn ông đứng trước, miệng nó la lên “Má ơi! Má ơi! Ba kêu!” Cái vòng rào đầy người rung rinh đó bỗng nhiên nghiêng đi ở một chỗ; người đàn ông bị nó đẩy mạnh bỗng mất thăng bằng xô chúi về đằng trước. Hắn ta nhào lên vồ được vai áo của người đằng trước nữa rồi níu lấy. Kẻ bị níu vội la lên và né qua một bên. Thế là năm sáu người kéo theo nhau ngã rúi rụi đồng thời những tiếng chửi thề loạn xạ nổi lên. Kẻ nào yếu thì la hét inh ỏi, kẻ nào mạnh thì xô phứa phựa vào bất cứ đầu ai, mình ai để gạt ra lấy một chỗ đứng. Ly nước bằng thuỷ tinh để trên bàn theo cái đám hỗn độn ấy mà bổ nhào rơi xuống đất vỡ tan tành, báo hại mấy người ở gần sợ dẫm phải mảnh thuỷ tinh lại càng la bải hải như cướp chợ.

Chỉ chờ có cơ hội đó là Sơn nhào vô, nó chen lên vai một ông già, lẹ như cắt thò tay lên mặt bàn rút nhanh ra một xấp các bản danh sách lưu trữ rồi nhét vô bụng quần. Trong đám hỗn loạn ồn ào ấy chẳng ai để ý đến nó cả. Mọi người còn đang lo mắng nhiếc nhau ầm ĩ. Riêng có gã ngồi làm việc thì miệng vừa hét, tay vừa hốt cả mớ căn cước còn để trên bàn nhét vô cái cặp táp bằng ni lông để ở dưới bàn. Xong xuôi gã xô ghế đứng dậy và nói:

– Đã chen cho chen luôn. Rồi tới tối xe đi là vừa.

Nói rồi gã xô mạnh mấy người ở đằng sau ra và rút êm vô cái quán cốc ở gần đó. Đám đông đang xúm xít lại bỗng như có một phép lạ, tản ngay ra và bây giờ thì người ta chia thành từng nhóm nhỏ để cãi nhau ỏm tỏi. Trong lúc đó thì thằng Sơn cũng đã chuồn êm từ lúc nào. Nó mỉm cười một cách ranh mãnh khi còn nghe thấy tiếng la lối từ đám đông vọng lại.

Nó tìm vào một quán nước vắng người gọi một chai xá xị rồi moi ra mớ hồ sơ mà nó vừa phỗng được. Đó chỉ là những tờ giấy pelure mỏng dùng làm phụ bản cho bảng danh sách chính thức mà mỗi tài xế phải mang đi theo xe. Nét chữ in hằn qua lượt giấy than lót ở dưới chỗ đậm chỗ nhạt, nhiều chữ lổm ngổm như cua bò trông rất tức cười. Tuy vậy Sơn cũng đọc rất rõ tên từng hành khách đã được ghi theo thứ tự. Sơn lựa những tờ thuộc về các chuyến xe chạy từ hai ba ngày hôm trước. Và nó hồi hộp theo dõi. Quả nhiên trên một tờ đề ngày 16 của chuyến xe mang số đăng bộ EWA 7589, tại dòng thứ 31 và 32 Sơn đọc thấy:

– Nguyễn Tư Tâm 36 tuổi, căn cước số A 008762 cấp tại Sài Gòn ngày…

– Trần văn Tư 37 tuổi căn cước số A 176534 cấp tại Sài Gòn ngày…

Riêng ở hai tên hành khách này, Sơn thấy có dấu ngoặc ghi chú hai chữ đi Long An. Như vậy là cả hai người không về Sài Gòn mà cũng không qua biên giới. Sơn tự hỏi họ xuống Long An với mục đích gì. Một chi tiết rất có lợi cho sự theo đuổi của Sơn lúc này là trong suốt bảng danh sách, Sơn chỉ thấy có hai hành khách xuống xe ở Long An. Sơn hy vọng nếu như vậy thì cả hai người dễ có thể bị nhận diện hơn. Nó nghĩ, kẻ có nhiều cơ hội nhận diện được nhất hẳn phải là anh ét chạy chuyến xe Á Châu mang số 18. Hiện các chuyến xe của hãng này đã rời bến. Vậy Sơn phải canh chừng ít lắm là cũng phải một ngày để chuyến xe trở lại. Thời gian tuy vô cùng quý báu nhưng Sơn không thấy có cách nào khác hơn. Nhìn chiếc đồng hồ treo trên vách nhà hàng, Sơn thấy đã chỉ hai giờ chiều. Nó trả tiền chai nước rồi đi lang thang trong thành phố.

Đến chập tối, nó quay trở lại bến xe để tìm xem chiếc xe nó cần biết đã về hay chưa. Nhưng trong dẫy gần mười chiếc của hãng Á Châu, Sơn không thấy xe nào mang số 18. Sơn lặng lẽ đi ra đứng ở bờ hồ. Nó nghĩ buổi chiều ở tỉnh lẻ “buồn như trấu cắn”. (Sơn cũng như nhiều người ví von không sát thực tế vì buồn tức là muốn, như buồn ngủ, mà cũng là nhột giống như khi bị trấu -vỏ thóc của hạt gạo- dính vào người.)

Sơn bỗng nhớ đến chị Thu Dung, không biết chị đang làm gì ở Sài Gòn. Chắc chị lo cho nó lắm. Cũng như lần trước, nếu không có sự xuất hiện bất ngờ của ông Mạc Kính vào phút chót thì hội Hoa Phù Dung đã nghiền nó nát ra như cám vụn rồi. Trải qua những cuộc nguy hiểm như vậy Sơn không thấy e ngại mà càng như quen thuộc hơn.

Vào khoảng hơn chín giờ tối, Sơn leo lên một chiếc xe Á Châu kiếm chỗ nằm ngủ. Vào giờ ấy, bến vắng hoe, những chiếc xe nằm im lìm trong bóng tối. Bầu trời ở tỉnh nhỏ êm ả và có gió thổi trong mát. Vừa mệt mỏi, lại sẵn đệm êm, Sơn vừa ngả mình xuống là đã thiu thỉu ngủ. Giấc ngủ chắc chắn sẽ đến với nó thật ngon lành nếu thời gian vẫn yên tĩnh trôi qua. Nhưng ngay khi đầu óc Sơn còn ở trạng thái bềnh bồng thì chợt có tiếng dép khua ở ngay phía đuôi xe gần đó. Sơn khẽ trở mình, xoay nghiêng vành tai về phía có tiếng động để lắng nghe. Lần này nó phân biệt được cả tiếng dép và tiếng guốc. Như vậy là phải có ít nhất là hai người. Một lát có tiếng nói vọng lên nghe rất rõ, đó là tiếng của một người đàn ông đứng tuổi:

– Chú Sáu đấy phải không?

Một giọng trẻ hơn đáp lại:

– Em, Sáu đây!

Và cuộc đối thoại tiếp tục:

– Chú về bao giờ thế?

– Dạ, mới hồi chiều.

– Công việc ra sao?

– Dạ, đúng như anh Ba hoạch định. Tụi em xuống Long An rồi đi Tầm Vu, công tác thực hiện ở đúng địa điểm B6.

– Có gì trở ngại không?

– Da, thật hoàn toàn như anh Ba dự tính. Con mồi đã cắn câu và em đã giao cho mụ Quới làm nốt phần còn lại.

– Chú có dặn kỹ mụ là phải làm cho phi tang đi không?

– Nghề của mụ mà anh Ba. Đây, em gửi anh căn cước và giấy tờ của đương sự để anh Ba làm bằng.

– Tốt lắm! Phần thưởng của chú đây. Năm mươi ngàn đấy. Chú phải dù êm trong hai tháng, chớ có lộn xộn đa.

– Cám ơn anh Ba. Em biết việc mà.

– Ngày mai tôi đi Sài Gòn báo cáo ông chủ. Chốc nữa chú nhớ ghé qua đằng bờ sông gặp thằng Út, dặn nó là phải chờ tôi ngày mốt ở nhà nhé.

– Vâng. Anh Ba còn cần gì nữa không?

– Thôi, chuồn êm đi. Nhớ là trong các câu chuyện, tránh đừng đề cập đến Tâm Què nữa nghe không. Nội vụ phải cho chìm xuồng luôn, nghe chú.

– Dạ…dạ… em nhớ.

– Thôi chào chú.

– Chào anh Ba, em về.

Cuộc đối thoại đến đây chấm dứt. Sơn nghe tiếng chân đi qua chỗ mình nằm. Nó ép mình xuống đệm trong một giây rồi nhổm dậy. Sơn chỉ còn kịp nhận thấy một bóng áo trắng đi về phía cầu chợ. Lập tức như một con mèo, nó nhẩy khẽ xuống sàn xe rồi lẻn nhanh vào một góc tối. Sau khi biết chắc người thứ nhì đã đi khỏi, Sơn vụt chạy theo bóng áo trắng. Bây giờ thì Sơn nhận ra đấy là người trẻ tuổi mà anh Ba vừa kêu là chú Sáu. Chú Sáu đi vội vã nhưng vẫn vô tình không biết có kẻ đang bám sát ở sau lưng.

Chú ra bờ sông, đi loanh quanh một hồi rồi bước vào một tiệm nước bán khuya. Khách hàng không đông đảo nhưng cũng đủ để Sơn có thể lẫn vào trong mà không ai chú ý. Nó chọn một chỗ ngồi thuận tiện, xế gần sau lưng chú Sáu và gọi một ly nước ngọt. Chú Sáu bợm nhậu hơn, kêu hẳn uýt- ki sô- đa. Chú có năm chục ngàn trong túi lận, giá của mạng sống Tâm Què đấy.

Sơn tiếc là mình không có lấy cái máy chụp hình nhỏ xíu giống như chị Thu Dung có lần được một người bạn đi ngoại quốc về tặng. Cái máy vừa bằng bao quẹt, nguỵ trang là chiếc máy lửa, bật thành lửa đàng hoàng, nhưng bên trong là một cuộn film nhỏ xíu có 8 ly. Từ ngày có cái máy, chị Thu Dung chỉ dùng hết có một cuộn phim vào dịp điều tra nhân vật chủ chốt vụ đánh cắp bức chân dung của Ngọc Hân Công Chúa, Bắc Cung Hoàng Hậu của Quang Trung Võ Hoàng Đế tại Viện Bảo Tàng Văn Học Nghệ Thuật Quốc Gia. (Tác phẩm sẽ xuất bản.)

Cái máy sử dụng rất dễ dàng, chỉ hiềm phải hút thuốc lá trước đám đông là điều mà chị Thu Dung không ưa thích chút nào. Thứ đến nữa là việc rọi phim thành ảnh lớn cũng rất phiền phức. Loại máy phóng thường không đủ độ xa để lấy ảnh rõ. Ở Sài Gòn có một ông Tầu ngồi xế rạp REX là có thể làm phóng ảnh của loại phim này. Nhưng bây giờ ông Tầu giải nghệ, kiếm chỗ làm ảnh khó khăn, chị Thu Dung bèn xếp xó cái máy đắc dụng đó. Nhưng không phải vì thế mà Sơn không còn cách nào khác lấy được hình kẻ phạm pháp. Bộ óc nhận xét tinh vi của nó là một. Sơn sẽ ghi nhớ thật kỹ mọi khía cạnh cần thiết của chú Sáu rồi khi về Sài Gòn sẽ nhờ sự hợp tác của các chuyên viên dưới quyền ông Mạc Kính.

Họ là những người tài giỏi trong Ban Nhận Dạng sở An Ninh Quốc Gia. Họ có cả trăm ngàn kiểu tóc, khuôn mặt, mắt, mũi, mồm, v.v… Họ sẽ cho Sơn ngồi trước một màn ảnh nhỏ và theo lời chỉ dẫn của Sơn, họ sẽ lựa ra một khuôn mặt gần giống như Sơn mô tả. Sau đó họ sẽ thay đổi một vài cỡ, xê dịch chút đỉnh để tìm ra một khuôn giống y hệt. Một họa sĩ sẽ cộng tác với công việc tỉ mỉ này. Cứ theo cách lựa chọn đó, các chuyên viên sẽ “khui” ra dần dần tất cả hình dáng trên khuôn mặt của kẻ bị truy tầm, và cuối cùng họa ảnh của chú Sáu sẽ được in ra cả chục ngàn tấm gửi đi khắp nơi với ghi chú đính kèm:

“Sát nhân cần truy nã gắt!”

Chỉ cần tưởng tượng đến cái phút chú Sáu lọt vô tròng là Sơn đã thấy khoan khoái, mỉm cười một mình.

Chú Sáu ngồi nhâm nhi ly rượu một cách bình thản, và mắt chú thỉnh thoảng lại liếc ra chung quanh. Sơn chợt nhớ tới cuộc đối thoại nghe lỏm được lúc vừa qua: “Chốc nữa chú nhớ ghé lại đằng bờ sông gặp thằng Út…” À! Thì ra chú Sáu đang cần tìm gặp người quen. Hình như “thằng Út” chưa tới nên chú bắt đầu có vẻ sốt ruột.

Chú đảo quanh mắt một lần nữa. Sau cùng chú biết chắc Út không có mặt trong đám đông, chú liền kêu thêm một ly uýt-ki nữa. Sơn bắt đầu lo ngại vì một đám đông khách hàng bắt đầu trả tiền và lục tục ra đi. Quán hàng vắng đi. Bàn ghế lỏng chỏng, ly tách, bát đũa ngổn ngang. Nó thầm nghĩ nếu mình chỉ nán thêm năm, mười phút nữa thì thế nào cũng bị chú Sáu chú ý.

Còn đang phân vân ở thế tiến thoái lưỡng nan, bỗng Sơn giật thót mình lên. Vì kìa, thật là lạ lùng chưa, chú Sáu chỉ mới vài giây trước còn đang mạnh khoẻ vững vàng, bỗng dưng chú chúi hẳn sang một bên, hai bàn tay run rẩy sờ soạng cố níu lấy mép bàn, rồi trong một giây bất ngờ, chú ngã đổ xuống sàn đá hoa, mặt ngửa lên trời, hai mắt trợn ngược, ngay đơ, trên khuôn mặt còn trẻ trung sạm nắng in hằn một vẻ thảng thốt kinh sợ đến tột cùng.

Trong một giây thoáng qua rất nhanh, Sơn đã tìm ra nội vụ. Như thế có nghĩa là bọn Hoa Phù Dung đã muốn bịt miệng vĩnh viễn chú Sáu đáng thương hại kia. Cuộc hẹn của anh Ba tại đây chỉ là một cách dẫn Sáu đến án tử. Họ đã làm quá nhanh nhẹn trước mắt mọi người. Hẳn một kẻ nào đó trong đám thực khách vừa đi ra đã nhúng tay vào nội vụ. Và chắc hẳn chú Sáu đã bị uống phải một liều thuốc cực độc đã được lén cho vào ly rượu trong lúc bồi bàn lách qua đám đông thực khách để đem lại cho chú Sáu. Như thế là công cốc! Bao nhiêu công trình theo đuổi từ hôm qua đến nay bây giờ thế là hết. Đầu mối mới vừa được mở ra là đã bị triệt ngay lập tức. Sơn còn biết làm gì hơn là trở về báo cáo chuyến đi với chị Thu Dung : “Tâm Què đã bị thủ tiêu. Còn thủ phạm vụ thủ tiêu cũng bị thanh toán nốt!”

Con đường mà Sơn định theo đuổi để mong làm nên chuyện lớn đã trở thành con đường cụt.