← Quay lại trang sách

NHÂN VỊ LÀ GÌ ? I.- MỞ ĐẦU

Sảng Đình Nguyễn Văn Thích có đăng bài khảo luận về Nhân Vị trong tạp chí ‘’Vì Chúa’’ cách đây 16 năm (1943).

Qua năm 1947, trong những cuộc nói chuyện ở Huế, Linh Mục Lý Văn Lập và Linh Mục Nguyễn Văn Thính đã nhiều lần đề cập đến Nhân Vị và cũng được đăng tải trong tạp chí ‘’Vinh Sơn’’ (xuất bản tại Huế).

Đến năm 1949, Giáo Sư Bửu Dưỡng có thuyết trình về Nhân Vị tại Hà Nội, Huế và Sài Gòn, nhưng hai chữ Nhân Vị vang lên trong khoảng khắc, rồi cũng bị chìm lắng trong đam mê vật chất và âu lo kinh hoàng (trụy lạc và chiến tranh). Ảnh hưởng của nó đối với trí thức Việt Nam, có khác nào như tiếng động bất thường, tuy có vang ầm lên trong chốc lát rồi cũng tan đi trong im lặng của không gian vô tận.

Gần đây, các phong trào chính trị lấy Nhân Vị là mục tiêu tranh đấu chống Cộng, và được luôn luôn nhắc nhở trong sách vở, báo chí và trên diễn đàn.

Năm vừa qua, vấn đề Nhân Vị lại một lần nữa, được Giáo Sư Bửu Dưỡng thuyết trình tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc năm 1957.

Đặc biệt hơn nữa là từ vài năm nay, Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa đã lấy Nhân Vị làm căn bản xây dựng chế độ Cộng Hòa. Sự kiện nầy đã được xác nhận ở phần mở đầu Bản Hiến Pháp với câu: ‘’Xây dựng Dân Chủ về Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội, Văn Hóa cho toàn dân, trong sự Tôn Trọng Nhân Vị’’.

Nhân Vị đã được chính quyền chủ trương, phổ biến, và được đa số đồng bào hưởng ứng, nhưng chưa mấy ai được rõ Nhân Vị là gì? Hoặc giả có biết, thì cũng có một số đông biết mập mờ, lầm lẫn Nhân Vị với linh hồn, rồi hoang mang tưởng chừng, Nhân Vị là thuộc phạm vi Tôn Giáo, và chỉ có các bậc Tu Sĩ Đạo Gia-tô mới có Nhân Vị, hay các đệ tử của Nho Học mới biết tôn trọng Nhân Vị. Hoặc mỉa mai hơn, lại có người đem Nhân Vị ra để mà biện hộ cho mình mỗi khi bị dư luận khiển trách hành vi khiếm nhã của mình.

Và đây là mục đích phổ biến lý tưởng Nhân Vị (và dĩ nhiên để phá tan sự ngộ nhận nói trên) mà Trung Tâm Huấn Luyện Nhân Vị Toàn Quốc ở Vĩnh Long, do Đức Giám Mục Ngô Đình Thục sáng lập dưới sự bảo trợ của Chính Phủ, trong 2 năm nay, đã tung ra khắp mọi nơi trên miền Nam vĩ tuyến, trên hai ngàn Nam Nữ Cán Bộ Nhân Vị (1959) đang âm thầm hoặc công khai thành tâm phục vụ lý tưởng.

Dù rằng ‘’Nhân Vị Chủ Nghĩa’’ chưa được phổ biến sâu rộng trong đại chúng, nhưng không phải đó là lý do để cho ta thờ ơ lãnh đạm, đối với một vấn đề liên hệ mật thiết đến vận mạng của chính ta, của gia đình ta, cũng quốc gia dân tộc ta và của cả nhân loại trong giai đoạn tối nguy nầy.

Nếu có người cho Nhân Vị là một vấn đề triết học quá cao sâu, phần đông dân tộc chưa hiểu nổi, nên không cần bàn đến, thì tưởng rằng, những ai đó, cũng nên dẹp lại thái độ tự ti mặc cảm của mình, nếu không để hãnh diện, thì ít ra cũng để mặc nhận khiến thông minh tiềm tàng của Dân Tộc Việt Nam trong cuộc Cách Mạng Nhân Vị với những thành công của nó trong miền Nam nước Việt nầy vậy.

Thử hỏi ngoài Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa và Dân Tộc Việt Nam (tự do) ra, có Chính Phủ nào, hay dân tộc nào, trên thế giới đã đề cao Nhân Vị, và đã thể hiện Nhân Vị trong một cuộc Cách Mạng toàn diện hay chưa?

Ngày nay, Nhân Vị đã thành vấn đề trọng yếu đối với nhân dân, Chủ Nghĩa Nhân Vị đã được làm nòng cốt xây dựng Hiến Pháp, cũng như đã làm căn bản triết lý cho cuộc Cách Mạng Quốc Gia, và chủ nghĩa ấy cũng đã được thực hiện một phần nào rồi trên lãnh thổ miền Nam Tự Do, chẳng hạn như cải cách điền địa, cải tiến giáo dục, bài trừ tệ đoan xã hội, canh tân kinh tế, mở rộng dinh điền v.v...

Để chút thì giờ bàn lại Nhân Vị, hay tìm hiểu Nhân Vị, thiết tưởng cũng không phải chúng ta làm một việc vô ích.

Vậy chúng ta thử xem Nhân Vị là gì?

II.- ĐỊNH NGHĨA

A.- CĂN CỨ THEO NGUYÊN NGỮ

1.- Theo tiếng Hy lạp; La Mã và Pháp

(Prosopon; Persona, Personne Humaine).

Vào thời xưa, tiếng Prosopon (Hy Lạp) và tiếng Persona (La Mã) chỉ cái mặt nạ có kèm ống loa để kịch sĩ mang trong lúc trình diễn nơi các công trường rộng lớn (vì chưa phát minh điện và máy vi âm).

Do đó có tiếng Personne của Pháp ngữ, dùng để chỉ một nhân vật, và vai trò của nhân vật trên sân khấu. Tiếng ấy xuất hiện từ trong kịch nghệ đã trở thành thông dụng trong dân gian.

Nhưng khi phân biệt nhân vật nầy với nhân vật khác người ta không để ý nhiều đến nét mặt và tính cách bề ngoài, ngôn ngữ hành vi, mà người ta chú trọng đến các bản nguyên tinh thần nằm sẵn trong mình làm động cơ cho ngôn ngữ và hành vi của nhân vật ấy. Vì thế chữ personne, từ nghĩa nhân vật chuyển sang nghĩa người, một giống có lý tính có tự do có năng lực quyết định và thi hành. Ngày nay các nhà triết học dùng chữ personne để chỉ những gì thông minh, tự do; những động lực tinh thần, những nguyên nhân có ý thức và trách nhiệm về hành vi của mình. Theo đó thì súc vật, cây cối, đất đá không phải gọi là personne để chỉ những gì thông minh, tự do; những động lực tinh thần, những nguyên nhân có ý thức và trách nhiệm về hành vi của mình. Theo đó thì súc vật, cây cối, đất đá không phải gọi là personne. Truy nguyên thì trên người còn có những peronne khác nữa, như personne pine là Thượng Đế (acte pur), người gọi là personne humaine (có xác và hồn). Chữ Nhân Vị dịch chữ personne humaine, để chỉ con người có giá trị cao quý và đức tánh thiêng liêng lại còn liên hệ tới những người khác sống cung trong xã hội.

2.- Theo Hán-Việt (人位)

Nhân (人) là người, viết theo lối hội ý, bằng hai nét giụm đầu lại, ngụ ý rằng con người là một giống thiêng liêng biết đoàn tụ, nương tựa nhau sống thành xã hội (Triết gia cổ điển Aristote cũng như nà xã hội học Durkheim đều công nhận như thế).

Vị (位) là ngôi, chữ Hán có hai phần, bên trái là chữ (人) nhân (người) và bên phải là chữ lập (立) đứng, dựng lên, lập thành. Đọc theo cách viết là người đứng (nhân lập) (人立) ý nói chỗ người đứng gọi là Vị. Đọc theo cách đọc Hán Văn, từ phải trái thì ta thấy lập nhân (立人) nghĩa là dựng thành con người, về phương diện tinh thần, đạo đức, ý nói cái gì tạo thành giá trị cao quý của con người, gọi là Vị.

Kết hợp lại, Nhân Vị, là ngôi thứ, thứ bực của con người trong vũ trụ và là cái gì tạo ra phẩm giá cao quý của con người để đứng ở các ngôi vị ấy.

B.- THEO TRIẾT HỌC

1.- Séverin Boèce (trước đây 17 thế kỷ).

‘’Nhân Vị là bản chất cá thể, biết suy luận’’.

- Bản chất cá thể: Sự hữu tự mình (se tient par soi même) sống riêng biệt.

- Biết suy luận: Có tư tưởng, tự do và trí năng (biết về mình và ngoại vật, xét đoán, đánh giá lực chọn và quyết định).

2.- Tiến Sĩ Thomas

‘’Nhân Vị là một thực tại riêng biết, trong một bản tính lý trí’’.

3.- Triết Gia Rosmini

‘’Nhân Vị là một chủ thể (sujet) hữu lý tính, chứa đựng trong mình một nguyên động lực tối cao, không thể thông báo được (trí tuệ, ý chí là nguồn gốc của tự do, và không ai thay thế được).

4.- Jacques Maritain. (Pháp, hiện kim).

Nhân Vị là một thực thể có cá tính đầy đủ, có bản tính lý trí độc lập (không chìm trong không gian cũng không lệ thuộc thời gian) và làm chủ mọi hành vi của mình (tự chủ, để hy sinh cho kẻ mình yêu).

5.- Giáo Sư Bửu Dưỡng (Việt Nam, hiện kim).

‘’Nhân Vị là ngôi thứ và thứ bậc của người ta’’.

Đã bảo là người, tất phải đủ những điều kiện, tính cách để thành con người; nghĩa là phải có thân thể, có linh hồn, có phần vật chất và phần linh tính. Mỗi phần phải hoàn toàn đầy đủ, thiếu một phần hoặc thiếu một thiết yếu thì không phải là người. Mà không phải là người tất không có Nhân Vị.

Đã là thứ vị, ngôi thứ, thứ bậc, tất có tương quan đối với người khác, đối với không gian, thời gian, nghĩa là đối với trên dưới, người này kẻ khác, chung quanh, xa gần. Nhưng dù có tương đối thế nào, bao giờ chính mình cũng phải hoàn toàn đầy đủ con người, mới có Nhân Vị.

Vậy chữ Nhân Vị chỉ:

a.- Tính cách địa vị của mỗi người theo bản tính nhơn loại hồn và xác bất phân, và có bản tính lý trí. Đã làm người thì có Nhân Vị: Ai cũng có nhân vị (theo thể tĩnh).

b.- Chính mỗi người, tự nơi mình hay đối với kẻ khác, vẫn hoàn toàn một người, chứ không giảm thiếu, một phần nào, hoặc không tổn hại một điều gì (theo thể động, trong lúc hoạt động).

6.- Linh Mục Trần Hữu Thanh (trong quyển Cách Mạng Nhân Vị).

Hai chữ Nhân Vị bao hàm 3 ý nghĩa:

Một là giá trị cao quý của con người.

Hai là chỉ quyền lợi con người phải được kẻ khác tôn trọng.

Ba là chỉ nhiệm vụ con người phải biết tôn trọng quyền lợi kẻ khác.

7.- Tiến Sĩ J.B. Trần Mục Đích (Giảng Sư Trung Tâm Huấn Luyện Nhân Vị Vĩnh Long).

Nhân Vị là một phối hợp chu toàn với nhau, hai bản thể (xác và hồn) trong một bản tính là hữu lý tính, bất chia lìa và cũng bất thông đồng với kẻ khác.

Personne est une substance comlète dans la nature rationnelle de son propre droit (mỗi hành động đều thành bản ngã là tôi) et incommunicable aux autres (không thay thế được).

III.- ĐẶC TÍNH CỦA NHÂN VỊ

1.- Trí Tuệ (suy luận)

Đặc tính làm cho Nhân Vị vượt trội trên vạn vật là sự biết suy luận. Nhân Vị có ý thức về chính mình, về những vật chung quanh mình và đánh giá tốt xấu, lành dữ, thật hư (do sự phán đoán, và nếu không có lý trí con người thì vạn vật đều vô giá trị). Nhân Vị lại biết nhược điểm của thể xác cũng như của tâm hồn mình, biết được giá trị cao quý của mình trong vũ trụ, nhận được sứ mệnh cao cả và bất diệt của mình trên trần gian.

Chính sự ‘’biết mình biết ta’’ ấy làm cho con người chiếm địa vị độc tôn trên các thụ sinh (créature) khác và được gọi là ‘’linh ư vạn vật’’.

2.- Xã Hội (liên hệ với sự hữu và cộng đồng).

Nói đến Nhân Vị là nói đến sự sống chung đụng của những nhân vị nầy và nhân vị khác (sống là sống với, và từ lúc nào cũng không có một con người nào sống một mình được).

Một người trầm tư hay mơ mộng chưa chắc họ sống trong cô độc mà không nghĩ đến những người thân, kẻ thù, hay cái xã hội mà họ vừa sống qua.

Một tu sĩ ẩn dật, khổ hạnh hay hy sinh, chắc đâu họ đã trốn đời?

Đấng Cứu Thế (Christ) đã chịu đóng đinh trên thập giá nào phải để đền tội cho mình, mà để chuộc tội cho nhân loại.

Thái Tử Sĩ Đạt Ta, nếu khổ hạnh dưới gốc bồ đề để tự giải thoát riêng mình chàng, thì mấy ngàn năm nay, nhân loại khổ đau, đâu có chiêm ngưỡng Đức Phật Thích Ca?

Những bậc ẩn dật nầy nghĩ đến Nhân Vị khác nhiều hơn mình, mặc dầu có vẻ tránh cuộc đời nhôn nhịp của thế nhân.

Đấy, nhất định Nhân Vị không sống cô độc, mặc dầu có những người sống trong cảnh cô đơn Nhân Vị là tương giao. Nhân vị là mở lòng chào đón. Trái lại cá nhân tuy sống giữa chốn đông người mà họ vẫn cô độc, vì họ chỉ biết đến mình và nghĩ cho riêng mình.

a.- Đối với tạo vật:

Trên đường tiến đạt đến mục đích ‘’phục vụ nhân vị’’ thì nhân vị có toàn quyền sử dụng tạo vật vô linh, (động vật hạ đẳng không linh hồn, hay thảo mộc, hoặc vật chất khác) như phương tiện. Sự vật vô linh ấy sở dĩ có, là để phụng sự cho nhân vị, để cho nhân vị được phát triển (chẳng khác nào côn trùng sinh để nuôi chim, vật sinh để nuôi người).

Những vật liệu và phương diện sẵn có ấy, Nhân Vị không có quyền dùng nó để hành động phản lại nhân vị mình hay nhân vị người khác, vì như thế ta sẽ xúc phạm đến giá trị của những phương tiện mà Tạo Hóa biệt ban cho con người để hoàn thành sứ mạng nhân vị trên trần gian.

b.- Đối với những nhân vị như mình.

Nhân vị của mình cũng như nhân vị của người khác phải được triệt để tôn trọng.

Nhân vị có những quyền lợi bất di bất dịch và bất khả xâm phạm. Bởi lẽ ấy, nhân vị có nhiệm vụ phải tôn trọng nhân vị mình và nhân vị kẻ khác, không phân biệt đẳng cấp và địa vị.

Phận sự ấy càng rõ, càng được thực hiện, thì ta càng ‘’sống nhân vị’’ và nhân vị ta càng ngày càng nẩy nở và tốt đẹp hơn.

3.- Luân Lý (nhân vị có tự do)

Tuy có hai luồn dư luận cực đoan: Một thì cho con người không có tự do, vì mỗi hành động đều có lý do nầy hay lý do khác thúc đẩy; một thì bảo con người hoàn toàn tự do, muốn làm gì thì làm. Không gì hạn chế được.

Nhưng, để phủ nhận hai luồn dư luận ấy ta có thể nói ngay rằng: Nhân vị chính tự do, và phải có tự do để thực hiện luân lý, nhưng tự do đến một giới hạn. Dù rằng có những phận sự duy trì liên hệ mật thiết và tốt đẹp đối với các nhân vị khác chung quanh mình, nhưng không vì đó mà nhân vị mất tự do.

Nhờ có tự do con người mới có phận sự (thiếu tự do thì không có phận sự mà cũng không trách nhiệm). Trái lại, con vật không có tự do nên nó không hành động theo phận sự (và cũng không trách nhiệm) nó hành động theo sự thúc đẩy của bản năng thú tánh (instinet).

Vì có tự do nên trước một phận sự hay một sứ mệnh, Nhân Vị có thể thi hành hay từ chối (nhưng phải chịu trách nhiệm về vật chất hay tinh thần). Nhờ có tự do nhân vị thi hành phận sự, hay chu toàn sứ mạng cao cả của mình. Nhân vị được tự do chọn lựa phương tiện nào mình cho là tốt đẹp nhứt (miễn là đừng phản lại nhân vị).

Câu trả lời dưới đây của Đấng Cứu Thế cho một thanh niên đến hỏi Người, cách cứu rỗi linh hồn, là dấu con người có tự do trong bổn phận: ‘’Nếu ngươi muốn, đấng Christ kết luận, thì ngươi hãy về bán tất cả đồ đạc rồi đem tiền bố thí cho kẻ nghèo. Đoạn ngươi hãy đến và theo ta’’. ‘’Nếu ngươi muốn’’ là dấu có tự do, trong việc thi hành điều thiện hay không, nhưng phải chịu trách nhiệm về việc ấy.

Bởi có tự do, nên nhân vị mới chịu trách nhiệm về mọi hành vi, ngôn từ, cử chỉ và tư tưởng của mình. Chính có tự do nên Nhân Vị mới thể hiện được luân lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với lương tâm với xã hội và với Thượng Đế.

Ngoài thực tế thì tự do của nhân vị kéo dài đến giới hạn đừng chạm tự do Nhân Vị khác, và đừng chạm đến Tuần Phong Mỹ Tục.

4.- Tình Cảm (tình yêu)

Trong khu vực tình cảm của Nhân Vị, tình yêu là hệ trọng nhứt, nên có thể nói Nhân Vị chính tình yêu. Tình yêu chỉ dành riêng cho Nhân Vị, chớ con vật không có tình yêu mà chỉ có sự ưa thích. Nếu có một vài hiện tượng tình cảm của thú mẹ đối với thú con, đó chỉ là một hiện tượng bản năng biểu lộ trong một thời hạn nào đó thôi.

Chẳng những yêu người vì chính hạnh phúc của người ấy, mà nhân vị còn biết yêu cái thẩm mỹ (cái đẹp), yêu nghệ thuật và văn chương. Những điều nầy con vật không thể làm nổi vì con vật không có tình yêu hay tình cảm.

Tình yêu cao quý và đúng mức (hy sinh) chỉ có ở Nhân Vị mà không có ở cá nhân, vì cá nhân có tánh ích kỷ chớ không có tình yêu (chỉ vì mình). Tình yêu của Nhân Vị có tính cách cộng đồng (rộng rãi và tác dụng đến nhiều nhân vị khác) ước muốn cộng tác với nhiều người. Nhân vị nhìn xa, nhìn rộng, nhìn về ích chung (chân ích). Đối với cá nhân thì ngược lại. Tình yêu thúc đẩy nhân vị dựa trên kinh nghiệm quá khứ, nỗ lực trong hiện tại để tìm hạnh phúc cho người mình yêu. tình yêu làm cho Nhân Vị phát triển và tiến đến tương lai đẹp đẽ huy hoàng. (xin xem bài tình yêu ở phần phụ chương).

Giả sử, ánh sáng tình yêu tắt hẳn trong lòng người, thì cuộc đời của Nhân Vị chỉ còn là một đen tối, yên lặng.

Bởi đó, có thể nói được là, tình yêu chẳng những là một đặc tính của nhân vị, mà lại còn là lẽ sống thiết yếu của loài người nữa.

IV.- DỊ ĐỒNG GIỮA NHÂN VỊ VỚI BẢN NGÃ, CÁ NHÂN, NHÂN VẬT, NHÂN PHẨM, NHÂN CÁCH.

A.- ĐỒNG:

Bản ngã, cá nhân, nhân vật, nhân phẩm, nhân cách và nhân vị có những điểm giống nhau, nhưng cũng có nhiều chỗ khác nhau rõ rệt.

Nhân Vị, chú trọng đến linh tính cao quý, lưu ý đến mỗi tương liên với các cá nhân khác trong tương trợ và tôn trọng lẫn nhau. Nhân Vị chú trọng ở nội tâm, không tùy thuộc ngoại giới (hoàn cảnh), không xu thời, không tự hạ, giữ chân giá trị, giữ quyền tự chủ, tự do, thống nhứt (hành động đúng theo tư tưởng thanh cao) và độc lập của mình.

Nhân Vị tựa trên căn bản siêu hình thiêng liêng, mà thực hiện luân lý, xã hội, đối với nhân vị khác, mọi hành động chỉ vì ‘’con người’’ chớ không vì đẳng cấp địa vị của người; chú trọng đặc biệt đến ý nghĩa ‘’Vị’’ là ngôi, bực của mình, là sự tương liên đối với kẻ khác.

Bản ngã, chỉ con người trên khía cạnh riêng biệt tùy mỗi phạm vi mà con người có nhiều bản ngã, ví như bản ngã vật lý (chỉ hình hài) bản ngã tâm lý (chỉ tư tưởng, tính tình) bản ngã luân lý (chỉ bổn phận, quyền lợi) bản ngã xã hội (chỉ những việc làm đối với kẻ khác). Bản ngã có thể xung đột nhau mà hại nhân vị (bản ngã luân lý có thể xung đột với bản ngã xã hội).

Cá nhân, chỉ riêng từng người một, riêng biệt theo cá tính nhân loại, không chú trọng đến linh tính, chỉ biết đến phần vật chất, chiếm một chỗ trong một nhóm một đoàn (riêng biệt mà không phân biệt được).

Cá nhân, vì số mà không vì ‘’người’’, chủ trương riêng biệt, một đơn vị đóng cửa không cần biết ai.

Cá nhân chỉ biết hiện tại, mục đích của mình là nơi mình, càng chiếm đoạt của kẻ khác, càng thu về cho mình thì càng thêm phần cho cá nhân. Cá nhân không hợp tác mà chia rẽ và dễ bị tiêu tan và thâu hút trong đoàn, khối.

Cá nhân, là ‘’người’’ nhìn ở bên ngoài, trong đơn vị động vật (chỉ có bản năng, và hiện tượng sinh lý như các con vật).

Có thể nói cá nhân là cái cạnh vật chất của con người có thể chia tan vì nó là một hợp thể (composition).

Tóm lại, cá nhân ích kỷ, vô luân, chỉ biết bóc lột và hưởng thụ để rồi sẽ nổ tung ra như cái xác pháo của Nguyễn Hữu Chỉnh. Duy vật và vô thần là những đặc điểm của cá nhân về sinh hoạt đạo đức.

Nhân vật, là phẩm giá tạm thời do ngoại giới đem lại, nên có khi sai lạc. Bởi vì, có khi khéo lòn cúi, xu thời, dua nịnh, tự khí, tự hạ mà thành nhân vật. Giá trị nhân vật ấy có tánh cách thấp hèn và tạm bợ.

Trái lại một khi sống đầy đủ nhân vị mà thành nhân vật thì chân giá trị ấy vĩnh cửu, ta có thể nêu ra cái lý nầy của Giáo Sư Bửu Dưỡng, để hiểu rõ nhân vật hơn: ‘’Càng tìm nhân vật thì mà càng sống nhân vị thì càng thành nhân vật’’.

Nhân phẩm, trên phạm vi luân lý xã hội, chỉ một phần nào giá trị sẵn có của ‘’người’’, của kẻ có ít nhiều địa vị, mà không chú trọng đến giá trị có thể có của ‘’con người’’ không phân đẳng cấp địa vị, trong sự tương liên giữa những ‘’con người’’ (đây chú trọng đến phẩm chứ không nghĩ đến vị).

Nhân cách, chỉ cái ngoại trang xã giao của ‘’người’’ có thể thâu thập được để cho đúng với đẳng cấp địa vị mình, mà không nghĩ đến ý nghĩa cao cả của sự liên lạc giữa loài người.

Vậy có thể nói, nhân vị bao hàm hết tất cả, cái gì cao quý và thiêng liêng để cho con người sống đời nhân vị, có đủ yếu tố của ‘’con người’’ không ‘’ích kỷ cá nhân’’.

Ta có thể đặt những yếu tố tâm lý, luân lý và xã hội, của con người vào những hình ảnh sau đây:

1.- Hình người: Nếu ta lấy một hình người mà cụ thể hóa những hiện tượng nội ngoại của con người trên mọi khía cạnh, thì ta có thể thấy như thế nầy.

- Nhân vị, như một người đứng thẳng giữa xã hội, hai tay đưa ra sẵn sàng đón tiếp sự tương quan, tương đối với mọi người, hai mắt nhìn người trìu mến, với nụ cười thông cảm, vì coi người khác đều là nhân vị như chính mình.

- Bản ngã, thì hai tay thu vào để góp lại và chiếm giữ cho riêng mình (tánh cách tiêu cực).

- Cá nhân, thì nhắm mắt lại, chỉ nghĩ đến mình, chỉ biết mình và thâu góp hết về mình mà thôi (tích cực duy ngã).

- Nhân vật, đứng dậy nhìn chung quanh mình xem ai tôn trọng mình hay bình luận về mình thế nào.

- Nhân phẩm, cũng như nhân cách, tự mình nghĩ cho mình xem có xứng đáng không? Có gì đáng trách cho cái địa vị mình không? Cố giữ sao cho người tin là mình xứng đáng với địa vị ‘’người’’ của mình mà không nghĩ làm sao cho xứng đáng Ngôi Vị ‘’con người’’.

2.- Đôi mắt nhìn: Nếu ta lấy cặp mắt, để cho con người phát lộ, mọi khía cạnh của hắn, thì ta sẽ thấy như sau:

- Nhân vị, nhìn người khác một cách trìu mến và liên quan.

- Bản ngã, nhìn chung quanh mình và coi như thuộc của mình.

- Nhân vật từ trên cao nhìn rộng ra ngoài xem người ta đối với mình như thế nào và khen chê làm sao?

- Nhân phẩm và nhân cách, nhìn ở đâu đâu và tự hỏi mình có được gì chưa? Và có đủ chưa để mà bồi bổ.

V.- GIÁ TRỊ YẾU TỐ CẤU TẠO NHÂN VỊ

1.- Thể xác: Có giá trị của một dụng cụ cần thiết cho hồn biểu hiệu tài năng của mình. Vì là vật chất, nên thuộc phạm vi nhiên luật (hóa cỏ, sinh lý).

2.- Linh hồn: Có giá trị thiêng liêng từ nguồn gốc tạo hóa, và giá trị một nguyên động lực do khả năng huyền diệu qua thể xác bằng tâm tư: hiểu, nghĩ và phán đoán (linh ư vạn vật).

VI.- CỨU CÁNH VÀ PHƯƠNG TIỆN CỦA NHÂN VỊ

1.- Cứu cánh: Cứu cánh cùng tột của nhân vị là đặt đến nguồn gốc của mình là chỗ ‘’Toàn’’ Chân Thiện Mỹ bằng cách phục vụ thường hằng cho cứu cánh phụ là con người.

2.- Phương tiện duy nhất: Nhân vị chỉ có thể đạt đến cứu cánh cùng tột của mình, trong khung cảnh xã hội, trong cộng đồng mà thôi.

Nếu sống lẻ loi đơn độc, thì phục vụ cho ai để đạt được Chân Thiện Mỹ?

VII.- KẾT LUẬN

Xuyên qua những định nghĩa Đông Tây Kim Cổ, về Nhân Vị, ta có thể hiểu Nhân Vị là con người với giá trị ‘’linh ư vạn vật’’ của chàng.

Khi nói đến Nhân Vị là người ta muốn nhấn mạnh vào khả năng tinh thần của con người biết suy tưởng, có tự do, có luân lý, có tình cảm, có cứu cánh tốt đẹp và thiêng liêng.

Nhân Vị có sứ mạng đối với mình cũng như đối với những vật chung quanh mình.

Cứu cánh của Nhân Vị là nhắm vào phát triển nhân vị mình, đồng thời giúp đỡ các nhân vị khác phát triển để cùng nhau đạt đến cứu cánh tột cùng là Chân Thiện Mỹ (hạnh phúc hoàn toàn).

Nhận thức được giá trị Nhân Vị và cứu cánh thiêng liêng của nó, thì phải nghĩ đến việc thực hiện cứu cánh ấy bằng tình bác ái và trong khung cảnh cộng đồng, nghĩa là thực hiện công bằng xã hội trong sự tôn trọng phẩm giá con người, không phân biết đẳng cấp và địa vị.

Nhìn nhận giá trị và cứu cánh Nhân Vị, chính là học thuyết Duy Linh, lý thuyết căn bản cho Nhân Vị chủ nghĩa, một chủ nghĩa đang làm nồng cốt cho cuộc cách mạng toàn diện của dân tộc Việt Nam do Ngô Tổng Thống lãnh đạo hiện giờ.