Chương thứ ba (6) QUẢ ĐẤM CUỐI CÙNG VÀO TIỂU KHU DUYÊN HẢI - TRẬN BÌNH LIÊU
Quả nhiên chỉ một tháng sau, trung đoàn chúng tôi được lệnh tham gia hướng mặt trận Đông Bắc của chiến dịch Trung du. Vẫn trên trục Đường số 4, chúng tôi tiến công giải phóng Bình Liêu, một căn cứ mạnh lại thêm bọn ở Hoành Mô hoảng sợ rút về đây nên số quân lên tới 300 tên. Trong cứ điểm này còn có cả bọn sĩ quan Tưởng Giới Thạch từ đám tàn quân Bạch Sùng Hy trốn thoát, được Pháp cứu trợ cho ẩn náu tại đây.
Vào thời gian này, đã là tháng 12 năm 1950. Bọn Pháp đã hoàn hồn sau đòn trời giáng của chiến dịch Biên giới. Chính phủ Pháp cử tên Đại tướng Đờ Lát - đờ Tát - xi - nhi (sau này được phong Thống chế), vốn được mệnh danh là tướng tài của Pháp thời bấy giờ, sang làm tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, để cố bày xếp lại thế bố trí cứ điểm và quân cơ động với hy vọng tạo thế, giành lại quyền chủ động chiến lược trên toàn cõi Đông Dương.
Trung đoàn 174 được lệnh giải phóng đoạn Đường số 4 còn lại cùng với Trung đoàn 176 của Lạng Sơn và Trung đoàn 98 với ý đồ của trên, buộc địch không đoán ra chiến trường chính của chiến dịch mới của ta ở đâu. Đông Bắc hay Trung du? Khi được lệnh phối hợp vời chiến dịch Trung du, anh Mân và tôi ngồi bàn, anh phát biểu:
- Địch rút khỏi Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập sau trở lại chiếm Đình Lập, Tiên Yên, củng cố Đường số 13, chúng tính uy hiếp Đường số 1, và muốn trở lại xứ Lạng này. Nay có lệnh mới, anh Việt nghiên cứu cách đánh thế nào cho bung nốt cái phân khu Duyên Hải còn lại của Đường số 4 đi, nhà quân sự kiêm quân y, tìm đúng huyệt mà điểm, địch phải ngã quỵ mà...
Quả thật vậy, tuy không được làm nghề y, nhưng 3 năm trường thuốc đã tự nhiên tạo cho tôi những ý thức là luôn quan tâm đến sức khoẻ của bộ đội từ ăn, mặc, ở, đến chữa, phòng bệnh, dùng thuốc tây, thuốc ta phối hợp, còn trong từng trận đánh thì làm thế nào tiết kiệm được nhiều xương máu nhất, giảm bớt đau thương. Phương châm của chúng tôi là “chuẩn bị thật chu đáo, đánh nhanh giải quyết nhanh, đánh chắc, thắng chắc, đánh là tiêu diệt gọn”. Có lẽ đây cũng là bài thuốc chống bệnh đánh liều lĩnh, thắng bằng bất cứ giá nào...
Còn mục điểm huyệt, thì mỗi lần đánh là phải tìm nơi nào gõ vào là địch lăn quay. Rõ ràng Bộ chỉ huy chiến dịch Biên giới đã sáng suốt chọn điểm Đông Khê, nên mới tạo thời cơ cho thắng lớn. Trước đây, Trung đoàn 174 đã chọn điểm chiến thuật đánh vào Cạm Phầy ở Đông Khê, mở toang cửa nhảy vào pháo đài làm địch trở tay không kịp, phải đầu hàng trước thế mạnh của quân ta.
Bây giờ ta tiếp tục đánh vào phân khu Duyên Hải còn lại của cái quân khu Biên Thuỳ. Rải rộng tấm bản đổ, các cán bộ tham mưu và tôi nghiền ngẫm: phân khu Duyên Hải nằm như thế rẻ quạt, lấy Tiên Yên làm trung tâm, chia ra 3 nhánh: một nhánh là Tiên Yên - Đầm Hà - Hà Cối - Móng Cái. Theo nguyện vọng của Tỉnh ủy Hải Ninh, chúng tôi thống nhất chọn Bình Liêu làm điểm của chiến dịch nhỏ này. Trung đoàn 174 tập trung tiêu diệt Bình Liêu, nếu Hoành Mô rút về, tiêu diệt luôn và để Trung đoàn 98 chặn viện từ Tiên Yên lên. Tiểu đoàn 888 của Trung đoàn 176 phối thuộc và có thêm hai đại đội bộ đội địa phương Đình Lập và Hải Chi bố trí giữa Đỉnh Lập - Khe Tù, chặn đánh quân ở Đình Lập rút chạy.
Họp ban chỉ huy ở bản Đục, nhà anh Nông Quang Trung sau này là Bí thư huyện ủy Đình Lập, tôi báo cáo phương án tác chiến. Tham dự cuộc họp có anh Mân và hai đồng chí khách quý, phái viên của Bộ Tổng tham mưu. Đó là anh Trần Quý Hai và anh Trần Công Khanh. Chính ủy khu Bình Trị Thiên và Quân khu trưởng Quân khu V từ mảnh đất Thuận Hoá Bình Định xa xôi ra tham quan chiến trường miền Bắc. Tham dự còn có đồng chí Hoàng Minh Huấn, Tỉnh ủy viên và đồng chí Hoàng Thanh tức Nhị Quý Bí thư Tỉnh ủy Hải Ninh.
Từ địa bàn quen thuộc của đất Lạng Sơn, trung đoàn tiến vào vùng đất lạ bị địch chiếm đóng lâu ngày. Toàn người dân tộc Ngái và Hán. Ở quanh đồn giặc, cơ sở cách mạng của ta non yếu nên hễ có bóng người lạ xuất hiện là lập tức đồn bốt được báo động. Chúng chia quân đi phục các nẻo đường ban đêm, các thôn bản, cứ nửa tiếng lại gõ mõ cầm canh, canh gác, chúng phát cả súng để bắn lại ta.
Trên đoạn đường Đình Lập - Khe Tù tạo thế bất ngờ đánh phục kích không phải là dễ dàng. Thế mà anh Thái Dũng đã cùng tiểu đoàn Lũng Vài (Tiểu đoàn 29 đã chiến thắng trận Bố Củng - Lũng Vài năm 1947), từ căn cứ Biển Động, Mai Xiu, xuyên qua bao rừng núi trùng điệp, tiêu diệt đồn Đồng Khuy rổi áp sát Đường số 4, đánh trận phục kích Châu Sơn oanh liệt, diệt hai xe tăng, tám tên địch, trong đó có tên chì huy đồn Đình Lập (16 - 10 - 1948). Tiếp theo là trận Điền Xá (4-8-1949) cách Tiên Yên 17km, các anh Nam Long, Mạnh Hùng đã đánh một trận nổi tiếng, diệt 20 xe chở toàn bọn sĩ quan Pháp đi tập huấn từ Lạng Sơn về, diệt 150 Pháp, bắt sống 25 tên.
Địa không lợi, nhân không hoà thì việc tìm được người am hiểu thông thổ là một vấn đề có tính quyết định. May thay Tỉnh ủy Hải Ninh đã cử đến cho chúng tôi đồng chí Nguyễn Văn Thắng, quê ở Châu Sơn, là Đại đội trưởng Hải Ninh lúc đó.
Vớ được “ông thổ công” Văn Thắng, tôi vui mừng chẳng kém gì lúc gặp Đình Giang và Hùng Quốc ở huyện Tràng Định và Thoát Lãng trước đây. Văn Thắng thông thuộc địa hình, dân tình không chỉ của huyện Đình Lập mà cả của đất Bình Liêu nữa. Suốt thời gian hoạt động trên mảnh đất này, Vãn Thắng luôn ở cạnh chúng tôi.
Việc tổ chức trinh sát địa hình tiến hành rất gian nan, nguy hiểm. Chúng tôi phải vòng theo đất biên giới Trung Quốc đến gần đồn Hoành Mô rồi xuyên rừng tiến sát đồn Bình Liêu để nghiên cứu địa thế và tình hình địch. Địch phục, chúng tôi tránh, tránh cả dân. Bọn phỉ từ trong rừng rậm thỉnh thoảng lại bắn ra làm cho cuộc hành trình đã khó khăn lại càng thêm căng thẳng.
Đánh trận vận động công kiên chiến này, chúng tôi dùng hình thức bôn tập. Trung đoàn từ Lạng Sơn tập kết quân ở Lộc Bình, cấp tốc hành quân một mạch từ Lộc Bình qua đèo Ngàn Chi, thẳng về phía cánh đồng Bình Liêu. Cán bộ đi trinh sát xong - được nhiệm vụ về đón bộ đội, lập sa bàn ngay dọc đường để phổ biến kế hoạch tác chiến.
Đơn vị pháo cho đan sẵn những sọt tre chứa đầy đất cát, chất thành công sự để không gây một tiếng động nhỏ vì ta phải bố trí pháo rất gần địch. Đại đội công binh chuẩn bị sẵn đòn tre và mặt sàn để bắc 5 chiếc cầu, lấy chiến sĩ ngâm mình trong dòng suối giá lạnh làm trụ để cho cả trung đoàn hành quân, áp sát đồn.
Đại đội trinh sát được chia thành từng tốp nhỏ xuống từng đơn vị, làm hoa tiêu dẫn đường các mũi tiến vào vị trí tập kết, triển khai quanh đồn trong đêm tối mịt mù.
Kế hoạch tỉ mỉ công phu, chu đáo, có nhiều khó khăn, nhưng trung đoàn đã được Tỉnh ủy, chính quyền và nhân dân Lạng Sơn, Quảng Ninh giúp đỡ hết lòng có thể nói cả huyện Lộc Bình cùng ra trận với chúng tôi. Huyện Lộc Bình vốn nổi tiếng có chiến khu Chi Lăng, Nà Thuộc, kiên cường suốt mấy năm liền chống đỡ với gần hai mươi chín lần tiến công càn quét của giặc Pháp. Gần hai tháng trước ngày giải phóng, lần thứ ba mươi, giặc Pháp mới lọt được vào khu Chi Lăng, Nà Thuộc. Sống trong lòng địch nhưng bà con vẫn gửi con em ra vùng tự do tham gia chiến đấu. Đồng chí Ngô Văn Tiếp, Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện, nói với tôi: “Suốt thời kì địch chiếm đóng, chỉ có hai thôn là tôi không xây dựng được cơ sở, còn hầu hết có tổ chức của chính quyền cách mạng. Nay được tin bộ đội mở cuộc tiến công, bà con tham gia tiếp tế, vận chuyển, dân công rất đông. Ủy ban kí giấy vay dân trong các bản mỗi nhà ba mươi cân gạo, năm nhà một đầu lợn để kịp có lương thực, thực phẩm nuôi quân. Cùng với bà con Tày, Nùng huyện Lộc Bình tỉnh Lạng Sơn, còn có cả đồng bào vùng địch ở Đình Lập, Hải Chi, Ba Chẽ, Đầm Hà, Hà Cối tỉnh Quảng Ninh (lúc bấy giờ gọi là Hải Ninh) cũng tham gia lực lượng dân công tiếp tế”.
Trận đánh diễn ra khá gay go, quyết liệt không kém gì lúc đánh Đông Khê. Ngay từ những phút đầu khi Ban chỉ huy trung đoàn vào sở chỉ huy thì đồng chí Đài, Đại đội phó trinh sát dẫn đẩu một tốp đi trước lên đỉnh đồi, đặt đài quan sát. Mấy băng tiểu liên nổ liền, đồng chí Đài bị trúng đạn ngã lăn ra và mấy phút sau đã hy sinh trong tay đổng đội.
Đúng vào đêm Nôen (24-12-1950) vào lúc 22 giờ, khi mọi việc chuẩn bị đã xong, trung đoàn ra lệnh nổ súng. Bốn khẩu 75 ly thi nhau nhả đạn nhằm vào các lô cốt. Sau hơn 40 phút công phá, các hoả điểm của địch vẫn bắn ra rất mạnh. Quân ta không thể nào mở được đột phá khẩu. Cơ số đạn pháo chỉ còn một nửa. Anh Mân và tôi hội ý chớp nhoáng, nếu cứ tiếp tục bắn thì trong vòng ba mươi phút, đạn pháo sẽ hết nhẵn. Chúng tôi thống nhất đình chỉ việc pháo kích, cho bộ đội tạm rút ra chỗ khuất nghỉ ngơi.
Sáng 25 tháng 12, lúc sương sớm vừa tan dẩn ; mục tiêu lộ rõ. Qua ống nhòm, đồn xuất hiện gần như không sứt mẻ. Té ra trong đêm tối, pháo của ta ước lượng cự ly sai nên bắn trượt hết ra ngoài. Theo lệnh của trung đoàn, cuộc tiến công lại tiếp tục. Tiểu đoàn 249 cho Đại đội 315 và 316 mở được cửa vào đồn nhưng không phát triển được. Địch chống trả rất ngoan cố. Mũi thứ ba, Tiểu đoàn 251 vẫn nằm ngoài rào, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Hữu An đề nghị trung đoàn cho diệt hoả điểm số 1. Tiểu đoàn trưởng pháo báo cáo đạn pháo chỉ còn 3 viên, trong ấy một viên bị móp vỏ, bắn sẽ nguy hiểm. Cuộc chiến đấu trở nên quyết liệt, vô cùng căng thẳng. Thắng hay bại gần như treo trên đầu sợi tóc. Tôi suy nghĩ rất lung, chợt nảy ra ý nghĩ phải đưa pháo vào gần hơn nữa, bắn thật chính xác, may ra mới chuyển bại thành thắng, đồng chí Sáu Nhật hưởng ứng ngay ý kiến và đề nghị cho tự mình xuống sát đồn, tìm vị trí. Một lúc sau, Sáu Nhật báo cáo, có thể lợi dụng dãy nhà trại con gái (vợ lính) phá thông tường, tiến sát lô cốt chính cách đồn 30m, chỉ cần khoét một lỗ ở mảng tường con kiến, nhằm thẳng vào lỗ châu mai của lô cốt số 1 mà bắn. Quả nhiên, chỉ một phát đạn chúng tôi đã đánh gục địch, xung kích xông lên, phối hợp hai mũi 51 và 249 diệt gọn đồn trong sự bàng hoàng kinh sợ của bọn giặc. Trong khi Tiểu đoàn 249 và Tiểu đoàn 251 đánh đồn Bình Liêu phố, thì Tiểu đoàn 255 trong đêm 25 tháng 12 đã diệt gọn đồn Bình Liêu (nơi mà quân của đồn Hoành Mô rút về) nằm trên một mỏm cao án ngữ cả cánh đồng và khu phố huyện. Khi vào chiếm đồn Bình Liêu phố, giữa cảnh tan hoang đổ nát, còn thấy nguyên một bàn tiệc bày sẵn để đón mừng Nô-en: những ngọn nến cháy đỏ, cành thông trang trí rực rỡ, rượu mạnh, bánh kẹo, lợn sữa, gà quay... Bọn địch không ngờ ở nơi kiên cố, hẻo lánh, gần như bất khả xâm phạm này, chúng nó phải đón đêm Nô-en khủng khiếp này.
Vào khoảng 15 giờ ngày 25 tháng 12 nãm 1950, ta hoàn toàn làm chủ chiến trường, bắt sống tên quan ba Clen-sơ chỉ huy Bình Liêu, tên quan hai Cốt-man chỉ huy Hoành Mô, thu toàn bộ vũ khí trong đó có một khẩu cối 120 ly. Hai máy bay Hen-cát từ Hà nội đến, bị cao xạ của trung đoàn bắn đuổi, một Đa-cô-ta đến thả 20 dù tiếp tế đều rơi vào tay quân ta.
Ở mặt trận phụ, quân chiếm đóng Đình Lập hoảng sợ, rút chạy, bị tiểu đoàn 888 địa phương Lạng Sơn và đại đội địa phương Hải Chi, Đình Lập của tỉnh Hải Ninh do Minh Tuấn và Hùng Cường chỉ huy phục kích trên Đường số 4, giữa Đình Lập và Tiên Yên đánh cho tơi tả.
Sau một đêm, một ngày chiến đấu căng thảng, mặc dù mệt mỏi, nhưng nhiệm vụ chưa cho phép xả hơi. Tiểu đoàn 249 giữ đồn và khu phố. Tiểu đoàn 251 chuyển sang phục kích trên đường Bình Liêu - Tiên Yên cách phố 1 km, phối hợp với Trung đoàn 98 đợi đánh quân viện. Quả như đã dự kiến, vào khoảng 15 giờ, một tiểu đoàn địch xuất hiện. Chúng hành quân theo đội hình chiến đấu, tiến từng bước rất thận trọng. Tốp đầu của chúng vừa lọt vào phố Bình Liêu, Tiểu đoàn 249 được lệnh nổ súng chặn đẩu, Tiểu đoàn 251 được lệnh xuất kích. Địch như ong vỡ tổ, chống cự rất yếu ớt, vứt súng đạn, quân dụng đầy đường, mạnh đứa nào đưa ấy tẩu thoát vào rừng, một số lớn đểu tội hoặc đầu hàng. Trung đoàn 98 chặn hậu vì xuất kích chậm nên không tóm gọn hết toán viện binh.
Một trận đánh đã diễn ra đẹp về chiến dịch và chiến thuật. Nhìn lại, chúng tôi đã điểm đúng huyệt. Quân Hoành Mô rút về để củng cố cho Bình Liêu, cả hai đều bị diệt gọn, bắt sống cả hai đồn trưởng. Điểm đúng huyệt Bình Liêu đã gây một chấn động, tạo diễu kiện cho ta đánh tan tác quân rút lui của Đình Lập, cũng như viện binh từ Tiên Yên lên.
Một số đồn bốt nhỏ, nổi tiếng là ngoan cố gian ác và khó đánh như Phong Dụ, Đồng Và thuộc Tiên Yên, Chức Bái Sơn ở Bắc Hà Cối, Pò Hèn, Thán Phún ở Bác Móng Cái đều rút chạy.
Tỉnh Hải Ninh trước đây gần như bị chiếm đóng toàn bộ, nay đã có một vùng giải phóng rộng lớn. Đồng chí Nguyễn Xuân Trúc, Chủ tịch tỉnh, đồng chí Dương Tường lúc ấy là Phó bí thư huyện ủy Bình Liêu, nói với tôi: “Đồn Bình Liêu rất kiên cố, thế mà các đồng chí đã tiêu diệt gọn. Nhân dân huyện Bình Liêu và tỉnh Hải Ninh chúng tôi vô cùng phấn khởi. Các cơ quan của tỉnh lâu nay phải ở nhờ đất bạn - (Na Dương, Đông Hưng) nay tỉnh đã có địa bàn rộng lớn không còn phải sống lưu vong vất vả nữa... Cám ơn các đồng chí lắm lắm...”
Đồng chí Dương Tường là cán bộ người Cao Bằng, lúc đó được phái xuống tăng cường cho huyện ủy Bình Liêu. Nay đồng chí là Trung ương ủy viên, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng.
Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, trước cảm xúc của những ngày chiến thắng huy hoàng, đã ghi lại lời ca:
“Bình Liêu, đồn giặc đây...
Giờ còn đâu lũ giặc hung tàn
Bình Liêu... vang tiếng quân ca...
Trung đoàn chuẩn bị xuôi xuống sát vùng biển thì có tin địch ở Tiên Yên, Đầm Hà, Hà Cối rục rịch, chuẩn bị rút chạy ra biển. Cái khu tự trị Nùng mà bọn thực dân Pháp dày công xây dựng với Trung đoàn Vàng A Xáng gần như tan ra mây khói. Mọi việc đang tiến hành, thì Trung đoàn nhận được lệnh của Bộ Tổng chỉ huy: 174 rời Đường số 4, chuyển qua Đường số 18, phối hợp tác chiến trên một chiến trường mới.
Vậy là sau 3 năm, kể từ cuối năm 1947 đến cuối năm 1950, con Đường số 4, từ Tiên Yên, Khe Tù lên Cao Bằng đã sạch bóng quân thù. Đường số 13 từ Đình Lập đến Lục Nam cũng không còn một tên giặc. Cùng với các đơn vị bạn, với nhân dân tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hải Ninh, chúng tôi đã cơ bản làm tròn nhiệm vụ chặt đứt Đường số 4 mà Bộ Tổng Tư Lệnh đề ra từ chiến dịch Thu Đông 1947 cái tên “Đường thuộc địa số 4 (RC4)(1) mà bọn thực dân Pháp ngạo nghễ đặt ra thì nay đã trở thành Đường số 4 vĩnh viễn là của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chú thích:
(1) RC4: Route coloniale n°4