← Quay lại trang sách

Chương thứ hai NGHĨA VỤ CAO CẢ.-NHƯỜNG CƠM SẺ ÁO GIÚP BẠN BÊN KIA BIÊN GIỚI

Bắt đầu vào cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp, bộ đội ta còn rất non yếu. Thế trận ở Liên khu I nhất là vùng Cao Bằng - Lạng Sơn những năm 1947 -1948 cho đến giữa năm 1949, bộ đội ta chiến đấu giữa hai sức ép. Trong nước là sự tiến công chiếm đóng của bọn xâm lược Pháp. Bên kia biên giới là bọn Tàu Tưởng và lũ phỉ án ngữ dọc miền giáp ranh, gây nhiều tai hoạ cho bà con dân bản. Ngược lại phía bên kia, lực lượng du kích và dân quân địa phương của giải phóng quân Trung Quốc cũng bị cái thế mạnh của Tàu Tưởng lúc bấy giờ truy cản ; nếu bị đánh bật sang bên biên giới ta, mà rơi vào tay bọn Lê dương chiếm đóng sẽ bị tiêu diệt hoặc giao trả cho đồng minh của chúng ngay.

Vì vậy, vào những năm tháng đó, những người anh em bên kia biên giới, hoặc là cơ sở Đảng, hoặc là quân giải phóng địa phương hễ bị quân đội Tưởng áp mạnh, bị mất đất, phải lưu vong sang địa phận rừng núi bên ta, đều tìm cách gặp gỡ chính quyền và bộ đội ta để tránh khỏi sa vào vùng giặc Pháp kiểm soát. Đơn vị chúng tôi đã được lệnh sẵn sàng giúp đỡ những người bạn lưu vong như vậy.

Năm 1948, khi tôi làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 28 Lạng Sơn, tôi hay được tiếp xúc với một người khách bên nước bạn, người đó có cái tên nôm na Ké Lộc. Về sau tôi mới biết rõ, đây chính là Tư lệnh khu Tả Giang - Long Châu của Trung Quốc, tên thật là Lục Hoa. Ké Lộc nói được tiếng Việt trong giao dịch thông thường, nhưng giọng chưa được sõi. Muốn bàn luận với nhau về những vấn đề sâu rộng, chúng tôi dùng cách bút đàm bằng chữ Hán. Cũng may là hổi nhỏ tôi có học ít nhiều chữ nho ở quê và trong chương trình phổ thông của nhà trường thời Pháp thuộc. Ngày đó, Ké Lộc làm đại diện giao dịch với ta trong việc Lạng Sơn nuôi dưỡng hai đại đội giải phóng quân, xin tạm trú trong khu rừng thuộc địa phận Điềm He - Thoát Lãng. Hồi đó, chính quyền và nhân dân tinh Lạng Sơn lo việc giúp đỡ họ về lương thực, thực phẩm và quân trang, còn chúng tôi giúp đỡ thuốc men, san sẻ với họ từng viên ký ninh chống sốt rét rừng. Sau mấy trận trung đoàn thắng ở Bông Lau - Lũng Phầy hay Bố Củng - Lũng Vài, chúng tôi giúp họ cả súng chiến lợi phẩm, nhất là các loại trung liên và súng cối.

Sau một thời gian được nuôi dưỡng, họ củng cố lại đội ngũ, và khi bên kia đã yên những trận càn quét của quân Tưởng, họ trở về làm nhiệm vụ bám dân, mở rộng vùng căn cứ. Hôm chia tay, tình cảm hữu nghị, hữu hảo thật mặn nồng. Những người anh em cứ bá vai, lắc tay chúng tôi, hẹn ngày tái kiến. Hai tiếng “Tạm biệt” chen lẫn với hai tiếng “Chai chen” rộn cả một khu rừng. Ké Lộc thường nói với tôi:

- Cổ xưa có câu “Tứ hải giai huynh đệ” ngày nay chúng ta còn cao hơn cái tình giai huynh đệ vì chúng ta là đồng chí, gắn bó keo sơn trong tình hữu nghị quốc tế vô sản, đánh đổ kẻ thù chung là bọn đế quốc và giai cấp bóc lột.

Hôm từ giã về nước. Ké Lộc rơm rớm nước mắt bảo tôi:

- Ơn sâu nghĩa nặng với Cụ Hồ, với Đảng Việt Nam, nhân dân Việt Nam và bộ đội các đồng chí lăm lắm mà.

Tôi cũng chúc Ké Lộc và đơn vị trở về chân cứng đá mềm, giúp dân cứu nước. Ngày ấy, không riêng gì Lạng Sơn, mà cả Cao Bằng, Tỉnh ủy và nhân dân Trùng Khánh, cũng như tỉnh Quảng Ninh đã giúp đỡ những đơn vị lưu vong của nước bạn như vậy.

... Chính từ mối quan hệ ưu ái ấy là sự biểu hiện tình nghía anh em giữa hai dân tộc của hai nước. Biểu tượng tỉnh cảm ấy đã được các nhà văn, nhà thơ biểu hiện bằng biết bao nhiêu nét sâu đậm. Nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã có lời ca: “Việt Nam - Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông...”, và đó cũng là một thực tế địa lí và lịch sử không ai có thể chối cãi được. Đường biên giới Việt Nam ở phía Bắc, có hàng trăm cây số nối liền với đất nước. Trung Hoa - một tiếng chó sủa, một tiếng gà gáy, nhân dân hai vùng đều nghe. Bà con có thói quen lúc đi chợ bên này, lúc sang chợ bên kia, nhiều gia đình của hai bên gả con cho nhau. Nhiều cô gái, chàng trai người Hán đẹp duyên cùng với chú thanh niên, cô thôn nữ Tày Nùng. Hình thành một cách rất tự nhiên, đời này qua đời khác, mối tình thắm thiết giữa hai dân tộc.

Quan hệ tình cảm ấy lại càng thêm sâu đậm khi vùng Hoa Nam hoàn toàn được giải phóng. Sự kiện lịch sử xảy ra đã tạo nên sự thay đổi về thế và lực giữa cách mạng Việt Nam và đế quốc Pháp. Người Việt Nam nào mà không hồ hởi, phấn khởi khi thấy cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Hoa có mối liên hệ chặt chẽ. Chân trời hậu phương của Việt Nam không còn nằm trong hai vòng vây mà đã vượt qua đất nước Liên Xô, đến tận các nước Đông Âu.

Trung đoàn 174 và bản thân tôi được vinh dự đón và hộ tống đoàn của La Quý Ba, vị đại sứ đầu tiên của nước Trung Hoa mới sang đặt quan hệ ngoại giao với ta ; đón và hộ tống Lê-ô Phi-ghe (Lêo-Phiguère) người đại diện đầu tiên của Đảng cộng sản Pháp sang thăm Việt Nam ; bảo vệ và hộ tống đoàn của Bác Hồ lần đầu tiên vượt biên giới ra nước ngoài ký kết những Hiệp định về hợp tác tương trợ quốc tế quan trọng... và tiếp theo là theo lệnh của Chủ tịch Mao Trạch Đông, những đoàn cố vấn quân sự, chính trị sang giúp Việt Nam, những viện trợ về vũ khí, đạn dược, lương thực, tạo cho quân đội và nhân dân ta những điều kiện mới để mở chiến dịch giải phóng vùng biên giới (1950), tạo nên một bước ngoặt có tính chiến lược trong cuộc chiến tranh giải phóng Tổ quốc.

Sự kiện lịch sử đã xảy ra cách đây gần nửa thế kỉ, nhưng một số người Pháp vẫn chưa hết cơn bàng hoàng, ngờ vực. Gần đây tôi có dịp được gặp một đoàn phóng viên VTTH Pháp sang Việt Nam để sưu tầm tài liệu về cuộc chiến tranh Đông Dương - Một phóng viên hỏi khẽ tôi: “Xin lỗi ngài trong trận đánh ở vùng biên giới năm 1950 ngài có thể cho tôi biết có quân đội cộng sản Trung Hoa tham chiến với quân đội Việt Nam của các ngài không?”.

Tôi trả lời: “Tôi có thể khẳng định với ngài là không có quân đội nước ngoài nào cả, mà chỉ có những người lính Cụ Hồ. Tôi cũng thành thực nói với ngài là: “Ngoài những vũ khí đạn dược, quân dụng mà quan năm Công-xtăng, Quân khu trưởng Quân khu Biên Thuỳ, đã cung cấp cho chúng tôi trong suốt ba năm 1947 - 1950, lúc ấy chúng tôi có nguồn bổ sung mới của những người bạn anh em nước Trung Hoa”.

Nhưng có một thời gian xảy ra bất đồng về quan điểm giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc làm tổn thương đến quan hệ hữu nghị giữa hai nước.

Nhưng nhất định, sẽ có ngày, một trận thần phong thổi bạt mây mù, bầu trời sẽ trở lại trong sáng, truyền thống hữu nghị lâu đời giữa hai dân tộc nhất định sẽ được khôi phục lại ; như lời một nhà thơ.

“Chân lý mặt trời soi sáng mãi

Lỗi lầm âu cũng áng mây qua

Lương tâm rồi sẽ trong như ngọc

Tình nghĩa anh em lại một nhà”

Đầu tháng 4 năm 1948, anh Hoàng Văn Kiểu(1) Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn, báo cho tôi biết có điện của trên Bộ mời về họp. Anh nói:

- Chắc có vấn đề gì đột xuất nên Bộ mới gọi cả những người chủ chốt của Quân, Dân, Chính, Đảng về họp chứ.

Tôi đoán:

- Chắc Bộ sắp mở chiến dịch lớn chăng? Trung đoàn 28 chúng tôi lo việc chiến đấu, còn Tỉnh ủy và Ủy ban lo liệu huy động dân công, bảo đảm hậu cần...

Sở dĩ tôi đoán vậy là vì hồi ấy, sau mấy trận thắng lớn của Trung đoàn 28 trên Đường số 4 địch vận chuyển tiếp tế cho Cao Bằng gặp nhiều khó khăn. Bọn đóng ở đồn bốt án ngữ dọc đường và các nơi hiểm yếu trong vùng chúng kiểm soát không còn hung hăng, tính chuyện càn nống ra như trước nữa.

Hẳn là trên muốn đẩy mạnh một bước để giành thế chủ động ở chiến trường Liên khu I.

Anh Kiểu gật gù:

- Cũng có thể là như vậy. - Nói xong anh chặc lưỡi: - Thôi cứ lên họp rồi khắc biết. Tôi và anh cùng đi. Còn các anh Minh Tước, Huyền Trang, phải ở nhà vì có nhiều việc phải làm quá. Bọn địch đang muốn bắt lính nhiều để dùng ngụy binh thay bọn Lê dương, thành lập những binh đoàn cơ động ứng chiến.

Hai chúng tôi lên đường ngay. Từ ngày rời Bộ Tổng tham mưu xuống trực tiếp chiến đấu ở Lạng Sơn, thấm thoắt đã gần hai năm, nay tôi mới có dịp trở về Bộ. Trước đây, tôi chỉ thường lên họp ở Quân khu. Nay về, tôi tìm vào thăm anh em cũ ở phòng tác chiến, lâu ngày gặp nhau, chuyện trò cả buổi không hết. Anh em bảo:

- Cậu xuống đơn vị làm ăn tốt đấy, đánh được.

Phòng tác chiến có thêm nhiều người mới. Tôi nhận thấy trên Bộ, giờ cũng khác xưa, công việc bận rộn hơn và có nhiều kinh nghiệm hơn, nắm tình hình các chiến trường từ Việt Bắc đến Nam Bộ rất cụ thể, phái viên đi đi về về liên tục.

Vào cuộc họp, tôi mới vỡ nhẽ ra rằng mọi dự đoán của tôi đều trật hết. Sau khi cho biết tình hình cách mạng bên Trung Quốc đang phát triển, giải phóng quân thắng lợi lớn, dồn dập đánh đuổi bọn Tàu Tưởng hết quân khu này đến quân khu khác, tình hình giải phóng phần đất phía Nam Trung Quốc không xa nữa, có thể trong năm 1949. Anh Văn phổ biến cụ thể: “Tháng 3 vừa rồi, Bộ Tư lệnh quân giải phóng Liên khu Việt Quế cử đại biểu sang đề nghị với Trung ương Đảng ta cử bộ đội sang giúp họ phối hợp mở rộng khu căn cứ, dọc theo biên giới, gồm khu Tả Giang giáp Cao Bằng, Lạng Sơn và khu Ung Châu - Long Châu giáp Lạng Sơn và khu Khâm Liêm giáp Quảng Ninh. Lực lượng bên bạn còn mỏng, chưa đủ sức mở rộng và xây dựng, củng cố căn cứ, gây cơ sở chờ đại quân Nam hạ.

Bác Hồ, Thường vụ Trung ương đã chấp thuận đề nghị ấy và giao cho Bộ Tổng chỉ huy bàn kế hoạch cụ thể giúp bạn. Dù cuộc kháng chiến của ta còn đang trong thời kỳ khó khăn gian khổ, ta đang cẩn có nhiều binh lực để giành thế chủ động với kẻ địch, nhưng với tinh thẩn quốc tế vô sản, ta sẵn sàng gánh vác giúp bạn đẩy nhanh cuộc cách mạng Trung Quốc mau tới thắng lợi hoàn toàn. Vậy quân và dân Liên khu Việt Bắc có hai nhiệm vụ cần phải tiến hành gấp. Việc thứ nhất, tổ chức ngay lực lượng, gồm hai đơn vị, sang giúp bạn giải phóng khu Tả Giang và Thập vạn Đại Sơn. Đơn vị tiến sang Tả Giang do anh Thanh Phong, Quân khu phó quân khu Việt Bắc làm tư lệnh. Hai phó tư lệnh là anh Mân, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 74 của Cao Bằng và anh Long Xuyên Trung đoàn phó Trung đoàn 28 Lạng Sơn chúng tôi. Đội quân này vượt biên ở hướng Bắc, phối hợp với địa phương quân của Trung Quốc, do Ké Lộc làm tư lệnh khu Tả Giang - Long Châu, tiêu diệt số đồn bốt của quân Tưởng đang chiếm đóng, nhằm mở rộng khu căn cứ Tả Giang, xây dựng tổ chức lực lượng sẵn sàng phối hợp với mũi tiến quân Nam hạ của giải phóng quân từ vùng Hồ Nam đánh xuống.

Đơn vị thứ hai, do anh Lê Quảng Ba làm tư lênh và một cán bộ của bạn là Minh Quang làm Chính ủy, anh Đỗ Trình, sau này anh Hoàng Thế Dũng thay, làm Phó Chính ủy, từ vùng Quảng Ninh vượt sang hoạt động vùng Thập Vạn Đại Sơn, cũng với mục đích giúp bạn mở rộng căn cứ, giành dân, xây dựng lực lượng. Cả hai đơn vị phải nhanh chóng hình thành tổ chức, trang bị tốt, sẵn sàng lên đường sớm.

Việc thứ hai, cũng khá quan trọng, gấp gáp. Một khi giải phóng quân đánh mạnh xuống vùng Hoa Nam bọn quân Tưởng, trước sức ép mạnh mẽ đó, rất có thể sẽ chạy tràn sang bên ta, tránh bị tiêu diệt. Chúng tràn sang với hy vọng được quân Pháp giúp đỡ và liên kết với nhau xâm nhập vùng căn cứ của ta, sẽ gây nên nhiều tội ác với đồng bào dân bản. Vậy bộ đội có nhiệm vụ phải chặn đánh chúng ở ngay biên giới các cửa khẩu, không cho chúng nhập được với bọn Pháp. Đảng bộ, chính quyền và bộ đội phải lo bảo vệ tài sản và nhân dân. Không cho bọn tàn quân vơ vét của cải sinh sống để kết hợp với bọn Pháp, hoặc tìm đường chạy trốn sang Đài Loan. Rõ ràng, tình hình vùng Cao Bằng - Lạng Sơn sẽ phức tạp hơn, khó khăn hơn. Ta vừa phải chống Pháp, vừa phải chống lũ tàn quân Tưởng cả những bọn phỉ bấy lâu vẫn hoành hành, ẩn núp giữa vùng giáp kề biên giới hai nước.

Sau hội nghị, tôi xin gặp anh Thái, ngỏ ý muốn được theo một mũi sang giúp bạn. Anh cười:

- Ở nước nhà còn khối việc phải làm đấy. Bọn Tàu Tưởng nó tràn sang, chỉ sợ cậu đánh không xuể, còn nhiệm vụ chặt đứt Đường số 4 nữa chứ.

Nói rồi, anh dặn dò:

- Phải triển khai công việc ngay. Bàn với các anh bên Tỉnh ủy và Ủy ban làm sao dân bản thông suốt, tản cư triệt để vào rừng, giấu kín thóc gạo, tài sản. Bọn Tàu Tưởng nó đông, đi tới đâu phá như giặc châu chấu ấy.

Tôi cảm thấy ngay trách nhiệm nặng về với nhiệm vụ trước mắt, vừa lo phục kích ngăn chặn sự vận chuyển của bọn Pháp, vừa lo có kế hoạch sẵn sàng tiêu diệt tàn quân Tưởng tràn sang bất kỳ lúc nào. Tôi không còn ý nghĩ muốn cùng đi làm nhiệm vụ quốc tế với anh Thanh Phong và anh Mân nữa.

Sau này khi anh Mân về làm Chính ủy Trung đoàn 174 với tôi, có dịp hỏi lại chuyến đi của anh, sang giải phóng vùng Long Châu - Thủy Khẩu, mới hay đây là một cuộc chiến đấu gian nan trên đất bạn. Quả nếu không có thêm lực lượng bộ đội chúng ta, chỉ đơn độc số địa phương quân còn mỏng yếu, bạn khó lòng diệt được hệ thống đồn bốt của Tưởng trên địa phận quân khu Tả Giang - Long Châu. Nguyễn Hữu An, cũng ở trong lực lượng sang Long Châu, kể với tôi:

- Đúng là đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Vào vùng địch hậu bên đó, khác bên ta nhiều lắm. Địa chủ bên đó thường như lãnh chúa cát cứ một vùng, tuỳ theo số lượng tài sản, ruộng đất mà chúng có. Thường một tên địa chủ giữ luôn chức thôn trưởng, hay hương trưởng, được quyền tuyển mộ tá điền, tổ chức lực lượng vũ trang riêng, nhỏ thì một trung đội, to thì đại đội, lớn hơn nữa là tiểu đoàn do chính một sĩ quan cấp thiếu uý, đại uý quân đội Tưởng chỉ huy ăn lương của địa chủ đó, vì vậy, tên lãnh chúa tha hồ đàn áp, ức hiếp nông dân. Có nơi chúng tuyên bố, nắng trời trên vùng cũng là của hắn, nông dân cũng phải chịu nộp tô, phí. Do bị kìm kẹp lâu ngày, nên người dân đen hễ thấy có lực lượng vũ trang nào đến cũng sợ, bởi vì thổ phỉ đến cũng cướp, quân của địa chủ đến cũng cướp và đại quân Quốc dân Đảng về cũng cướp phá uy hiếp, mà cả du kích đến dân cũng phải nộp lương. Do đó sau khi bộ đội ta vào làng, người dân đều lầm lì, e dè, đóng cửa ngồi trong nhà quan sát, nghi ngại, không hề có cái không khí cởi mở, vui mừng như bà con dịch hậu bên ta. Cho nên gọi là tới vùng có cơ sở, nhưng từ lúc mới đến tới khi họ hiểu được bộ đội là cả một quá trình công tác dân vận rất khó khăn, gần giống như bộ đội đến một vùng giáo dân đang bị bọn thầy tu, cha cố phản động uy hiếp, lường gạt, xuyên tạc hồi di cư 1954 vậy.

Đêm 12 tháng 5 sau đó, bộ đội ta vượt qua biên giới tiến công tiêu diệt luôn đồn Thủy Khấu đối diện với Tà Lùng thuộc huyện Phục Hoà, Cao Bằng. Sau đó, diệt luôn một tiểu đoàn quân Tưởng, đóng tại dọc núi Độc Sơn, đang trên đường hành quân từ La Hồi đến Hạ Đồng. Nguyễn Hữu An kể rằng “Trận này ta đón lõng được là nhờ trinh sát ta tóm được một tên Quốc dân đảng người Việt. Bọn này đang bám theo quân Tưởng, lăm le tính chuyện sau này về nước, mưu dựng cơ đồ. Hắn khai bọn Tưởng đã biết có bộ đội sang giúp du kích đỏ nên tung người đi dò la bám theo ta. Hiện còn một tiểu đoàn Bảo an quân ở Độc Sơn sắp hành quân tới bao vây vùng trú quân của ta. Lập tức Nguyễn Hữu An bố trí mai phục, địch bị gạt xuống bờ sông, ta vận động tới tiêu diệt. Tên tiểu đoàn trưởng Hứa Pao Luông cùng một số chạy vào một cái cống ngầm dưới mép sông, ta dùng rơm hun nhu hun chuột, buộc chúng phải lúc nhúc ra hàng.

Sau đó, ta uy hiếp thị trấn Long Châu, một thị trấn sầm uất cách biên giới 30 km. Anh Thanh Phong và anh Mân gửi tối hậu thư bắt hàng, địch biết ngay nguy cơ liền tháo chạy. Cùng thời gian này, ở bên nước nhà tôi tung hai đại đội Văn Uyên - Thoát Lãng, do Quốc Trung, Nguyễn Bá An, Ngọc Trình chỉ huy, tiến sang vây Mục Nam Quan và Bằng Tường, ta đã đánh tan tác hai tiểu đoàn quân Quốc dân đảng Trung Quốc, thu rất nhiều chiến lợi phẩm và vũ khí, Ngọc Trình, người cán bộ ưu tú của trung đoàn, có tài nắm địch, bắt mối, hạ đồn Chè Cáy năm xưa, đã dũng cảm dẫn đầu bộ đội đuổi đánh địch. Một tràng trung liên bắn trúng giữa ngực, Ngọc Trình đã hy sinh anh dũng vì nghĩa cả. Tấm bia ghi công Ngọc Trình và các đồng chí của ta còn đầy trên đường Mục Nam Quan - Bằng Tường, ở cây số 7. Sau đó chúng hoảng hốt rút chạy, bỏ luôn cả hai vị trí Thượng Thạch, Hà Thạch, Thủy Khẩu xuống Ninh Minh dọc theo Cao Bằng - Lạng Sơn của ta, được giải phóng, giúp cho bạn mở rộng khu căn cứ Tả Giang.

Phía dưới, lực lượng vùng Quảng Ninh của anh Lê Quảng Ba, xuất phát từ khu căn cứ Chi Lăng huyện Lộc Bình, vượt, sang vùng Thập Vạn Đại Sơn. Đây là một vùng núi hiểm trở, điệp trùng xứng với cái tên của nó, núi tiếp núi, cao vời vợi, sương mù cuốn ngang lưng, ấy vậy mà lại là nơi chứa đầy những lồng gió nóng, làm cây cỏ khô cằn, khe suối cạn hết, thiên nhiên thời tiết khắc nghiệt, khiến bộ đội ta chịu khát, chịu mệt, gian nan cơ cực ngay trong cuộc hành quân chưa giáp địch. Cánh quân này của ta cũng tiến công, bao vây, bức hàng một loạt các đồn bốt, thuộc thị trấn Trúc Sơn - Nà Lường - Đông Hưng, giải phóng một vùng dọc theo chiều dài Nam Lạng Sơn đến Móng Cái. Sau ta lại chuyển hướng tiến quân lên Khâm Châu, tiêu diệt Mào Lẻng, tiến đánh các vị trí Đại Quán Đường và Đại Trúc. Cả một vùng lớn huyện Phòng Thành và huyện Khâm Châu trở thành căn cứ địa cách mạng, đón đợi quân giải phóng Nam hạ. Nhân dân Trung Quốc, suốt dọc miền biên giới giáp Việt Bắc và Đông Bắc nước ta, hân hoan vui sướng được giải phóng khỏi ách thống trị lâu đời của bọn giặc Tưởng, ở đâu cũng có khẩu hiệu bằng cả hai thứ tiếng “Tình hữu nghị Trung - Việt đời đời bền vững”, “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Chủ tịch Hổ Chí Minh muôn năm”.

Nhân dân trong vùng đã hiểu rõ bộ đội ta là bộ đội Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử sang giúp, đánh đổ bọn Tưởng ác bá. Nhân dân trong hương thôn kháo nhau:

“Hây đà! Lưỡng sì sám

Ngầu lấp màu

Tả pháy xìang cóc lịt”.

Nghĩa là:

Ôi chà! do mầu nâu

Mủ rọ lồng mõm trâu

Đánh phi thường, ác liệt

Ý họ khen bộ đội ta mặc áo màu nâu, đội mũ nom giống cái rọ lồng ở mõm trâu, đánh giặc Tưởng giỏi lắm. Họ chỉ chỏ bàn tán, và tay bắt mặt mừng với bộ đội ta, nói líu lô:

- Co pù tủi, chân hảo, nghĩa là: Bộ đội này rất tốt.

Chỉ mấy tháng hoạt động, gây cơ sở diệt giặt Tưởng, bộ đội ta đã để lại trong lòng người dân Trung Quốc vùng mới giải phóng, những ấn tượng đẹp đẽ, cao quý của người chiến sĩ cách mạng. Cán bộ và nhân dân ở đây đã khái quát hình ảnh anh bộ đội ta như sau:

- Việt Nam giải phóng quân, kỷ luật cao, nghiêm, thương dân hết sức, dũng cảm vô song, hy sinh thân mình vì nghĩa vụ quốc tế cao cả.

Chú thích:

(1) Anh Hoàng Văn Kiểu cùng quê với anh Hoàng Văn Thụ ở Thoát Lãng, lúc này lả Bí thư Lạng Sơn, sau này làm Bí thư Khu ủy Tây Bẳc, có lúc làm Bộ trưởng Bộ lâm nghiệp.