← Quay lại trang sách

NGUỒN GỐC NHÂN VỊ

I.- MỞ ĐẦU

Dù duy tâm hay duy vật, ai ai cũng phải nhìn nhận rằng Nhân Vị (con người) có mặt trên trần gian, từ hơn mấy chục ngàn năm nay, và hiện đang ở trên khắp địa cầu. Đã có con người và vũ trụ, thì phải có nguồn gốc nào sáng tạo ra vũ trụ và con người.

Vậy khi tìm ra nguồn gốc vũ trụ thì đây cũng là nguồn gốc con người, hay là nguồn gốc nhân vị.

Về nguồn gốc vũ trụ và con người, cũng có nhiều thuyết giải thích khác nhau, nhưng tựu trung cũng nằm trong hai thuyết: Vô thần và hữu thần.

Thuyết vô thần có hai hình thức: Tiêu cực và tích cực. Tiêu cực là không có một ý thức nào về một ‘’vị chúa tể’’ làm chủ vũ trụ và loài người. Tích cực là dụng tâm chối bỏ hẳn ‘’vị chúa tể nhân loại’’, để dễ bề hành động phi luân, phi nghĩa.

Đối với hạng người không có ý thức gì về nguồn gốc của mình, nếu đem vấn đề ra hỏi, thì họ sẽ dựa vào đâu mà trả lời?

Còn đối với hạng dụng tâm, thì không cần phải nói đến, bởi vì, dù ta có chứng minh hữu lý đến đâu, họ cũng cố tâm ngụy biện chối bỏ sự thật.

Thuyết hữu thần cũng có hai hình thức: Một là suy luận học hỏi để tìm mà nhận rằng, trên thế giới, nhân loại phải có ai sáng tạo và điều khiển. Hai là biết một cách mập mờ về việc ấy, rồi sống theo lương tri, làm lành lãnh dữ, vì sợ ‘’Thiện ác đáo đầu chung hữu báo’’.

Vậy xin mạo muội, đem hết thiện chí, để cùng chư vị, thành khẩn siết tay nhau lên đường tìm Nguồn Gốc, để mà tôn thờ và kính mến.

Theo cuộc khảo sát ở bài ‘’Nhân Vị Là Gì?’’, thì ta đã xác nhận rằng Nhân Vị không chỉ có xác hay hồn, mà là Hồn, Xác phối hợp chặt chẽ trong một bản tính là hữu lý tính. Nếu ở đây bảo rằng, nhân vị là do vật chất vô tri biến ra, chắc quý vị sẽ không bằng lòng. Nhược bằng nói ngang như Darwin rằng, nguồn gốc của Nhân Vị là loài khỉ, thì quý vị sẽ còn phẫn nộ hơn.

Vậy chúng ta lần dò theo quan niệm của các dân tộc, lập trường các tôn giáo, phát minh của khoa học, quan điểm triết học và vài điểm khác nữa để tìm ra nguồn gốc vũ trụ và con người.

II.- QUAN NIỆM CÁC DÂN TỘC TRÊN THẾ GIỚI

Ngược dòng lịch sự nhân loại, các nhà nhân chủng học và xã hội học, đã xác nhận rằng các dân tộc trên thế giới đã có một tâm tình tín ngưỡng chung. Đó là sự tin tưởng ở một đấng tối cao vô hình, đã khai sinh ra vũ trụ vạn vật, và có liên lạc mật thiết với đời sống con người.

- Dân tộc Aryen (Giống người Hồi ngày nay) từ xứ Ba Tư du nhập vào đất Ấn thời Vệ-đà, sau khi tôn thờ các vị thần: Mặt Trời (Mitra) mặt trăng (Varouna), lửa (Agni), và vật tổ (Indra), đặt hết sự tin kính vào một vị Thượng Đế Sáng Tạo là:

‘’........................................vị thần duy nhất.

Và độc lực, kỳ thủy, đã tạo ra tất cả các vật.

.....................vị chúa tể độc nhất của tạo vật.

Là Prajapati,.................................................’’

(Thánh Kinh Rig, Veda. trang 121 và 172).

Họ rất tôn sùng, kính mến và cố tìm hiểu đấng Thượng Đế sáng tạo.

‘’Ngài là đức Cha, đức sáng tạo,

Định mệnh thiêng liêng đối với tất cả chúng ta.

Ngài biết tất cả vũ trụ,

Ngài là duy nhứt,

Chính Ngài mà tất cả nhân dân trên mặt đất cố sức muốn biết’’

(Rig Veda trang 82-83).

Như thế, từ 2 ngàn năm trước Chúa Giáng Sinh, dân Aryen đã có một quan niệm về Đấng Sáng Tạo của vũ trụ và loài người rồi.

- Dân tộc Nhựt Bản, nhìn nhận mặt trời là hình tượng của Thượng Đế, mà chính họ là con riêng yêu dấu của Người. Lịch sử Nhựt đã cho rằng dân tộc Phù Tang là con của ‘’Thái Dương Thần Nữ’’ và cũng do đó mà họ lấy tên ‘’Nhựt Bổn’’ (gốc ở mặt trời) và lấy hình mặt trời làm quốc kỳ của họ.

Họ cho Thượng Đế là đấng ban phúc cho người lành và làm tội kẻ hung.

- Dân Trung Hoa, từ đời Nghiêu-Thuấn đã tin rằng Thượng Đế hay Thiên, khai sáng ra vũ trụ và một niềm thờ kính đấng thiêng liêng ấy.

Theo họ, chính đấng Thượng Đế hay Thiên, là người toàn quyền ban phúc (Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn-Trời không phụ người có lòng tốt), và làm tội kẻ gian. (Thiên bất dung gian-Trời không tha kẻ không ngay thật).

Khi nối nghiệp Vua Nghiêm, Vua Thuấn đã lập đàn tế Thượng Đế. Khi nhượng ngôi cho Vua Vũ, Vua Thuấn cũng có trối rằng ‘’Lịnh Trời đã chọn ông, ông phải chuẩn bị lên ngôi’’.

Họ lại còn quan niệm xa hơn nữa, là hồi chưa biết các dân tộc khác, cho rằng đất đai của họ là Thiên Quốc (nước của trời cho) và họ là Thiên Tử (con trời).

Tóm lại, dân Trung Hoa cũng tin rằng Thượng Đế là người sáng tạo và điều khiển vũ trụ muôn loài.

- Dân Polynésien và Malanésien (thuộc Quần Đảo Polynésie) tin tưởng và tôn thờ Jo (nghĩa là Tạo Hóa) như một vị chúa tể đã khai sanh ra trời đất, là cha chung muôn loài, bao trùm khắp thời gian không gian. Ngài không ngự trị một nơi nào, mà nơi nào cũng có Ngài. Ngài không bị một sự vật nào cản trở và hạn chế cả.

- Dân Dayaks ở Quần Đảo Bornéo. tôn thờ Batara, như vị chúa tể vũ trụ và là nguồn hạnh phúc của loài người.

- Dân ở Quần Đảo Andamen, cũng tin tưởng ở một đấng tối cao, không sinh không tử, đã khai sáng ra vũ trụ vân vật.

- Dân xứ Tân Galles, và xứ Victoria (thuộc Úc Châu) tin thờ Thượng Đế và Ngài là cha nhân loại.

- Các dân tộc Trung Đông, tin ở một đấng tối cao, tùy theo ngôn ngữ mà mang nhiều danh hiệu EI, II, hoặc Ihe, vô cùng thông minh và trọn quyền ban phúc tác họa cho loài người.

- Dân Ai Cập tôn thờ Nouter trên cả các vị thần khác.

- Dân Hy Lạp thờ thần Zeus là đấng tối cao.

- Dân Bắc Miến Điện thuộc dòng Karen, thờ Hodés là vị có quyền phân định tương lai mỗi người và thưởng phạt công minh.

- Dân tộc Việt Nam, đã sùng bái Trời là vị cầm quyền sanh tử, thưởng phạt loài người. Những lúc bối rối miệng họ luôn luôn kêu Trời cầu cứu.

‘’Trời nào phụ kẻ có nhơn,

Ở cho có Đức muôn phần vinh quang.

Thiên cao đã có thánh tri,

Người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ

Trời sinh, trời đã dành phần,

Tu hãy cho hiền dạ có nhân.

(Trạng Trình).

Qua quan niệm của các dân tộc từ xưa, về Thượng Đế là nguồn gốc của vũ trụ muôn loài, thì ta phải nhận rằng, trước khi trí khôn con người tìm hiểu hiện tượng vũ trụ, thì con người đã tin tưởng đến nguồn gốc của mình để mà tôn thờ và kính mến rồi.

Đức tin ấy là tâm tình tín ngưỡng chung của nhân loại, nó phải chắc chắn, và phải có sự thật để họ tin.

III.- QUAN NIỆM CÁC TÔN GIÁO CĂN BẢN NHỨT TRÊN THẾ GIỚI

Như trước, ở mục con người, chúng ta đã chứng minh rằng hầu hết nhân loại đã biểu dương tâm tình tôn giáo sâu sắc và mạnh mẽ nhứt.

Vậy chúng ta hãy nhìn qua lập trường các tôn giáo, xem họ quan niệm nguồn gốc vũ trụ và con người như thế nào.

1.- Khổng Giáo

Trong kinh sách của Khổng Học, ta nhận thấy sự có mặt của chữ Thượng Đế, và chữ Thiên. Theo kinh sách, thì Thượng Đế hay Thiên, chỉ đấng tối cáo có quyền lực đối với loài người, đáng tôn thờ và kính mến, và Ngài sáng tạo (Thiên sanh nhơn-Trời sanh người), che chở (Hà nhơn vô lộc-Người không có gì nuôi thân sao), xem xét tận tường (Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu-Lưới trời tuy mênh mông thưa thớt mà chẳng lọt), và thưởng phạt công minh (Thiên ác đáo đầu chung hữu báo-Lành dữ sau rốt sẽ có trả).

2.- Lão Giáo:

Mặc dầu chủ trương một cách cao xa huyền bí hơn Khổng Giáo, nhưng Lão Giáo cũng nhận rằng Đạo là nguồn gốc vũ trụ và nhân loại, Đạo rất huyền bí, tự sinh, tự tồn, tràn lan trong không trung và ở lòng người. Trí khôn loài người không hiểu được Đạo, ngôn ngữ loài người không nói được Đạo.

Đạo khả đại phi thường đạo-Đạo mà hiểu được, nói được thì không phải là Đạo.

(Lão Tử).

Đến đời Tống có Liệt Tử, quan niệm Đạo rõ rệt hơn Lão-Trang (Lão Tử và Trang Tử). Ông bảo: ‘’Người (Tạo Hóa) đã sinh ra vạn vật thì không chịu ai sinh ra cả, đã biến hóa được vạn vật thì không thể nào lại biến hóa’’ (Sinh vật giả, bất sinh; hóa vật giả, bất hóa).

3.- Ấn Giáo (Bà-la-môn).

Đạo Bà-la-môn của người Ấn đã nhận một vị chúa tể là Brahman sáng tạo ra vũ trụ và con người. Theo giáo lý đạo nầy thì Brahman (Đại Ngã) là nguồn gốc của vũ trụ và con người. Con người là Atman (Tiểu Ngã) có chứa phần của Brahman, nên khi được giải thoát, thì lại trở về gốc là Brahman.

4.- Phật Giáo (700 triệu tín đồ).

Theo Phật Giáo nguyên thủy, thì Đức Phật không bàn đến nguồn gốc vũ trụ. Ngài cho rằng vũ trụ biến chuyển, có có không không, mà hồn vũ trụ là Brahman (Phạm Thiên) cũng phải bị lôi cuốn trong vòng biến chuyển ấy.

Tư tưởng nầy của Đức Thích Ca, được phái Tiểu Thừa nhứt luận tuân theo.

Nhưng vì thấy quan niệm này quá hẹp hòi, và phản tiến hóa, nên đại sĩ Ashvagosha mới làm cách mạng lập ra phái Đại Thừa.

Ảnh hưởng Đại Thừa Phật Giáo làn tràn ở Bắc Ấn, đến Nhựt Bản, Miến Điện, Thái Lan, Trung Hoa và Việt Nam.

Đại Thừa Phật Giáo cho rằng có một Đấng Chí Tôn khai sinh và giữ gìn vạn vật. Đấng nầy, nhân loại không thể dò la tìm hiểu được. Đấng Chí Tôn là Phật tuyệt đối, hiện tình làm nhiều vị phật khác nhau trong đó có Đức Thích Ca Mâu Ni.

Tựu trung, Phật Giáo từ ngàn xưa cũng nhìn nhận thế giới có chủ, và nguồn gốc vũ trụ con người cũng do một đấng Chí Tôn.

5.- Hồi Giáo: (350 triệu tín đồ)

Một tôn giáo của hầu hết Khối Ả-rập, do Mahomet, chịu lịnh của Allah (Thượng Đế) mà sáng lập ra. (6 thế kỷ sau Thiên Chúa Giáng Sinh).

Hồi Giáo tin có một Thượng Đế khai sinh ra vũ trụ và thưởng phạt công minh. Trong ngôn ngữ Ả-rập. Có danh từ Moslin có nghĩa là tín đồ của Thượng Đế, và tuân phục thánh ý Ngài.

6.- Thiên Chúa Giáo (trên một tỷ tín đồ).

Đây là một tôn giáo đông tín đồ nhất hoàn cầu. Tất cả giáo lý tín điều của Thiên Chúa đều nằm trong 2 bộ Thánh Kinh: Tân Ước và Cựu Ước.

Tuy có nhiều giáo phái như Công Giáo (Catholicisme), Tin Lành (Protestantisme) và Chính Thống (Orthdoxe ở Nga và Trung Đông trước cách mạng cộng sản) có chi tiết, lệ tục và tổ chức khác nhau, nhưng tựu trung cũng tin ở một vị Thượng Đế gọi là Thiên Chúa, đã sáng tạo và điều khiển vũ trụ loài người.

Xuyên qua tín ngưỡng các dân tộc và các giáo lý tín điều căn bản của các tôn giáo to nhất thế giới, thì chúng ta có thể đúc kết vấn đề rằng:

Mỗi dân tộc, mỗi tôn giáo đều có đường lối riêng, để phát lộ tâm tình tín ngưỡng và tôn giáo của mình, nhưng tất cả đều đi đến chỗ xác nhận có một Đấng Thượng Đế khai sinh và điều khiển vũ trụ loài người.

Nếu là con người hữu lý tính, ai dám bảo điều này là mơ hồ, là vô lý. Hơn nữa, trên đường tiến hóa của nhân loại, bao nhiêu dị đoan mê tín đều rớt hết, chỉ có ý niệm về Thượng Đế là còn tồn tại đến ngày nay.

IV.- QUAN ĐIỂM KHOA HỌC

Dựa vào sức động của vũ trụ và sự biến chuyển của vạn vật mà khoa học đã tìm ra, chúng ta thử tìm nguồn gốc vũ trụ.

Khoa học đã khám phá rằng vũ trụ bắt đầu chuyển động cách đây, từ 1 đến 10 tỷ năm, nghĩa là vũ trụ có trước (từ khoảng 10 tỷ năm trở về trước), và bất động. Vậy vũ trụ có tự tạo và tự động được không? Nếu tự tạo tại sao không tự động ngay từ khi mới có, mà mãi đến cách 10 tỷ năm về đây mới động? Qua lời tuyên bố của Nhà Bác Học Whittker, khoa học không làm sao biết được.

Khoa học cũng đã khám phá rằng, vạn vật biến chuyển không ngừng theo một định hướng. Chính Nhà Bác Học Héraclite đã xác nhận trong câu ‘’không bao giờ ta tắm hai lần trên một dòng nước’’ vì nó cứ chảy qua. Mà làm sao nói rằng vạn vật không biến đổi, khi ta hằng thấy, mới ngày nay cái trứng gà, ngày mai lại hóa ra con gà; mới nước biển đó, bây giờ dưới ánh nắng mặt trời, lại hóa ra thành muối; cái hột mận mới đây, đem vùi xuống đất, lại mọc thành cây; chàng kia, mới ngày nào còn trai trẻ hồng hào, nay đã hóa ra cụ già, sắp về bên kia thế giới? Đành rằng vạn vật có biến chuyển nhưng có phải tự nó biến chuyển hay không? Nếu tự nó, thì sao lại biến chuyển như luật định, như có sự hướng dẫn? Nếu tự nó, sao hột gà không biến thành con chó hay con trâu, nước biển không biến thành gạo hay đường, hột mận không biến ra con gà hay cây chuối, và chàng kia không biến ra một tuyệt sắc giai nhân? Như vậy cuộc biến chuyển của vạn vật không do nó. Nếu không do nó, thì phải do một bàn tay vô hình vô ảnh nào. Điều nầy khoa học cũng cho là bí mật, không sao giải đáp được.

Đây một câu kết luận của Nhà Bác Học Whittker: ‘’...Cách đây 1 hoặc 10 tỷ năm, vũ trụ nếu có, thì phải có dưới một hình thái hoàn toàn khác với điều chúng ta biết: Thời kỳ đó là giới hạn tột cùng của khoa học.’’, nghĩa là khoa học chỉ biết tới đó mà thôi.

Mấy biện minh trên chứng tỏ rằng vật chất biến đổi theo một luật định, vật chất không tự tạo, tự biến, mà phải do một sức sáng tạo khác với vật chất, từ chỗ không vật chất mà tạo ra và điều khiển.

VI.- QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC

1.- Nguyên tắc bất tất: (có cũng được mà không cũng được).

Con người là con vật bất tất ở trần gian, nghĩa là có cũng được mà không cũng chẳng hại gì.

Thật vậy, trước đây độ 30.000 năm (khi chưa có loài người), con người không có mặt trên quả địa cầu, vũ trụ cũng vẫn xoay. Như thế con người không cần thiết cho vũ trụ. Mà đã không cần thiết thì không bao giờ có. Điều phi lý là con người đã xuất hiện trên mặt đất cách đây 30.000 năm và hiện nay anh và tôi đang có ở đây. Không cần, sao lại có?

Còn cái gì có thể có, thì đã có đì từ khi có vũ trụ. Tại sao đến một lúc sau mới có? Có như thế, là có trong một điểm thời gian được định trước rồi.

Trong giả thuyết nào, cũng chứng minh rằng, sự có mặt của con người không do hắn, mà do một ‘’người khác’’, thấy cần thiết lúc nào thì sáng tạo nên. ‘’Người khác’’ đó phải là nguồn gốc sáng tạo loài người.

2.- Nguyên tắc nhân quả.

a.- Người đời thường bảo: ‘’không có lửa sao có khói’’ Lửa là nguyên nhân, sinh ra hiệu quả là khói. Theo triết học nói rằng: ‘’vô nguyên nhân bất thành hiệu quả’’. Nếu áp dụng vào sự kiện Khói và Lửa, thì có nghĩa là, nếu không có lửa thì làm sao có khói được, và ngược lại, đã có khói thì nhất định phải có lửa. Đem áp dụng vào việc tìm nguồn gốc vũ trụ muôn loài thì chúng ta sẽ thấy như thế nào?

Vũ trụ đang có trước mặt ta là một kỳ công siêu phàm. Các hành tinh xoay chuyển một mực điều hòa, tạo nên thời thiết phân minh không sai chạy. Vạn vật phân chia ra khoáng vật, thực vật, súc vật và loài người, loại nào giống ấy phân minh. Giống nào có sự sống là truyền sinh mãi mãi mà giữ giống giữ dòng không lộn xộn. Lại nữa, ngũ hành trong vũ trụ: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tương khắc lẫn nhau, chẳng hạn như Thủy khắc Hỏa. Thế mà từ đời nào Thủy Hỏa vẫn tồn tại. Loài ác thú như hùm beo lang sói, không bao giờ số lượng tăng thêm, sinh tử quân bình, cũng như không bao giờ chúng len lõi đến sống chung với loài người để mà sát hại.

Ngần ấy việc vô cùng vĩ đại, vô cùng tinh xảo, vô cùng trật tự an bài, là một Hiệu Quả Siêu Phàm. Vậy tất phải có một Nguyên Nhân Siêu Phàm mới cân xứng. (Nguyên nhân với hiệu quả phải tương xứng). Nguyên nhân ấy là Đấng Tạo Hóa vậy.

b.- Có tương đối là phải có tuyệt đối. Trên trần gian, ai cũng nhận rằng có sự thật (Chân), có điều tốt (Thiện), có cái đẹp (Mỹ), nhưng chỉ Tương Đối mà thôi. Hễ có tương đối, thì tất phải có tuyệt đối. Song cái gì Tuyệt Đối là nguyên nhân sinh ra tương đối. Vậy tuyệt đối là toàn Chân, toàn Thiện, toàn Mỹ là Đấng Tạo Hóa đó.

c.- Có thụ động tức phải có chủ động. Chẳng hạn, bạn gõ cái chuông vang lên tiếng ‘’bon...bon’’. Chắc bạn cũng nhận rằng cái chuông nó không tự kêu. Vì bạn gõ nó mới kêu. Vậy cái chuông kêu là Thụ Động. Bạn gõ là Chủ Động.

Vạn vật biến chuyển, vũ trụ xoay vần. Vũ trụ và vạn vật không tự xoay, không tự biến. Chúng là thụ động. Vậy bàn tay chủ động nào điều khiển cuộc biến hóa của vạn vật và cuộc vận chuyển của vũ trụ? Ngoài bàn tay Tạo Hóa ai làm nổi?

VII.- VÀI QUAN ĐIỂM KHÁC

1.- Phương diện luân lý:

Luật luân lý, dạy làm lành lánh dữ, và phúc tội sẽ báo ứng công bằng. Mọi dân tộc đều hay biết điều nầy. Thử hỏi ông thầy nào biết hết các thứ tiếng trên thế giới, sống đời nầy qua đời khác, đi khắp đó đây mà dạy thiên hạ?

Không ai dạy mà biết, là dấu đã được in ghi trong bẩm tính rồi.

Vậy ai in ghi? Ông bà cha mẹ ư? Không, vì chính tổ tiên ta cũng bị luật luân lý điều khiển kia mà.

Vậy phải là Đấng Tạo Hóa in ghi luật ấy trong con người, và cũng chính Ngài làm trọng tài, thưởng phạt tất cả loài người mới công minh.

2.- Luật sinh tử của con người:

Bạn cũng như tôi, đều cho rằng, chúng ta không bao giờ đưa đơn xin có mặt ở trần gian, cũng như bao nhiêu người đã chết, không bao giờ đưa đơn xin rút khỏi cõi đời. Thế mà, từ đời nào, hằng ngày có bao nhiêu kẻ sinh người tử, ngoài ý muốn của đương nhân.

Bằng cách nầy hay cách khác, không sớm thì muộn, rồi mọi người đều phải chết.

Bảo rằng già phải chết ư? Sao lại có người yểu tử, có kẻ chết từ trong bào thai hoặc lúc vừa mới chào đời?

Bảo rằng già già chết, nhìn thử cây kia trong rừng không ai săn sóc như người, lại sống cả ngàn năm.

Bịnh mà chết, hay vì nghèo mà chết ư? Thế sao bác sĩ hay nhà giàu không lấy y khoa hay tiền bạc mà cản Tử Thần để được trường thọ?

Nếu bảo chết là do định luật thiên nhiên thì không đúng hẳn, bởi vì khi làm một việc theo định luật thiên nhiên như ăn, ngủ, hay làm việc sinh lý khác, thì con người thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Đằng nầy trước cái chết, con người thấy đau đớn khổ sở trăm chiều. Vậy chết không do luật thiên nhiên, mà nhứt định phải do một định luật thiêng liêng của bàn tay vô hình điều khiển. Bàn tay ấy là bàn tay Tạo Hóa vậy.

VIII.- KẾT LUẬN

Lần dò qua các ‘’trạm’’: Quan niệm dân tộc, lập trường tôn giáo, khám phá khoa học, quan điểm triết học, phương diện luân lý, và luật sinh tử của con người, chúng ta quả quyết rằng nguồn gốc vũ trụ muôn loài, mà đó cũng là Nguồn Gốc Nhân Vị chính là Đấng Thượng Đế, vô hình vô ảnh, tự tại và toàn năng.

Vậy có thể nói Thượng Đế là Cha Chung của loài người. Và tất cả nhân loại là anh em, do một nguồn gốc thiêng liêng là Thượng Đế mà ra. Đây cũng là tờ gia phổ của ‘’loài người cao quý’’ vậy,.

Khám phá nầy đúng với quan niệm ‘’Tứ Hải Chi Hội Giai Huynh Đệ’’ (người trong bốn biển là anh em) của Đức Khổng Tử đã tìm ra từ mấy nghìn năm trước. Đã là anh em chung một Cha, thì còn chờ gì mà ta chưa thương yêu nhau, để người Cha Lành được vui sướng có đứa con xứng đáng với danh Cha.

Thương người khác thể thương thân.

Rét thường cho mặc, đói thường cho ăn.

(Nguyễn Trãi).