Chương Chín CAO ĐỘ 1625 THƯỚC
Năm giờ chiều, Lãng Tử đã có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất. Lần này hắn giả trang dưới phong thái của một nhà đại thương gia với bộ đồ lớn màu xám đậm, đôi kính trắng gọng vàng choé đắt tiền nhưng hơi rởm, và chiếc cặp táp vuông vức như chiếc va li gọn ghẽ cầm tay. Lãng Tử đi thẳng ra sân bay sau khi xuất trình hợp đồng thuê chiếc máy bay tắc xi kiểu Cesna hai chỗ ngồi. Chiếc máy bay tuy đậu cách chiếc phản lực cơ Boeing 707 non hai trăm thước, nhưng vẫn còn bị tương phản mạnh mẽ, khiến ta có cảm giác như nó chỉ là một thứ đồ chơi trẻ con.
Người phi công đã đợi sẵn từ trước đó mười phút. Cả hai gặp nhau chỉ trao đổi một cái gật đầu chào. Lãng Tử leo lên, ngồi cạnh ghế của phi công, tự tay buộc lấy khoá an toàn. Chiếc máy bay bắt đầu nổ máy và lăn từ từ ra phi đạo. Năm phút sau, nó bay bổng trên vùng trời Sài Gòn và bắt đầu nhắm hướng tây nam thẳng tiến. Trời đẹp. Gió đứng. Bốn bề trong vắt dưới ánh nắng bảng lảng hoàng hôn. Chiếc máy bay đi êm ả như đang vào cõi mộng.
Cho đến giây phút ấy Lãng Tử thấy mọi dự tính của mình đều tuyệt hảo. Hắn khẽ rút một điếu thuốc ra châm hút rồi thả khói lơ mơ nhìn xuống con sông Đồng Nai ở phía dưới như con rắn bạc khổng lồ trườn mình trên tấm thảm xanh. Nhưng chỉ một lát sau con sông xa dần hướng bay rồi mất hút sau những khoảng cây cối xanh rì. Ngay lúc đó, người phi công giơ tay bấm vào một cái nút ở bộ phận máy móc nào đó. Và một giọng nói từ một cuộn băng nhựa thu thanh sẵn cất lên:
– Đây là tiếng nói của Hội Đồng Chủ Tịch Hội Hoa Phù Dung, gửi Mã Huy Hùng, tự Mã Hùng, tự Mã Thiếu Hùng…
Mặt Lãng Tử đang tươi rói bỗng trắng bệch hẳn ra. Hắn mở hai mắt lên, quay lại nhìn viên phi công với đầy vẻ hãi hùng.
Nhưng mặt viên phi công vẫn lạnh như tiền, còn lạnh hơn cả mũi súng đen ngòm không biết đã được rút ra từ lúc nào và đang chĩa đúng vào ngực gã đàn ông như thách thức. Trong khi ấy ở cuộn băng nhựa bỗng phát lên một tiếng cười ngạo nghễ, tiếng cười lộ vẻ thích thú, nhưng cũng chất chứa những nỗi hờn căm. Rồi tiếng cười đột ngột chấm dứt và tiếng nói lạnh lẽo lại cất lên:
– Chắc Mã Hùng ngạc nhiên lắm hả. Nhưng có sự việc gì mà Hội Hoa Phù Dung lại bỏ qua không biết đến. Thứ nhất lại là một hành vi phản bội.
Rồi giọng nói bỗng dằn từng tiếng:
– Mi đã phá hỏng kế hoạch “lông ngỗng” của Hội trong mục đích dùng Tâm Què làm lạc hướng điều tra của lão Thanh Tra Mạc Kính. Tâm Què đáng lẽ chỉ là con cờ đi một nước thì chính mi tiết lộ kế hoạch cho nó biết nên đã thúc đẩy nó phản bội thật sự, đánh cắp tài liệu trốn đi.
Đó là sự phản bội thứ nhất của Mã Hùng. Tin tưởng vào sự hợp tác của mi, Tâm Què liều lĩnh đánh cắp tài liệu trao tận tay mi rồi, thì chính nó lại bị mi trở mặt, thông báo cho Hội địa chỉ ẩn náu của nó để nó bị Hội thi hành bản án tử hình. Đó là sự phản bội thứ hai, mà chỉ những hạng người như mi mới xuống tay với anh em đồng bạn. Với hai tội đã kể trên, hẳn mi đã ý thức được số phận mình ra sao rồi. Hội Đồng Chủ Tịch trong phiên họp khẩn cấp ngày 16-8 tại địa điểm C4 đã long trọng kết án tử hình Mã huy Hùng, tự Mã Hùng, tự Mã Thiếu Hùng, Đệ Tam Phó Chủ Tịch Hội Hoa Phù Dung đặc trách kế hoạch Đom Đóm Trời. Phương tiện thi hành bản án: xô ngã từ độ cao 1625 thước biểu lộ ý chí đồng tâm của 1625 hội viên. Người thi hành bản án: X. 186.
Tiếng nói đến đây thì ngừng lại, và viên phi công, hay nói rõ hơn là hội viên mang bí số X. 186 đột nhiên kéo cần lái về phía trước để nâng độ cao của chiếc phi cơ lên 1200 thước… rồi 1600 thước… rồi 1625 thước…
Mã Huy Hùng bạc nhược như con thú bị thôi miên, hết phản ứng, mắt hắn chỉ biết trợn lên nhìn cây kim đồng hồ đo độ cao vọt lên dàn dần. Khi nó dừng lại ở đúng con số định mệnh, thì Huy Hùng với bản năng tự vệ, chồm lên, dùng tất cả sức lực níu chặt lấy chiếc cần lại để bẻ nó lại. Nhưng X. 186 đã giơ tay thật cao chặt xuống cườm tay của hắn một cái thật mạnh. Hùng kêu rú lên một tiếng đau đớn, và cả thân hình của hắn ngã chúi về phía đằng trước. Nhanh nhẹn, X. 186 chộp lấy cổ tay hắn, và ghì lại đằng sau rồi đẩy hắn hơi nghiêng ra phía ngoài. Mã Hùng kêu to lên thất thanh:
– Đừng!… Đừng!…
Nhưng gió bên ngoài ùa vào lỗ tai của hắn thật mạnh khiến hắn có cảm tưởng như trăm ngàn cơn lốc đang bốc xoáy vào một bên thái dương. Tiếng kêu của hắn bị lạc hẳn. Rồi hắn ngất đi không biết gì nữa…
Sự việc xẩy ra đã đưa Mã Hùng từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, và sự khiếp đảm đã làm hắn hoàn toàn mất hết khả năng chống cự. Nhưng nếu hắn không quá sợ để ngất đi thì hắn sẽ còn phải ngạc nhiên cùng độ hơn nữa khi được chứng kiến sự việc xẩy ra ngay sau đó.
Viên phi công lầm lì sau khi đã đẩy dứ hắn nghiêng ra ngoài phi cơ để hắn có cảm giác hãi hùng của một kẻ chịu lãnh một bản án trên độ cao 1625 thước, gã đã vội vàng níu Mã Hùng lại và để hắn ngoẹo đầu trên chiếc ghế bọc nệm màu da đỏ. Sau đó gã điều chỉnh tần số vô tuyến và gọi vào ống nói:
– Gà Cồ gọi Gà Di…, Gà Cồ gọi Gà Di…
Lập tức ở máy khuếch âm bên tai có tiếng vọng ra:
– Gà Di nghe rõ Gà Cồ… Gà Di nghe rõ Gà Cồ… chờ lệnh…
– Sẽ đáp xuống địa điểm ấn định trong vòng 7 phút nữa…Nghe rõ, trả lời…
– Nghe rõ… Tất cả đã sẵn sàng…
Viên phi công mỉm cười nghiêng mình ra ngoài để quan sát địa thế rồi kéo cần lái để phi cơ rà xuống thấp. Một giải đồng xanh vừa hiện ra ở ngay tầm mắt và một cuộn khói lam đang bắt đầu vươn lên trong ánh nắng thoi thóp của buổi hoàng hôn.
Đúng bẩy phút sau, chiếc phi cơ sau khi lượn một vòng để sửa soạn, đã đáp xuống một khoảng đất trống rộng không quá một chiếc sân banh hạng vừa.
Một toán người đã đứng lố nhố chờ sẵn. Phía đằng xa là một dãy gồm ba chiếc xe cùng kiểu Chevrolet sơn màu nửa xanh nửa trắng, màu của sở An Ninh Quốc Gia. Ở trên phi cơ bước xuống, viên phi công được mọi người kính cẩn cúi chào. Lúc cái mũ được gỡ ra, và lớp bột hoá trang trên mặt được lau đi, người đó không ai khác hơn là ông Thanh Tra Mạc Kính!
Phải, đúng viên phi công đã sử dụng phương tiện của hội Hoa Phù Dung để vạch mặt Mã Thiếu Hùng trên độ cao 1625 thước vừa qua chính là viên thanh tra tài ba với lề lối làm việc âm thầm, ít nói nhưng vô cùng hữu hiệu.
Ngay khi vừa bước xuống, ông ta đã sử dụng máy vô tuyến để liên lạc với Sài Gòn. Nhân viên của ông báo cáo kết quả mỹ mãn.
Hội Hoa Phù Dung hoàn toàn không hay biết gì về cuộc đánh tráo phi công ngay tại phi trường Tân Sơn Nhất. Và viên phi công thứ thiệt, hội viên Hoa Phù Dung mang bí số X. 186 người có nhiệm vụ thi hành bản án trên 1625 thước thì hiện nay đang nằm chờ để được khai thác tại phòng giam của ban Hoạt Vụ Sở An Ninh Quốc Gia tại một địa điểm kín đáo ở Đô Thành.
Mười phút sau, sau khi đã trao cho người khác lái chiếc máy bay taxi để tiếp tục lộ trình nhằm che giấu con mắt nghi ngờ của hội Hoa Phù Dung, ông Mạc Kính lên xe hơi cấp tốc trở về Đô Thành. Vẻ mặt thoả mãn, khoan khoái lúc vừa qua bây giờ đã biến đi, nhường chỗ cho vẻ ưu tư phảng phất trên vầng trán phẳng. Cặp mắt sắc như dao của ông bây giờ như xa vắng, cặp môi mỏng hơi mím lại, một đường gân nổi lên chạy ngang khu thái dương, làm tăng thêm vẻ khắc khổ, cương quyết. Sự im lặng suy tư của ông làm mấy nhân viên tháp tùng đang xì xào bàn tán về chiến công vừa qua, bỗng vụt im bặt. Tất cả đều giữ vẻ trang nghiêm và ai nấy đều nhìn qua kính cửa. Trời bên ngoài bắt đầu sẩm tối. Một vài chiếc xe chạy ngược chiều đã bắt đầu lên đèn. Con đường nhựa trơn bóng trải dài trước mặt. Đoàn xe của ông Mạc Kính vùn vụt lao đi. Chiếc kim trên mặt đồng hồ đo tốc lực chỉ tại con số 120 cây số giờ.
Trong lúc có nhiều diễn biến kỳ lạ (hẳn sẽ gây thắc mắc đối với độc giả, nhưng mọi sự sẽ được giải thích) quanh trục tam giác: hội Hoa Phù Dung, kẻ mạo danh Tâm Què tức Mã Thiếu Hùng và ông Thanh Tra Mạc Kính, thì hai chị em nữ ký giả Thu Dung và Sơn bán báo ngồi buồn thỉu buồn thiu tại căn phòng xinh xắn ở nhà chị Thu Dung.
Sơn rầu rĩ vì lý do đã theo dấu được Tâm Què thì hắn ta bị thủ tiêu mất tích. Túm được đầu mối bọn thủ tiêu là chú Sáu thì chính chú ta cũng bị bịt miệng nốt tại quán vắng về khuya ở trong quận Châu Thành tỉnh Bến Tre. Khi trở về Sài Gòn, Sơn không còn làm gì khác hơn là báo cáo tự sự cho ông Mạc Kính cùng mô tả hình dáng kẻ đã trao tiền thưởng cho chú Sáu ở bến xe Á Châu tại Kiến Hoà, rồi đành thúc thủ.
Còn chị Thu Dung lại càng buồn phiền hơn nữa. Khi tỉnh dậy, thấy công trình khổ nhọc của mình tan ra mây khói, lại thêm mảnh giấy ỡm ờ chọc tức của kẻ ký tên Lãng Tử làm chị tức uất người lên, vừa vò đầu bứt tai, vừa than trời như bọng vì một phút sơ suất của mình. Nguồn hy vọng cuối cùng của chị là điện thoại cấp tốc cho anh Nam, chuyên viên giảo nghiệm ở sở Quốc Gia Khoa Học và Kỹ Thuật để mong rằng anh ta còn giữ lại cuốn phim đã chụp những tấm phóng ảnh. Nhưng một lần nữa, chị lại đau điếng người khi được nghe anh ta trả lời:
– Nếu xấp ảnh tài liệu bị đánh cắp thì hư hết mọi chuyện rồi. Bởi vì chụp tài liệu bí mật như loại cô đã gửi cho tôi, đâu có thể sử dụng phim thường. Chúng tôi phải có thứ giấy riêng, loại giấy phải pha chế thêm bớt các hoá chất để làm nổi tối đa các dữ kiện có trong bản chánh. Như vậy các bản đã chụp được là bản độc nhất. Muốn có thêm bản khác thì phải sao lại bằng phim thường rồi in ra. Mà thì giờ eo hẹp, bị cô hối quá tôi không kịp làm nên không có phim…
Thế là hết! Thế là công toi. Thì ra kẻ mạo danh Tâm què đã dư biết mọi sự, gã đã khôn khéo vận dụng được những phương tiện khó khăn nhất mà chỉ Viện Khoa Học và Kỹ thuật Quốc Gia mới có, để rồi ngồi mát ăn bát vàng, hớt tay trên của chị Thu Dung một cách ngon ơ. Càng nghĩ, chị Thu Dung càng căm tức, khuôn mặt của chị đỏ rần, đôi mắt rực sáng, những giọt mồ hôi ướt đẫm cả chân tóc.
Chị và Sơn bán báo cả hai hợp thành một cặp bài lỡ trớn, đành ngồi giương mắt nhìn nhau với tất cả mọi nỗi chua cay, nhục nhã của những kẻ chiến bại. Tiếng cười hồn nhiên, giọng ca nhí nhảnh và điệu nhạc thánh thót mọi ngày vẫn vang lên trong phòng thì, hôm nay vắng hẳn. Cuối cùng, chị Thu Dung đứng dậy ngao ngán:
– Phải làm cái gì chứ? Không lẽ đến đây là bó tay.
Sơn nhìn chị:
– Làm cái gì bây giờ?
– Thì tôi hỏi chú câu đó.
Sơn ngán ngẩm:
– Em hết sáng kiến rồi. Hết luôn cả đường dây để móc nối. Bây giờ thì chỉ còn chờ…
Mắt chị Thu Dung sáng lên:
– Chờ cái gì?
– Chờ ông Thanh Tra Mạc Kính. Em hy vọng qua bản phác họa chân dung của “anh Ba” người mà em gặp ở bến xe đò Á Châu, may ra ông Mạc Kính có thể dò ra được đầu mối.
Chị Thu Dung chép miệng:
– Con đường đó chậm trễ quá. Kẻ mạo danh Tâm Què hiện nay đã cao bay xa chạy với tất cả tài liệu đầy đủ trong tay rồi. Hắn sẽ lên tới Thiên Mã Sơn trước hết. Hắn sẽ hốt trọn mớ kim cương của Giáo sư khảo cổ Thomas Vincent, hắn sẽ…
Nói đến đây chị Thu Dung im bặt. Chị nhớ tới lời hỗn sược của hắn ta khi nhắn nhe lại: “nếu cô muốn làm bà Chúa Đảo thì chỉ cần nhắn tin lên báo…” Chị bực dọc, buột miệng la lên:
– Đồ tồi!… Đồ tồi!
Sơn ngạc nhiên:
– Ủa! Chị nói ai đấy?
Chị Thu Dung đỏ bừng mặt lên, bối rối:
– Chị nói hắn, tên đội lốt Tâm Què. Hắn hỗn quá…Hỗn không thể tha thứ được.
Tưởng chị Thu Dung đưa ra được điều gì mới lạ, nhưng thấy chị vẫn còn hậm hực vì thất bại vừa qua, Sơn vội nói:
– Thôi chị ạ, thua keo này ta bầy keo khác. Phải đứng dậy, đi làm một cái gì, chứ ngồi đây mà nung nấu sự thất bại sẽ có ngày phát điên lên mất.
Chị Thu Dung nhìn nó:
– Chú muốn làm cái gì nào?
– Gì cũng được, miễn đi ra khỏi nhà, miễn khuây khoả được mọi nỗi bực dọc.
Chị Thu Dung tán thành:
– Nếu vậy thì mình xách xe chạy ra xa lộ, đi một vòng. Đồng ý với chú là ngồi mãi ở đây mình cảm thấy bực bội quá rồi.
Hai chị em cùng đứng dậy. Chị Thu Dung tiến lại bàn phấn trang điểm lại khuôn mặt của mình. Lúc soi gương chị giật mình thấy đôi mắt của mình có nhiều vết quầng thâm. Thì ra mải mê làm việc đến quên ăn, quên ngủ, sức khoẻ của chị đã bị ảnh hưởng trông thấy. Chị nói:
– Sau vụ này, phải xin toà soạn cho nghỉ xả hơi ít bữa để đi Đà Lạt.
Sơn reo lên:
– Cho em đi với.
– Sẵn sàng, nhưng phải thu xếp công việc đã.
– Em thì có thể đi bất cứ lúc nào, tới bất cứ chỗ nào. Miễn là đi. Cứ được rời Sài Gòn là thích rồi.
Một lát sau, chị Thu Dung lái chiếc xe 2 Chevaux ra khỏi cổng. Sơn ngồi một bên. Chiếc xe bon bon chạy qua các đường phố đông người để tiến về phía xa lộ. Trời đã ngả bóng. Ánh nắng gay gắt buổi chiều bây giờ chỉ còn in thành một vài vệt héo úa trên nóc những toà nhà cao. Gió mát lùa qua kính xe làm khô nhanh những giọt mồ hôi làm mái tóc mềm như tơ của chị Thu Dung bay phơ phất.
Chị Thu Dung thở một hơi dài khoan khoái rồi nói:
– Không khí thoáng mát có làm cho người ta dễ chịu hơn nhiều thật. Bây giờ thì chị cảm thấy những bực bội tiêu tan hết rồi. Chị lại có thể nghĩ đến câu châm ngôn: thất bại là mẹ thành công để an ủi mình.
Sơn gợi lại chuyện cũ:
– Nhưng theo ý chị thì trong cuộc đua này ai là kẻ thắng lợi hơn cả.
– Kẻ đội lốt Tâm Què chứ ai. Hắn nắm trong tay nhiều chi tiết quí giá nhất về khối lượng kim cương to lớn của Giáo sư Thomas Vincent. Hắn lại là kẻ nhanh chân nhất. Giờ này có thể hắn đã lên đường.
– Theo ý chị thì hắn có thể đi đâu trước tiên?
– Theo chi tiết lờ mờ mà chị còn nhớ được khi nghiên cứu những tấm phóng ảnh trước khi bị hớt tay trên, thì con đường hắn sẽ qua là biên giới Miên Việt rồi đi Prey-Veng, ngược dòng Mékong lên Kratié, Sambor rồi ngừng ở Stung-Treng thuê voi đi vào Siem-Pang…
Sơn thắc mắc:
– Thời buổi này tại sao lại phải theo lộ trình vòng vo như vậy. Em tưởng rằng với một trực thăng…
Chị Thu Dung ngắt lời nó:
– Chú nói đúng…Lộ trình này là do Giáo sư Vincent vạch ra từ thời kỳ đệ nhị thế chiến khoảng năm 1939 hay 1940 gì đó. Còn bây giờ, hẳn sẽ có những đường lối rút gọn lộ trình hơn.
Sơn chép miệng:
-Vậy thì đã lẹ chân, kẻ thắng cuộc còn có thể lẹ chân hơn nhiều nữa bằng những phương tiện tối tân. Nhưng em thiết nghĩ còn nước còn tát, mình cứ báo cáo với ông Mạc Kính tất cả mọi sự… may ra ông ta có thể huy động toàn bộ lực lượng của mình cộng thêm với sự hợp tác của cơ quan an ninh Cam Bốt… biết đâu…
Chị Thu Dung reo lên:
– Chú nghĩ phải. Mình ích kỷ quá nên chỉ bận rộn vào có mỗi một sự thất bại của riêng mình. Phải báo cho ông Mạc Kính gấp mới đúng là việc phải làm.
Nói rồi chị Thu Dung lập tức quay xe trở lại. Như bồn chồn vì để một khoảng thời gian khá dài vô ích trôi qua, chị nhấn thêm ga cho chiếc xe xả hết tốc lực trên đường trở lại Sài Gòn.
Chị lái xe lại thẳng toà soạn Ánh Sáng Thời Đàm để định sử dụng điện thoại gọi về sở An Ninh cho ông Mạc Kính. Nhưng khi vừa bước vào bàn giấy thì anh chàng Tổng Thư ký đã reo lên:
– May quá, cô Thu Dung đây rồi. Có một cái thư khẩn cấp của sở An Ninh gửi cô. Tôi đoán là ông Thanh Tra Mạc Kính.
Chị Thu Dung chụp lấy chiếc phong bì bằng giấy dầu khô khan, bên ngoài đóng triện son đỏ chói “Tối khẩn – Mang tay”, rồi hấp tấp mở ra. Quả nhiên là lá thư viết tay, thủ bút của ông Thanh Tra Mạc Kính:
“Sài Gòn ngày…
Thân gửi cô Thu Dung và chú Sơn. Tôi muốn dành cho quí vị một sự ngạc nhiên hết sưc bất ngờ. Nếu đồng ý xin hẹn gặp lại vào hồi 8 giờ tối ngày mai tại Á Đông tửu lầu. Tôi đã đặt chỗ sẵn. Mong đúng hẹn.”
Ở dưới là chữ ký quen thuộc của ông loằng ngoằng như những con giun. Đọc xong thư, chị Thu Dung coi đồng hồ: đúng bẩy giờ hai mươi phút. Thế là cả hai chị em cùng không kịp chào, nhẩy bổ ra xe hơi. Chị Thu Dung nói:
– Còn kịp tắm và thay đồ. Hôm nay được ông Thanh Tra cho ăn cơm Tầu hẳn có nhiều chuyện lạ…
Sơn tủm tỉm cười gật đầu đồng ý. Theo thói quen của ông Mạc Kính, ông chỉ mời ăn khi hoàn tất một cuộc điều tra gay go và chật vật. Nhưng chẳng lẽ vụ Thiên Mã Sơn lại kết thúc trong khi mọi sự còn ngổn ngang như trăm mối tơ vò hay sao?