← Quay lại trang sách

Chương thứ ba (5) LIÊN TỤC TRUY KÍCH

Từ hôm tiếng súng mở đầu chiến dịch của ta, biết bao nhiêu tin dữ bay về Thất Khê: nào Đông Khê thất thủ, nào binh đoàn Sác-tông bỏ chạy khỏi Cao Bằng bị chặn đánh tơi tả. Binh đoàn Bay-a lên đón cũng bị tan tành. Cả Lơ-pa-giơ lẫn Sác-tông đều bị bắt sống. Bọn đóng quân ở Bản Trại thấy mất hết các vị trí xung quanh đểu hốt hoảng bỏ đồn chạy dồn về Thất Khê. Và hàng ngày, từng tốp tàn binh chạy thoát về Thất Khê với dáng điệu đói mệt, tiều tụy, râu tóc rậm rạp, mặt mũi phờ phạc, hốc hác toàn những Lê dương da trắng từng khét tiếng sừng sỏ, thiện chiến nổi danh từ Đại chiến thứ hai, những tên Ta-bo người Phi tinh nhuệ chuyên đánh rừng núi, rồi hỗn hợp cơ động Âu Phi, tất cả giờ đều giống nhau ở cảnh thân tàn ma dại, tay không, chui lủi rừng chạy thoát về đây. Mà đã là kẻ bị thua đều đồn thổi rất mạnh, rất lớn về sức mạnh của đối phương để chứng tỏ mình chẳng phải hèn. “Chỉ vì Việt Minh đã quá lớn mạnh, thiện chiến vô cùng”. Mỗi tên tàn quân đã trở thành một quả tạc đạn nổ bùng vào tinh thần ý chí của bọn sĩ quan và binh lính đóng tại Thất Khê, khiến từ đồn trưởng đến tên ngụy nhãi nhép đều chỉ tính tới việc lo cách chạy nhanh cho thoát chết. Ba mươi sáu chước, chước chuồn sớm là hay nhất. Rồi còn nạn đập phá, cướp bóc của lũ tàn quân ở trong phố nữa. Qua cơn thoát chết, chúng phải ăn, phải hút, phải uống, phải phá cho bõ lúc cay cực vừa qua. Vì vậy cả cái tiểu khu Thất Khê từ đồn chính đến phố xá, công sở đều náo động, hoảng hốt như trong cảnh đón đợi trời sập. Thế là chúng đã mau chân rút khỏi Thất Khê trước khi trung đoàn chúng tôi kịp truy kích tới. Cầu Bản Trại ta đã phá, không thể đưa cơ giới và pháo nặng qua sông được. Trước lúc rút, chúng đã dùng xe kéo pháo lăn tùm xuống sông Kỳ Cùng. Thật nực cười: khi trung đoàn chúng tôi đã tiến vào thị trấn Thất Khê làm chủ tình hình cả vùng tiểu khu, vậy mà còn rải rác bọn tàn binh lầm tưởng Thất Khê chưa rút, đã chạy xộc thẳng vào thị trấn, đinh ninh đã trở về với đất thánh, bơ sữa, rượu vang, thịt bò đang chờ chúng, tưởng sẽ được đón tiếp như những vị “anh hùng” không ngờ lại bị bộ đội “Việt Minh” chĩa súng vào ngực bắt hàng, có tên đã gục xuống ngất xỉu đi vì quá buồn thảm cho số phận mình. Thật uổng công chui lủi hàng tuần trong rừng sâu, chịu cơ cực đói khát để cuối cùng rồi cũng chẳng thoát khỏi “mệnh trời”, có tên ôm mặt khóc tu tu như một kẻ điên dại, có đứa còn vùng chạy.

Ban chỉ huy chúng tôi họp trong gian nhà ở căn cứ, chốc chốc lại nghe tiếng súng và tiếng thét của bộ đội hô đuổi bọn tàn binh nhào chạy quàng xiên tuyệt vọng.

Tiểu đoàn 251 đánh xong bọn Đơ-la-bôm-mơ ở dãy núi Khâu Pia cũng đã kịp trở lại đội hình. Tôi hỏi Nguyễn Hữu An:

- Chạm địch có khó khăn không?

Tiểu đoàn trưởng An cười:

- Báo cáo anh đánh đuổi chúng dọc theo các mỏm núi đá cũng khá găng. Chúng chiếm trước điểm cao mà.

- Thế Đơ-la-bôm-mơ đâu? - Tôi hỏi đùa.

An lác đầu:

- Hơi tiếc! nó chạy thoát mất! nhưng nhiệm vụ đánh bật chúng lộn lại không cho tên tiếp cứu Lơ-pa-giơ - Sác-tông thì tiểu đoàn hoàn thành.

Anh Mân lúc lắc đầu, anh nói với tôi:

- Đúng là tiếc! phía trên các anh ở 308 và 209 tóm cổ cả Lơ-pa-giơ với Sác-tông, giá dưới này ta cũng với được Đơ-la-bôm-mơ thì hay tuyệt! Ngừng giây lát, anh chậc lưỡi: Lực lượng mình ít, bị xé lẻ điều đánh nhiều nơi. Cũng khó thật.

Lại có lệnh gấp của Bộ chỉ huy: nắm thời cơ, 174 tiến nhanh xuống giải phóng Na Sầm, tranh thủ tiêu diệt sinh lực định, không cho chúng rút chạy an toàn.

Thế là ban chỉ huy trung đoàn chúng tôi giao Thất Khê lại cho các đồng chí ở huyện và tổ chức hành quân truy kích gấp. Cầu Bản Trại bị phá sập làm trở ngại việc rút Thất Khê của địch. Giờ ngược lại, chúng tôi lại gặp khó khăn trong việc vượt sông. Mặc! trung đoàn dùng mọi cánh qua sông gấp: thuyền mảng, bơi lội... đơn vị nào sang được trước, bôn gấp. Vượt sông rồi cứ thế thẳng Đường số 4 mà đuổi địch. Tôi rất ngạc nhiên khi qua đoạn Pò Ke - Bản Nhàn, thấy rất nhiều xác giặc chết trên đường, Tây trắng, Tây đen. ngụy binh đủ cả, có đứa xác trương lên to phềnh, mùi hôi thối nồng nặc. Đơn vị cứ phải bịt mũi nhắm mắt vượt nhanh cho quãng đường trên một ki lô mét này.

Quái lạ! Không biết đơn vị nào đã phục trúng bọn nó ở quãng đường này? Tôi tự nghĩ thầm như vậy và phỏng đoán có thể anh Thanh Phong, Phó tư lệnh quân khu đặc trách phần Nam Thất Khê đến Na Sầm đã kịp thời dùng lực lượng địa phương của Lạng Sơn chặn đánh được bọn Thất Khê rút lui này. Cũng có thể Bộ điều được thêm lực lượng chặn lại và tiêu diệt chúng chăng? Chúng chết nhiều như thế này thì bọn sống sót chạy về sẽ thúc đẩy sự khiếp đảm của bọn đóng ở Na Sầm - Đồng Đăng, chúng sẽ rút tuột mất. Quả nhiên khi chúng tôi đến nơi, cả Na Sầm và Đồng Đăng đều chỉ là đồn hoang, đúng như người xưa từng nói: “binh thua như núi lở” một khi đã thua chạy thì chỉ đạp nhau, xéo nhau mà chết. Cứ thế đồn nọ nối đồn kia từ Thất Khê đến Na Sầm rồi Đồng Đăng chúng rút chạy theo lối cuốn chiếu về Lạng Sơn tất.

Mãi sau này khi chiến dịch đã kết thúc, tôi gặp lại các anh Quốc Trung, Siêu Hải ở thị xã Lạng Sơn, mới vỡ lẽ vì sao địch chết ở Pò Ke, Bản Nhàn nhiều vậy.

Anh Thanh Phong, phó Tư lệnh Quân khu I, được phân công chỉ huy đoạn Đường số 4 từ Thất Khê đổ xuống. Anh đã bố trí Đại đội 183 tân binh của Quốc Trung cùng hai Tiểu đoàn 426 - 428 dọc theo đoạn đường Pò Ke, Bản Nhàn này. Ngày 9-10, máy bay “bà già” lượn từ Lạng Sơn lên Thất Khê mấy lần, rối lại quay về.

Sáng 10 - 10, địch cho một tiểu đoàn trinh sát vừa đi vừa dò la tình hình từ Bản Nằm - Đèo Khách xuống đoạn đường mà ta đã phá hoại, xong rút về Bản Nằm... Trinh sát của ta báo cáo:

Phía Na Sầm: yên tĩnh.

Phía cầu Bản Trại - Bản Nằm: địch tập trung rất đông ở bên kia đầu cầu đã bị phá sập, đang tìm mọi cách vượt sông. Chúng cho một số xe cơ giới, thiết giáp lao xuống sông để đỡ công phá hoại. Triệu chứng rõ ràng là địch bỏ Thất Khê, tìm đường tháo chạy về phía Na Sầm - Lạng Sơn.

Khoảng 3 giờ chiều ngày 10 - 10, địch kéo đi đông nghịt như kiến, không thành hàng ngũ, lính lẫn với dân, ùn ùn đi dọc theo đường cái. Thời cơ ngàn năm có một đã đến quân ta từ các sườn núi nổ súng: đạn súng các loại, các cỡ xả như trời rung, đất chuyển vào đầu giặc. Chúng ngã gục, kinh hoàng, la thét rồi rùng rùng quay lại Bản Nằm, bố trí chiếm các cao điểm, bất động. Trời tối dần, chúng cũng không dám mò ra nhặt xác đồng đội.

Ngày hôm sau, địch cho máy bay lên oanh tạc xối xả vào những nơi ta bố trí, cả vào những khe suối mà chúng nghi có dân công hay bộ đội ta tập kết. Cuộc chiến đấu trở nên vô cùng căng thẳng, gay go, quyết liệt. Địch không vượt được đoạn đường đã bị khoá chặt, còn ta cũng không áp sát được địch vì lưới lửa dày đặc. Địch và ta quần nhau đến tối mịt.

Sở Chi huy tiền phương ở gần Phiêng Chuông bị một loạt bom. Anh Thanh Phong bị thương gãy ống chân, phải đưa về hậu cứ, 24 nữ dân công bị hy sinh trong trận bom này.

Tin thắng lợi của quân ta ở mặt trận phía trên đã làm nức lòng và củng cố quyết tâm của cán bộ chiến sĩ mặt trận Pò Ke - Bản Nhàn. Đêm hôm ấy, các đơn vị đều được lệnh chuẩn bị sẵn sàng để sáng hôm sau mở đợt tấn công cuối cùng vào đạo quân rút lui đang hoang mang cực độ, để trả thù cho các đồng bào bị hy sinh.

Mới sớm tinh mơ, bỗng có tiếng reo to của bộ phận tiền tiêu. “Chúng nó xin hàng”. “Chúng nó xin hàng”.

Anh Châu dõi ống nhòm về phía địch:

- Nó hàng thật, anh em ơi!

Qua ống nhòm, thấy địch đang xếp hàng chờ ta đến tiếp nhận súng ống đeo lên vai, đứa buộc khăn trắng vào đầu, đứa cầm mùi xoa trắng vẫy...

Từ tư thế chuẩn bị tiến công, bộ đội ta đã chuyển sang tư thế đón nhận đầu hàng. Từng tốp lính địch ném súng xuống chân bộ đội ta, trật tự nối nhau vượt sông Kỳ Cùng về trại tập trung.

Pò Ke - Bản Nhàn, hai bản nhỏ bên lề Đường số 4, không ngờ lại là nơi đã diễn ra một trận đánh lớn, diệt và bắt sống hầu hết số quân của phân khu Thất Khê, đám tàn binh của Lơ-pa-giơ, Sác-tông, Đờ-la-bô-mơ.

Mấy năm trước, mỗi lần đi nghiên cứu Đường số 4, tôi thường đến đỉnh đèo Kéo Lầm. Ở đây nhìn xuống vùng Thất Khê - Bản Trại rất rõ. Muốn vượt sang bên kia Đường số 4, hướng Đông Bắc, chúng tôi đểu phải dừng chân ở Kéo Lầm khi đi và lúc về. Tôi thường vào nghỉ nhờ nhà cụ giáo Quỳnh. Trước cụ ở Bản Chu nhưng nay tản cư ở vùng này với dân bản. Cô con gái cụ tên là Nẹng. Một cô gái Tày đẹp nhất vùng Tràng Định - Thất Khê, từng nổi tiếng là hoa khôi. Quả là cô Nẹng đẹp thật. Tóc dài đen nhánh, khuôn mặt trái xoan với nét thanh tú ở cặp mắt, đôi môi. Tôi thường nói chuyện với cụ giáo, cô gái ý tứ ra vào nhẹ nhàng như một cái bóng. Tôi để ý nét mặt đẹp đó luôn phảng phất một nỗi buồn. Qua ít lần đi lại thân tình. Một hôm cô Nẹng hỏi tôi:

- Chỉ huy ơi! Bao giờ bộ đội ta đánh vào Thất Khê.

Tôi vui vẻ trả lời:

- Sau này nhất định phải giải phóng Thất Khê chứ. Còn bây giờ chưa thể được. Địch ở đây còn mạnh lắm. Cả một tiểu khu bao gồm cụm cứ điểm từ đồn chính tới bốt phụ. Phải có thời gian cô ạ.

Nét mặt cô gái càng buồn, cô nói mà nước mắt ứa ra:

- Chẳng biết Nẹng còn sống đến ngày bộ đội giải phóng Thất Khê bắt thằng Hai Nạng không. - Nói xong có Nẹng khóc.

Tôi hỏi gặng mãi, cô chỉ cán môi ấm ức:

- Em thù nó lắm. Nó là con rắn độc đấy.

Sau đó cụ giáo mới kể lại cho tôi biết: tên Hai Nạng thấy Nẹng đẹp, đòi cưới làm vợ hai. Gia đình không đồng ý. Doạ dẫm không được, nó liền gọi cô lên đồn rồi hiếp cô, sau đó đến nhà nói thẳng với ông cụ giáo: “Coi như cô Nẹng đã sống với tôi rồi. Cụ nên cho cưới đi!”.

Uất ức quá, cụ giáo Quỳnh tìm cách cùng con gái trốn khỏi Thất Khê rồi tản cư lên tít đèo Kéo Lầm sinh sống trong tình thương yêu đùm bọc của bà con trong bản.

Đầu năm sau, khi trung đoàn đang tập trung huấn luyện ở vùng Nước Hai, tôi được tin cô Nẹng đã chết sau một trận ốm nặng.

Chao ôi! Nếu không vì giặc giã, vì sự ức hiếp bất công đầy tội lỗi của tên tay sai ngụy binh Hai Nạng, có lẽ chẳng thể nào cô Nẹng chết được. Một người con gái xinh đẹp dịu hiền như cô sống trong cảnh đất nước độc lập thanh bình ắt phải được hưởng niềm hạnh phúc êm ấm. Cứ nhớ lại cảnh tối trăng rừng, cô gái thả tóc dài mượt ngồi ở mảnh sân nhà sàn, lặng nhìn về phía cánh đổng Thất Khê khuất sau dãy núi, như một bức tranh tố nữ huyền ảo, tôi càng tiếc thương cô gái chân thật, hiển thảo ấy vô cùng. Tôi thương cả cụ giáo Quỳnh, chẳng rõ rồi cụ có vượt qua khỏi nỗi cô đơn, đau khổ này không.

Trên đường dồn dập tưng bừng đuổi địch để giải phóng toàn bộ quê hương Lạng Sơn, nhớ đến gia đình cụ giáo Quỳnh, tôi lại nhớ tới cả cụ Huấn ở Bình Gia, cụ Pèn ở Bản Tồn - Đông Bắc Tràng Định. Mỗi lần đi đánh giặc ghé vào nhà các cụ trú chân hoặc khi chiến tháng về gặp lại, các cụ đều dặn dò “Đánh mau lên, đánh nhiều vào vớ, để mau mà giải phóng đất Lạng Sơn kẻo ké già rồi, ké không được thấy nước độc lập à! Bao giờ đại thắng giết hết lũ giặc Tây, chỉ huy Việt về bản ăn cơm, uống chén rượu Tày với ké cho thật say nhé”. Riêng tôi, sau trận Bình Liêu, lại tiếp tục theo đơn vị, rong ruổi khắp các chiến trường. Lời hẹn hội ngộ cho đến nay vẫn chưa thành hiện thực. Nhiều cụ đã khuất bóng, mỗi lần nhớ đến các cụ, lòng tôi rạo rực, băn khoăn, luyến tiếc.

Nhắc đến tên Hai Nạng, tâm trạng tôi dội lên niềm tiếc nhớ cô Nẹng. Chẳng biết cụ giáo Quỳnh có còn ở Kéo Lầm nữa không?

Biết tin này hẳn cụ thắp hương khấn vong linh con gái để con mình mãn nguyện ở nơi xa.

Gia đình cụ giáo Quỳnh chỉ là một trong hàng trăm ngàn nạn nhân của tên Hai Nạng. Sau này giải phóng, thể theo nguyện vọng của nhân dân cả vùng Tràng Định - Thoát Lãng. Ủy ban quân quản Lạng Sơn đã lập phiên toả xử tội tên Việt gian Hai Nạng khét tiếng độc ác, phản động đó tại giữa thị xã. Tôi được cử ngồi ghế chánh án.

Nhân dân đã đến dự rất đông. Hắn đã bị đền tội đích đáng: tử hình.

Khi trung đoàn ập đến Na Sầm, địch đã rút chạy trước một ngày.

Chúng tôi tiến xuôi xuống. Đồn Đồng Đăng cũng im lìm không một bóng giặc, ngổn ngang đồ đạc chúng vội vã bỏ lại. Trên một mảng tường của căn nhà trại lính, tôi đọc hàng chữ Pháp viết nguệch ngoạc vội vã của một tên Lê dương nào đó: “Liệu hồn! Chúng mày chưa nốc cạn cốc rượu mừng thắng lợi thì chúng tao đã quay trở lại dây!”

Dòng chữ đã nói lên tâm trạng của bọn lính viễn chinh chuyên nghề đi xâm lược chiếm đóng nước người. Đã thua chạy hoảng loạn lo chuyện rút nhanh thoát chết lại mà còn cay cú giở trò doạ dẫm ngớ ngẩn, đúng như câu tục ngữ: cà cuống chết đến đít còn cay.

Chẳng cứ gì bọn binh lính Lê dương tép nhem đồn trú ở nơi biên giới xa xôi này hoảng loạn, mà ở tận Hà Nội, các tướng lĩnh chóp bu Pháp cũng thất đảm lúng túng. Chúng đã nghĩ tới việc lui về tận miền Trung Trung Bộ cố thủ, đã cho chở tài liệu giấy tờ quan trọng và cả của cải xuống Hải Phòng chuẩn bị cho xuống tàu thủy chở vào Sài Gòn. Lúc ra lệnh rút nhanh Lạng Sơn, lúc lại ra lệnh đình chỉ, tạm hoãn. Tất cả chứng tỏ sự bối rối, lúng túng, rất bị động từ Cao ủy Pi-nhông, đến Tổng chỉ huy Các-păng-chi-ê và cả A-lếc-xăng-đri. Còn Công-xtăng, chỉ huy trưởng quân khu biên thuỳ đặt bản doanh trại tại Lạng Sơn thì từ đầu tháng 10 luôn luôn khẩn thiết đề nghị với A-lếc-xăng-đri xin rút ngay khỏi Lạng Sơn để bảo toàn lực lượng. Đến ngày 17 tháng 10, bất chấp cả lệnh hoãn rút Lạng Sơn của Các-păng-chi-ê, Công-xtăng đã để nguyên vẹn thành phố Lạng Sơn lại, âm thầm tổ chức một cuộc rút quân trong đêm tối mà y mệnh danh là cuộc rút lui “trong trật tự! rất khôn ngoan”. Chúng rút theo đường Lạng Sơn Đình Lập, Đường số 13, bí mật xuyên qua màn đêm để về Bắc Giang. Vừa thấy mặt Công-xtăng, Các-păng-chi-ê đã quát lên:

- Đồ hèn! Quay lại Lạng Sơn ngay!

Công-xtăng đâu phải tay vừa, y thừa biết cái tâm trạng “lòng vả cũng như lòng sung” của cấp trên trong cơn bối rối này, nên từ tốn thưa lại:

- Tôi đã tổ chức rút lui có trật tự, âm thầm. Tôi chẳng cho phá phách ầm ĩ như Sác-tông đã làm ở Cao Bằng. Đối phương đã không biết gì, không đuổi đánh và gây tổn thất được tôi.

Cuối cùng là một cuộc lễ long trọng ở Hà Nội gắn mề đay danh dự cho quân sĩ quân khu biên thuỳ để trấn an tinh thần bọn bại binh và bưng bít dư luận ở Đông Dương và cả chính quốc Pháp. Công-xtăng vụng chèo khéo chống! Thua phải chạy mà không bị đánh tơi bời. Thế là thắng rối!

Mãi sau này địch mới rút ra một bài học lớn trong thảm bại biên giới là trong nhiều vấn để sai lầm, có sai lầm đáng nhớ nhất, ấy là rút khỏi Cao Bằng quá chậm mà rút khỏi Lạng Sơn lại quá hấp tấp.

Từ Đồng Đăng đến Lạng Sơn có 14 kilômét. Dọc đường hoang vắng không một bóng người. Trên đường cái chỉ ngổn ngang bừa bãi những hòm đạn, đồ hộp, thùng, chai lọ địch không tha nổi trên đường rút chạy vứt bỏ lại. Vừa mới đến Đồng Đăng được một hôm, Trung đoàn chúng tôi đã được lệnh “Địch có hiện tượng rút bỏ Lạng Sơn. 174 bám gấp”. Dù biết Lạng Sơn vốn là sở chỉ huy quân khu biên thuỳ, lại là cái túi chứa đựng hết thảy bọn tàn quân từ Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê, Na Sầm, Đồng Đăng chạy về, nhưng với ý chí thừa thắng xông lên, trung đoàn cứ ào ạt tiến về. Vừa bôn vừa nghe ngóng tình hình địch, vừa lên phương án tác chiến. Dân công không vận chuyển lương thực kịp, nhưng bộ đội đã dùng đồ hộp, gạo sấy của địch trong lúc chúng ở thế thua, bỏ chạy, ta một cũng thắng mười. Anh Mân vừa động viên bộ đội như vậy, anh lại thủ thỉ căn dặn cán bộ “hãy cẩn thận. Nơi chiến trường ác liệt không sao, nhưng lại dễ đổ ngã vì viên đạn bọc đường” ở nơi thành thị ấy!

Còn tôi lo nắm vững đường dây với trinh sát của ta từ phía trước báo về để nắm chắc tình hình địch.

Mọi lo lắng bằng thừa. Khi Trung đoàn tiến vào Lạng Sơn thì địch đã lặng lẽ chuồn xa. Lạng Sơn như một cái kho lớn đầy ắp đạn được, súng ống, lương thực, quân trang quân dụng mà Công-xtăng đã “ngoan ngoãn” để lại để đổi lấy sự rút lui bí mật, êm ả ; an toàn, “ngoan” tới mức địch không hề có ý nghĩ gài mìn và lựu đạn ở kho nữa. Cả hai cái pháo đài Đèo Giang, Văn Vỉ, nổi tiếng vào loại kiên cố nhất nhì Đông Dương, còn nguyên vẹn các loại lô cốt, hầm ngầm, với cả súng lớn, súng bé, trên hai quả núi cao vời vợi ôm lấy cả bầu trời của thị xã Lạng Sơn. Nếu địch cố thủ mà ta húc vào ắt là hao binh tổn tướng. Quân đội Pháp có truyền thống xây nhiều pháo đài, chiến luỹ, để ra oai lúc thời bình, để rút lui bỏ chạy lúc thời chiến, như chiến luỹ Ma-gi-nô ở Pháp trong Đại chiến thứ hai, thì nay pháo đài Cao Bằng, pháo đài Đèo Giang, Văn Vỉ cũng nguyên số phận. Công binh của trung đoàn đã rất cẩn thận dò mìn, mọi chỗ đều an toàn, chỉ việc hoan hỉ mở đồ hộp ra chén. Sau khi báo cáo lên trên là địch đã rút khỏi Lạng Sơn, chúng tôi được lệnh “tiếp quản ngay toàn bộ thị xã, đón chờ các đồng chí bên dân, chính, đảng về”!

Sau khi cho đại đội trinh sát và Tiểu đoàn 255 vào xục xạo kiểm tra tình hình thị xã rồi án ngữ ở hướng Lộc Bình, chúng tôi bố trí Tiểu đoàn 249 chiếm các pháo đài Đèo Giang, Văn Vỉ, bảo vệ thị xã.

Trung đoàn bộ chúng tôi đóng ờ phía Bắc ngoại thị cùng với Tiểu đoàn 251. Các điểm cao có bố trí cao xạ phòng không. Có lẽ địch quá tiếc rẻ nên hôm sau cho hai Hen-cát đến thả một loạt bom để phá kho. Cao xạ của trung đoàn đánh trả mạnh, không quân địch loáng nhoáng coi như làm xong nhiệm vụ rồi chuồn. Có lẽ chúng báo cáo bừa là đã hủy được kho tàng, nhưng mấy quả bom đã rơi trượt hết. Sau này sách báo địch đã rền rĩ những lời tiếc của: “Lạng Sơn để lại 11300 tấn súng đạn, lương thực, dụng cụ chiến tranh, thuốc men, quân trang, quân dụng đủ để đối phương trang bị cho tám trung đoàn mạnh!”

Mà quả thật là nhiều. Tôi và anh Mân khi vào thị xã xem đến kho nào cũng thấy đầy ắp, đủ các loại súng, các cỡ đạn. Nghĩ lại những ngày ở rừng chia nhau từng viên đạn, từng khẩu trung liên, nhìn cảnh tượng trước mắt, tôi nói với anh Mân:

- Hồi bên Đường số 4, giá có nằm mơ cũng không mơ thấy nhiều như thế này.

Anh Mân bàn với tôi:

- Phải để nghị trên cho lực lượng chuyển gấp, giải tán kho nhanh mới được. Nhất là loại đạn pháo, súng nặng và thuốc quân y.

Hai chúng tôi đang vừa đi vừa bàn chuyện, bỗng một người nom nhanh nhẹn hoạt bát, tay cầm máy ảnh, lưng buộc toòng ten những cuộn giấy, bìa, nói vui vẻ:

- Xin hai cấp chỉ huy một “pô”. Thế! Mời các đồng chí đứng cạnh cái xe “Giép” này.

Cứ thế anh bắt chúng tôi đứng để anh nháy mấy kiểu liền. Anh bảo rất cần cho công tác thông tin của tỉnh rồi anh mời chúng tôi vài hôm nữa xem triển lãm “chiến thắng biên giới” ở giữa trung tâm thị xã.

- Năm! Lơ xơ-mơ(1)! Công tác thông tin tỉnh.

Vừa chỉ tay vào ngực anh vừa vui vẻ phấn chấn tự giới thiệu, rồi lại vội vã bắt tay tạm biết nói rất nhanh: “Vội quá! Chiến thắng rồi, các nhà quân sự 174 có thể tạm được nghỉ, nhưng cánh thông tin tuyên truyền chúng tôi bây giờ mới bở hơi tai đây. Cơ mà vui! ô-rơ-voa! mê vích-toa! xăng xoá-xăng cát-tơ(2). Chả là anh thích nói tiếng Tây cho vui.

Đấy là anh Trần Năm, con người nổi tiếng vui, hăng hái, yêu đời của thị xã Lạng Sơn xưa kia và trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Anh vốn là người dưới xuôi, nhưng ở đất Lạng Sơn từ thời thuộc Pháp. Cái biệt hiệu La xơ-mơ người thị xã cùng thời gán cho anh là vì anh vốn là một cầu thủ bóng đá, một tay bát “gôn” của đội bóng. La xơ-mơ đã từng nhiều lần vào Nam ra Bắc tham dự những trận bóng đá nẩy lửa thời bấy giờ, cầu thủ cùng thời với Trương Tấn Bửu, Tý Bồ, Hội, Ba Goòng. Kháng chiến bùng nổ, cũng như những chàng trai nổi tiếng của xứ Lạng: Phạm Ơn, Sơn Hải, Đinh Như Thành, Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tên Tráng Sĩ nên họ ghép thêm biệt hiệu Tiêu Sơn cho vui)... hăng hái nhập cuộc kháng chiến chống Pháp, cứu nước với cả nhiệt tình hăng say. Đinh Như Thành, Tiêu Sơn Tráng Sĩ thì vào bộ đội, Phạm On tham gia công tác tỉnh đội, còn anh Trần Năm làm ban kinh tế, rồi ban thông tin tuyên truyền. Họ cùng cơ quan tỉnh sơ tán lên các vùng Hội Hoan - Kéo Coong - Bình Gia hoạt động công tác, kéo cả gia đình tản cư theo. Lạng Sơn giải phóng, chúng tôi mừng một thì những người như Trần Năm, Phạm Ơn mừng gấp mười. Họ được trở về với mảnh đất ruột thịt đã từng gắn bó nhiều kỷ niệm thân thương từ tấm bé tới lúc trưởng thành.

Năm 1985, nhân dịp lên dự 35 năm ngày giải phóng Lạng Sơn và chiến dịch Biên giới thắng lợi, tôi gặp lại các anh. Bây giờ người quanh phố gọi là “Cụ Năm”, “Bác Phạm Ơn”, “Bác Thành”, “Bác Sơn Hải”. Anh Thành tham gia bộ đội pháo binh đã từng đánh Đông Khê - Bình Liêu với tôi, nay đã về hưu nhưng dáng vóc vẫn đẫy đà to lớn. Phạm Ơn hiện đang giúp Bộ chỉ huy quân sự tỉnh ghi lại lịch sử của tỉnh nhà. Lại có cả bác Sơn Hải, con người nổi tiếng về lo toan cơm áo gạo tiền của Trung đoàn 174, một cán bộ hậu cần mà thời kỳ đó còn dùng danh từ “cấp dưỡng”. Nay bác Sơn Hải là ủy viên phường Chi Lăng ở thị xã, vẫn to cao, vui vẻ, dù tuổi đã nhiều. Cụ Năm tuổi gần 80, đã phải chống ba-toong, chiếc ba-toong của một tên đại úy Pháp thua trận Bông Lau, cụ vẫn còn giữ được. Già nhưng cụ vẫn vui và nhắc lại nhiều chuyện sinh động thời chống Pháp và rất cảm động, chính cụ Trần Năm đã tặng lại tôi và anh Mân tấm ảnh chụp bên chiếc xe “Giép” khi vào tiếp quản Lạng Sơn, nước ảnh hơi ngả vàng, nhưng sự giữ gìn tư liệu của cụ là một tấm lòng vàng. Một con người biết trân trọng quá khứ!

Trở lại với chiến thắng của trung đoàn vào Lạng Sơn. Cũng ngày hôm đó, các anh Hoàng Văn Kiểu - Bí thư và anh Minh Tước - Ủy viên Khu, anh Huyền Trang, lúc ấy là Chủ tịch tỉnh cùng các cán bộ chính quyển, đoàn thể đã về. Chúng tôi sung sướng được bàn giao Lạng Sơn cho các anh, cùng các anh bàn tính tới bao nhiêu là công việc. Nào là tổ chức lễ chiến thắng! Nào là quản lý thị xã, quản lý tiền tệ. Nào là vấn đề người tản cư muốn trở về thị xã dọn dẹp. Nào là bọn Việt gian, mật vụ địch cài lại, và cuộc sống của người dân vùng tạm chiếm nay ở lại thị xã. Vậy tổ chức cho họ tản cư ra sao để tránh sự oanh tạc của máy bay địch. Cuộc chiến tranh còn tiếp diễn kia mà. Đây chỉ mới là thắng lợi chặng đầu trên con đường trường kỳ kháng chiến.

Chú thích:

(1) La xơ-mơ (La semeuse) là tên một đội bóng đá thời thuộc Pháp.

(2) Au revoir, “mê” victoire 174 (tạm biệt, mê thắng lợi cùa 174).