Chương thứ ba (7) CẢM NGHĨ THEO DÒNG HỒI TƯỞNG THAY LỜI KẾT LUẬN
Ba mươi nhăm năm qua, đất nước ta đã điểm tô nhiều trang sử vẻ vang trong những dấu son tươi thắm. Từ chiến dịch Biên giới 1950 đến Điện Biên 1954 và chiến thắng trọn vẹn 30 tháng 4 năm 1975.
Riêng tôi, cứ mỗi lần nhớ đến chiến thắng lịch sử của mùa chiến dịch tiến công Biên giới, tâm hồn tôi lại dâng trào niềm xúc động mạnh mẽ, với hình ảnh rộn rã, tưng bừng của cả một vùng rộng lớn núi rừng, thôn bản miền Cao - Bắc - Lạng.
Hễ mỗi lẩn có dịp đi công tác trên Biên giới, dọc theo con Đường số 4 lịch sử, tôi lại cảm hoài nhớ đến những cán bộ và chiến sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp cao cả, giải phóng đất nước, bản làng khỏi tay bọn xâm lược. Tôi thường rất vui mừng gặp lại các cán bộ cũ của trung đoàn. Có đồng chí cao tuổi được nghỉ hưu ở quê nhà. Có nhiều đồng chí vẫn làm việc với các cương vị khác nhau, người ở quân đội, người đã chuyển ngành và hầu hết đã thành đạt. Có đồng chí là cấp tướng, là quân đoàn trưởng, có đồng chí giữ cương vị cao trên Bộ Tổng tham mưu, có đồng chí là sư đoàn trưởng và đang trấn ải trên vùng Biên giới. Thật rất xúc động khi nắm tay các đồng chí ôn lại một thời trai trẻ đã qua. Đây là Nguyễn Hữu An, là Trần Sơn, Nguyễn Châu, Đoàn Độ, Nông Ngọc Cận, Hải Bằng, La Văn Cầu... Những con người rắn rỏi kiên trinh phục vụ quân đội, những người đã cùng chúng tôi, người lính 174 “bát cơm xẻ nửa, chăn xui đắp cùng”.
Từ năm 1953, tôi rời Mật trận rồi đến năm 1960, tôi chuyển ngành nhận nhiệm vụ khác, không ở quân đội nữa. Năm 1975, qua đài, báo tôi theo dõi chiến dịch lịch sử đại thắng mùa xuân từ lúc mở đầu chiến dịch Buôn Mê Thuật cho tới ngày 30 tháng 4, giải phóng Sài Gòn. Nhớ lại thuở trai trẻ ở biên giới Cao - Lạng, bỗng nhiên tôi có cảm giác thật kỳ lạ, cứ như là lịch sử lặp lại vậy. Chiến dịch Biên giới, đòn đánh mở đầu ở Đông Khê đã điểm trúng vào đại huyệt của địch, khiến chúng vỡ bung thế trận, hoang mang, lúng túng rơi vào tình trạng suy sụp, rơi từ sai lầm này đến sai lầm khác, để rồi gánh chịu cái kết quả bi thảm là bỏ tuột một vùng lớn đất đai, rút chạy từ Cao Bằng xuống đến Lạng Sơn, Lộc Bình, Đình Lập, Tiên Yên, cả chiều ngang từ Đình Lập đến Lục Nam. Vẫn chưa yên cơn choáng váng, chiến dịch kết thúc rồi mà vẫn hoảng hốt, chúng vội rút cả Hoà Bình, Lao Cai, mở cho ta cái hành lang xuyên suốt từ Việt Bắc thông vào cửa ngõ Khu 3, tuột vào Khu 4, nối với chiến trường Trung Bộ.
Cũng giống như thế! Năm 1975, chỉ một đòn tiến công Buôn Mê Thuột, đòn điểm trúng huyệt khiến địch hoảng sợ, tan vỡ, vội vã tuỳ nghi di tản. Sự hoảng loạn của cái “tuỳ nghi di tản” vô tổ chức này, đã như một phản ứng dây chuyền, nghiền nát luôn cái ý định co cụm và cứ thế lùi dần, rơi vào tuyệt vọng.
Ở chiến dịch Biên Giới, sau Đông Khê, chúng tôi được lệnh chớp thời cơ, nỗ lực tiến công lấn tới. Năm 1975, khi địch tan vỡ ở Huế, Đà Nẵng, những lời giục giã của trên “Thần tốc! Thẩn tốc!” đã đẩy bước chân của bộ đội ta thần tốc tiến nhanh, tiến mạnh tới toàn thắng.
Có khác chăng là ở quy mô chiến trận và lực lượng ta đã hùng hậu, đủ sức thực hiện nhiệm vụ khi thời cơ xuất hiện hồi năm 1975.
Năm 1950 xưa, giá như ngày đó ta chỉ cẩn có thêm vài sư đoàn, hẳn sức lấn tới chắc còn có hiệu quả lớn lao hơn, chiến dịch Biên giới sẽ thắng to hơn. Bản thân bọn Pháp đã phải nghĩ đến một kế hoạch phòng ngự từ miền Trung vào kia mà.
Biết bao nhiêu quyển sách của chính người Pháp, từ tướng tá đến nhà văn, nhà báo, khi nói đến thất bại Biên giới trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của họ đều chung một ý: “Thất bại ở chiến dịch Biên giới là tiền đề dẫn tới thảm bại Điện Biên Phủ”. Tôi nghĩ rằng người Mỹ, kẻ theo chân Pháp đến Việt Nam và cũng bỏ chạy như Pháp hẳn sẽ nghĩ tiếp và cũng từ thảm bại Điện Biên Phủ dẫn tới Sài Gòn sụp đổ 30 tháng 4 năm 1975.
Thêm một sự trùng hợp thật kỳ lạ. Hồi đánh Đông Khê, 35 năm trước kia, Trung đoàn 174 chúng tôi đã được trên giao trách nhiệm là đơn vị chủ công đánh vào hướng chính của trận mở màn chiến dịch. Thế rồi năm 1975, lại chính Trung đoàn 174 trong đội hình của Sư đoàn 316, đã vinh dự là một mũi quan trọng đột phá vào Buôn Mê Thuột ngày 10 tháng 3 năm 1975 mở màn cho chiến thắng lịch sử chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh cho ngụy nhào, giải phóng trọn vẹn đất nước sau 30 năm dài bị chia cắt.
Gần đây, lên Lạng Sơn, ngồi ngắm phong cảnh vườn hoa Đắc Lắc, tôi lại thêm một cảm nghĩ: năm 1950, quả đấm quyết định cho bước chuyển biến mạnh của cuộc kháng chiến chống Pháp là ở địa điểm Đông Khê, vùng núi rừng Biên giới. Năm 1975, lại chính là Buôn Mê Thuột, cũng là một vùng rừng núi Trường Sơn. Người Ba Na, Ê Đê, Mơ Nông của núi rừng Tây Nguyên cũng cùng một ý chí kiên trung theo cách mạng, một tấm lòng trung thành với Bác Hồ như người Tày, người Nùng, người Dao, người H’Mông của núi rừng Việt Bắc. Hai tỉnh kết nghĩa thật rất thú vị!
Còn tôi, tuy không sinh ra ở Cao - Bắc - Lạng, nhưng cuộc đời chiến đấu của tôi gắn bó với Cao - Bắc - Lạng, với con Đường số 4 từ tuổi thanh niên, vào lúc khởi đầu cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp, đã khiến tôi cảm nhận niềm vinh dự được coi mình cũng là người con thân thương của miền Cao - Bắc - Lạng.
Bởi lẽ, chiến trường mặt trận Đường số 4, từ cuộc sống khăng khít của Trung đoàn 174 chúng tôi, với mảnh đất hùng vĩ thân yêu Biên giới, với sự chăm sóc, dìu dắt, chăm lo của tỉnh ủy, chính quyền, đoàn thể và hết thảy bà con dân bản, mà Trung đoàn 174 đã từng bước trưởng thành từ cái nôi vô vàn ân nghĩa đó.
Viết những trang hổi ký Đường số 4 - con đường lửa này, những mong bộc bạch, thổ lộ mối tình cảm sâu nặng nhất, những kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong cuộc đời chiến đấu của người cán bộ trong đội hình Trung đoàn 174, đứa con đầu lòng của lực lượng vũ trang Cao - Bắc - Lạng thời chống Pháp.
Với tôi, xứ Lạng và nước non Cao Bằng cũng như chiến khu Việt Bắc khắc vào tim tôi nhiều kỷ niệm đẹp, mãi mãi không quên. Mãi mãi cảnh sắc, tình người Cao - Bắc - Lạng rất xứng đáng là miền đất địa đầu, kiên trinh, son sắt và cũng rất kỳ diệu của Tổ Quốc Việt Nam chúng ta.