DUY LINH LÀ GÌ ?
I.- MỞ ĐẦU
Từ thời Trung Cổ trở về đây, ta thấy mỗi chế độ, chính trị, xã hội, đều dựng nên bằng một chủ nghĩa mà mỗi chủ nghĩa đều dựa trên một lý thuyết căn bản, khi thể hiện rõ rệt, khi lại tiềm tàng.
Vào thời phong kiến, chủ nghĩa quốc gia quân chủ chuyên chế đã dựa trên lý thuyết ‘’Thiên Mệnh’’ mà cho các vị vua chúa thay trời trị dân. Kế đến, để giải phóng con người khỏi sự chuyên chế áp bức của các vị hôn quân, thuyết ‘’tự do cá nhân’’ đã làm nòng cốt cho cuộc cách mạng Pháp xây dựng chủ nghĩa dân chủ tư bản tự do. Và cách đây hơn thế kỷ, chủ nghĩa cộng sản đã dựa vào thuyết Duy Vật thúc đẩy con người vào cuộc tranh sát lẫn nhau, để thực hiện một ‘’Thiên đường hạnh phúc’’ không bao giờ có.
Gần đây hơn, trong lúc nhân loại bị các chủ nghĩa chà đạp lên nhân phẩm của mình, thì các Triết Gia Đông Tây đã tìm ra được học thuyết Duy Linh dựng nên Chủ Nghĩa Nhân Vị, để đặt con người trở lại địa vị thiêng liêng cao quý của nó.
II.- NHỮNG THUYẾT THỊNH HÀNH NHỨTNhững thuyết được thịnh hành nhứt trong nhân loại từ trước đến nay là Duy Tâm và Duy Vật, nhứt là thuyết Duy Vật đã và đang làm cho nhân loại điêu linh, làm cho nhân vị con người bị tổn thương, sức mẻ.
A.- DUY TÂM LÀ GÌ?
(Tinh thần là nguồn gốc vạn vật)
Theo các Triết Gia kim cổ, thì Duy Tâm là một (triết lý) quy mọi sự hữu về ý niệm hoặc tư tưởng, nghĩa là một vật mà ta nhận thấy trước mắt ta hay ta biết được là do trí khôn ta tưởng tượng và hình dung ra (Esse est percipi).
Vạn vật không gì khác hơn là tư duy của ta.
Như vậy, vật chất không có thật mà chỉ có hình dung của nó do trí khôn và tư tưởng con người nghĩ ra và không ở ngoài trí khôn con người. Thuyết ấy quyết định: Vật chất là sản phẩm của tinh thần. Chẳng hạn, khi ta nhận biết cái bàn, thì không phải do cái bàn bằng cây ván có hiện trước mắt ta mà ta biết, sở dĩ ta biết được cái bàn là do ta đã có trước cái ý niệm về cái bàn và trí khôn hình dung ra cái bàn nào của ta thấy.
Áp dụng vào con người, thuyết Duy Tâm cũng cho rằng con người chỉ là vật thể, do trí khôn tư tưởng ra mà thôi chớ không có thật. Bởi thế, thuyết Duy Tâm, rất kinh rẻ giá trị thể xác con người, nên ít chú trọng đến đời sống thực tế của con người ở trần gian.
Theo thuyết Duy Tâm, vật chất là hạ cấp, mà tinh thần là thượng đẳng nên vật chất không ảnh hưởng được đến tinh thần. Nếu trí khôn có hiểu được sự vật bên ngoài, đó là vì sự vật ấy ảnh hưởng đến trí khôn, mà có ảnh hưởng đến trí khôn là vì sự vật bên ngoài cũng thuộc cấp thiêng liêng siêu hình. Vậy vạn vật đều là siêu hình, chớ không phải hữu hình như ta tưởng.
PHÊ BÌNHXin thưa, nếu ta biết được sự vật như cái bàn chẳng hạn, là do hình dung của trí khôn ta, thì thử hỏi tại sao nhiều người riêng biệt trí khôn khác nhau, lại có hình dung các bàn in hệt nhau, để muôn người như một cùng nhìn nhận một cái bàn trường mắt mình? Đáng lý mỗi người có trí khôn khác nhau phải có hình dung các bàn khác nhau chứ?
Còn về con người nếu không nhận thể xác con người là một thực thể có thật, thì thử hỏi làm sao trả lời được, tại sao bụng ta cáu mắt ta mờ, tai ta ù, chân tay ta rũ riệt, khi ta nhịn đói vài ngày? Hay khi ta bị một bạt tay nẩy lửa, tại sao ta đau điếng đến la trời? Nếu xác ta không có thật thì ai gánh chịu những nỗi đau đớn khổ cực kể trên?
Lại bảo sự vật sở dĩ có là do trí khôn và tư tưởng của con người mà có, thì trước khi có loài người (có trí khôn có tư tưởng) thì vật không có sao? Khoa khảo cổ đã chứng minh được rằng trái đất nầy cùng cây cối và cầm thú có trước và loài người mới có sau, cách đây lối 30.000 triệu năm rồi.
Vậy phải kết luận rằng, phải có một sự vật bên ngoài và chính sự vật ấy ảnh hưởng đến trí khôn ta, để ta ý niệm về nó.
Bằng ấy chứng cớ, cũng đủ giúp chúng ta, nhận được sự hư thật của thuyết Duy Tâm, và việc thừa nhận chỉ có tinh thần, mà chối bỏ vật chất của thuyết ấy là không hợp lý không đúng với sự thật.
B.- DUY VẬT LÀ GÌ?
(Vật chất là nguồn gốc của vạn vật và tinh thần).
Duy Vật là quan niệm triết học chủ trương vật chất và thực tại có trước người và có trước vạn vật, sinh ra vạn vật và tinh thần, Thủy Tổ của thuyết nấy là ông Démocrite cách đây trên 2.000 năm đã đề xướng rằng:
‘’Những hiện tượng trong vũ trụ đều được cấu tạo bằng sự kết hợp của những thành phần vật chất nhỏ li ti gọi là nguyên tử’’.
Ông lại còn đi xa hơn, là đem thuyết Duy Vật và nguyên tử để giải thích sự cấu tạo của linh hồn, đồ đệ của ông cũng có rất đông, nhưng đáng kể là Karl Marx, Engels, và gần đây Lénine và các lãnh tụ cộng sản.
Đám mây, giản dị hóa vấn đề, bằng cách quy mọi sự vật về vật chất. Luôn cả tinh thần họ cũng cho là sản phẩm cao đẳng của vật chất chớ không thuộc thiêng liêng.
(Engels)
Nghe d'Holback, một người duy vật nói đây:
‘’Tôi quả quyết với các ông rằng tôi không trông thấy linh hồn, tôi chỉ biết và chỉ trông thấy thể xác tôi. Tôi chỉ biết rằng thể xác tư tưởng, suy luận, đau khổ và vui sướng’’. Họ phủ nhận linh hồn vì họ chỉ tin tưởng những cái gì họ thấy và chứng minh được mà thôi, nên một danh y duy vật Broussais nói rằng: ‘’Tôi không tin có linh hồn, bởi vì tôi không thấy nó ở đầu con dao mổ của tôi’’.
Họ cho rằng trí khôn con người chẳng khác gì bản năng con vật, nhưng tinh vi hơn thôi.
Chẳng những họ cho tinh thần là sản phẩm của vật chất mà còn quả quyết rằng lý trí là sản phẩm của óc não nữa.
Nghe đây, Boukharine, đồng chí của Marx-Lénine nói:
‘’Bộ óc con người vẫn bài tiết ra trí khôn giống hệt như lá gan bài tiết ra mật’’. (Boukharine trong A.B.C. du Marcixine).
Họ căn cứ trên sự ảnh hưởng của vật chất đối với tinh thần, như những vết thương ở óc có thể làm cho con người mất trí, và chủ trương ở óc có thể làm cho con người mất trí, và chủ trương rằng con người luôn luôn thay đổi theo vật chất. Con người ngày nay không phải con người hôm qua, hay con người của mấy mươi năm về trước.
Marx lại dựa vào thuyết Duy Vật mà chủ trương táo bạo hơn và thực tế hơn, là con người chỉ là một con người kinh tế hay là một cái máy tiêu hóa, và tất cả những hành động của con người chỉ vì mục đích kinh tế, rồi chủ trương giết người, cướp kinh tế, để lập lại công bình xã hội.
PHÊ BÌNHSách vở và báo chí đã nói nhiều về sự hư thực của thuyết Duy Vật và chủ nghĩa ‘’tam vô’’ rồi.
Đây xin đề cử một vài điểm vô lý và phản khoa học, một cách rõ rệt của thuyết nói trên, để ta hiểu thêm cho cặn kẽ.
Xin hỏi con người duy vật làm sao chỗi cãi được, cái mà ta gọi là lương tâm hay lương tri, của con người và chỉ giùm xem cái gì bài tiết ra nó?
Nếu bảo óc tiết ra tư tưởng, mà phần vật chất trong con người luôn luôn thay đổi, thì tư tưởng hẳn cũng phải thay đổi theo. Tại sao có nhiều tư tưởng tốt đẹp như thương cha, mến mẹ, thờ kính ông bà, giúp đỡ người nguy, thương nước mến nòi, trong phần đông con người lại không thay đổi theo thời gian? Còn bao nhiêu những kỷ niệm từ nhỏ đến lớn ta vẫn còn nhớ mãi, thì xin hỏi cái trí nhớ ấy do cái gì tiết ra? Nếu nói một phần nào trong vật chất của con người tiết ra, thì phần ấy sao không thay đổi theo vật chất để cho các kỷ niệm trong đời một con người thay đổi theo?
Họ đặt con người ngang hàng con vật thì thật là một việc vô luân và phản khoa học (vì họ đã đồng hóa trí khôn con người với bản năng con vật).
Khoa học đã phân chia vạn vật ra làm ba loại rõ ràng: Khoáng vật (sắt, đá, vàng, thua, v.v...) thực vật (cây, cỏ) động vật (cầm, thú) và con người.
Thú và người đồng giống (động vật) nhưng dị biệt loại. Người chỉ giống con vật ở phần vật lý và sinh lý mà thôi (như đã nói ở phần con người) nhưng hoàn toàn khác hẳn con vật và trên tất cả vạn vật ở chỗ con người có lý trí biết suy tưởng và có tự do.
Đành rằng cũng có vài giống vật cảm giác đặng một vài việc trước mắt, chớ làm sao nhớ lại được dĩ vãng và có một ý định gì về tương lai. Lại xin hỏi, làm sao con vật có lương tâm, để cải hối việc làm mà con người cho là quấy? Làm sao con vật có được cái luân lý của loài người để phân biệt Thiện-Ác.
Ta không thể nào nhận được rằng bản năng của con vật và trí khôn của con người là một thứ, chỉ khác nhau ở chỗ tiến triển hơn kém ít nhiều. Marx và đồ đệ đã dám cho con người là con người kinh tế (Homo-Occonomicus) và hơn nữa con người là bộ máy tiêu hóa (homme stomacal) thì cái thương, vui, buồn, giận của con người là cái gì của bộ máy ấy? Và họ gộp tất cả hành động con người vào mục đích kinh tế, thì xin hỏi các ông ấy, khi người kia đi dạo mát, đánh một bản nhạc, hầu một ván cờ, chạy thầy chữa thuốc cho con, hay bố thí cho kẻ tật nguyền một bát gạo, hay chăm chú sửa một cây kiểng năm nầy qua tháng khác, có ai mua giá mấy cũng không bán, từng ấy việc có phải vì mục đích kinh tế hay vì mục đích gì?
Đã nhận ra ít nhiều phần hư thực của 2 thuyết Duy Tâm và Duy Vật ta có thể kết luận rằng Tâm thì chối bỏ Vật mà Vật thì phủ nhận Tâm.
Tóm lại, cả hai lý thuyết trên đều quan niệm một cách quá giản dị, một vấn đề vô cùng phức tạp.
Dám nhìn con người là một thực thể đơn nguyên như vậy, ta có thể tưởng chừng Duy Tâm và Duy Vật, như hai anh hề gánh hát xiệc đang biểu diễn một chân trên sợi dây căng thẳng. Thuyết Duy Linh thì quan niệm vấn đề này một cách rất chu đáo hơn.
III.- THUYẾT DUY LINH VẬY DUY LINH LÀ GÌ?Duy Linh quan niệm rằng, vạn vật trong vũ trụ kể cả con người phải do một bàn tay toàn năng vô hình vô ảnh, sáng tạo. Đồng thời, Duy Linh cũng chủ trương con người gồm có linh hồn và thể xác, mà linh hồn là thiêng liêng, bất tử, biết suy tưởng và tự do.
Hai tiếng Duy Linh có nghĩa là chú trọng đặc biệt về phần linh thiêng trong con người, là phần linh hồn, phần tinh thần, làm cho con người cao cả và linh thiêng hơn tạo vật.
Con người là một con vật có lý trí, nghĩa là không phải vật chất không, hay tinh thần không, mà Chứa đựng một lượt cả vật chất lẫn tinh thần. Chính hai nguyên khởi nầy đã tạo ra bao nhiêu sự phức tạp trong con người.
Là một thể xác con người phải chịu tất cả nhiên luật (vật lý và sinh lý) chi phối nghĩa là: Con người bị gò bó trong không gian và thời gian (ở một xứ nào đó và sống một thời gian nào đó); con người bị hấp dẫn hướng về mình (ích kỷ cá nhân, nghĩ đến mình nhiều hơn); con người ưa thú nhục dục hơn thú tinh thần (thích tứ đổ tường hơn các thú thanh cao); theo thời gian những tế bào trong can người thay đổi biến hóa; nảy sinh (trẻ khác, lớn khác, già khác); xác con người nặng nề yếu đuối (chậm chạp và hay đau ốm).
Nhưng trái lại là một tinh thần, nên con người có những tài năng xuất sắc, nghĩa là nhờ tâm linh con người vượt khỏi thời gian và không gian (thương kẻ ở xa, nhờ được người quá cố, nghĩ đến việc sắp xảy ra); con người hướng ra người khác hơn mình (vị tha, bác ái) và hướng về ích chung. Con người có tự do lựa chọn, thực hiện chương trình của mình vạch sẵn (chọn cái tốt hơn, muốn hành động lúc nào cũng được, tùy mình); con người của ‘’Tôi’’ không thay đổi (những gì mình làm mấy mươi năm về trước cũng không quên), con người nhờ có linh hồn mà nhanh chóng (vui, buồn, thương, cảm hay suy nghĩ về một việc gì rất mau).
Duy Linh nhìn nhận những mâu thuẫn kể trên trong con người, để quả quyết rằng trong con người có sự hiện diện song song của linh hồn và thể xác.
Thuộc bẩm tính của vật chất, thể xác con người phải bị kềm hãm, biến đổi và tiêu tan.
Còn linh hồn, không là vật chất, thuộc thiêng liêng nên bất tử biết suy nghĩ và có tự do.
Chính phần linh hồn thiêng liêng bất tử ấy làm cho con người cao quý, và có một sứ mạng bất diệt là cải tạo chính mình cho đầy đủ nhân vị (trí mở mang); thương yêu giúp đỡ mọi người (xây dựng đạo đức của mình) và kính trọng Đấng Tạo Hóa đã ban ơn sáng tạo vũ trụ và muôn loài.
Vì nhận trong con người có sự phối hợp chắt chẽ giữa linh hồn và thể xác, nên Duy Linh chủ trương, tôn trọng Nhân Vị (là con người có xác và hồn đầy đủ) bằng cách nuôi dưỡng thể xác cho đủ sức làm dụng cụ giúp đỡ cho tinh thần sinh hoạt, và đồng thời đào luyện phần trí đức, cho tinh thần đủ khả năng hoàn thành sứ mạng; đạt đến mục đích cuối cùng toàn Chân, toàn Thiện, toàn Mỹ. (là Hạnh Phúc chung cho Nhân Loại).
Tóm lại thuyết Duy Linh, tôn trọng Nhân Vị nghĩa là trọng nhân phẩm của tất cả mọi người không phân biệt địa vị, đẳng cấp, tôn giáo và chủng tộc.
Và theo căn bản Duy Linh, chủ nghĩa Nhân Vị phải tổ chức gia đình, chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, cho hợp lý, để con người Nhân Vị không phân biệt là ai, đều hưởng tự do hạnh phúc trên cõi trần nầy.