← Quay lại trang sách

CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ I.- NGUỒN GỐC CHỦ NGHĨA

Từ khi con người, thì hắn đã mang sẵn ý niệm Nhân Vị rồi.

Nhưng, qua thời gian và không gian, ý niệm thanh cao tốt đẹp nầy, bị tâm lý và xã hội làm hoen mờ đi. Chính nó phải nhiều phen vất vả chiến đấu với dục vọng thấp hèn của cá nhân để mà tồn tại.

Ngày nay, đến lúc Nhân Vị bị chà đạp quá nhiều, nên Nhân Vị quyết chỗi dậy để đòi lại giá trị thiêng liêng và địa vị chính đáng của mình.

Chủ nghĩa Nhân Vị bắt nguồn từ ý niệm Nhân Vị tiềm tàng trong con người, và được thể hiện qua các tôn giáo và qua nhiều bực triết nhân nổi tiếng Đông Tây Kim Cổ. Đây là những móc chính của lịch trình chủ nghĩa.

Từ Tây, có Socrate (Thế Kỷ IV và V trước kỷ nguyên) nhận thấy người Hy Lạp quá chú trọng đến việc tìm hiểu vũ trụ bên ngoài, chăm lo việc tế tự thần linh (Apollon), nên ông dán ngay của đền thờ Apollon ở Thành Delphes, câu ‘’no-thi-siaton’’ (người hãy tự biết người đi đã), để nhắc nhở dân Hy Lạp hãy lo tu thân trước rồi mới lo tế tự.

Đây là một quan niệm về Nhân Vị rất rõ rệt ở Tây phương.

Sau Aristote, vào đầu công nguyên, có Đấng Chúa Cứu Thế khi giáng sinh, thấy dân gian quá đau khổ, hy sinh chịu chết một cách thê thảm trên cây Thánh Giá, để cảnh tỉnh người đời hãy thương yêu mà sống trong Công Bình và Bác Ái.

Cái chết của Đấng Cứu Thế cũng là cuộc Cách Mạng Nhân Vị lần thứ 2 tại Tây phương.

Sang Đông, (vào thế kỷ thứ 5 trước kỷ nguyên có Thích Ca (Cakya Mouni) cũng vì thấy Đạo Bà-la-môn ở Ấn Độ, chỉ lo việc tế tự quá nhiều mà quên đời sống đau khổ của con người ở Trần Gian, nên xả thân tìm đường giải thoát chúng sinh khỏi vòng tứ khổ (sanh, lão, bịnh, tử).

Đây là cuộc cách mạng Nhân Vị bắt đầu tại Đông phương.

Nhưng rồi, vì quá thiên về ‘’diệt dục’’, đặt nặng phần tâm linh để giải thoát, Thích Giáo, cũng gặp nhiều trở ngại trên đường về Nhân Vị.

Tại Trung Hoa vào thời Đông Châu, đạo đức con người quá sa sút, vì trước đó, người ta quá chú trọng lo tìm hiểu vũ trụ bên ngoài, mà quên bên trong của cái tiểu vũ trụ bên ngoài, mà quên bên trong của cái tiểu vũ trụ là tâm linh con người. Vì đó mà Đức Khổng Tử nhắc nhở con người trở lại với chính mình) để biết mình, để tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Chính Ngài đã khuyên con người nên lo phục vụ con người cho xong rồi hãy lo tế tự. (Vị năng sự nhân, an năng sự quỷ.-Phục vụ con người chưa xong, mà lo cho việc tế tự quỷ thần).

Đây cũng là cuộc Cách Mạng Nhân Vị lần thứ 2 tại Đông phương, sau thời Đức Thích Ca.

Ngày nay, qua thế chiến thứ hai, các bực trí thức cao thâm của các nước, Berdiaeff (Nga), Maine de Bizan E. Mounier, Nédoncelle (Pháp) (Ông Mounier chủ trương nhật báo Exprit, tại Pháp 1932, để cổ võ cho chủ nghĩa Nhân Vị. Nédoncelle, triết gia đã hệ thống hóa chủ nghĩa Nhân Vị). Dostoiewsky (Ba-lan), Ngô Đình Diệm (Việt Nam) đã nhìn thấy cuộc chà đạp nhân vị con người quá trắng trợn của bọn độc tài cộng sản và Phát-xít, nên đã gom góp những tư tưởng Nhân Vị kết thành hệ thống một chủ nghĩa, để làm căn bản cho cuộc cách mạng giải phóng con người toàn diện ngày nay.

II.- CHỦ TRƯƠNG

Chủ Nghĩa Nhân Vị, dựa trên học thuyết Duy Linh, chủ trương xây dựng hạnh phúc cho nhân loại trong sự tôn trọng xây dựng hạnh phúc cho nhân loại trong sự tôn trọng nhân phẩm, lấy ‘’nhân bản làm cương bị, lấy tự do dân chủ làm phương châm và lấy công lý xã hội làm tiêu chuẩn’’

(Bản hiệu triệu Tết Ất Mùi của Ngô Tổng Thống).

III.- PHẦN THỰC HÀNH ÁP DỤNG VÀO NHÂN SINH

A.- VẤN ĐỀ TỰ DO

Chủ nghĩa nào cũng hô hào tự do: ‘’Người chịu chết tuyên bố vì tự do’’ (Nguyễn Thái Học khi lên đoạn đầu đài) kẻ giết người cũng tuyên bố vì tự do (Bọn khủng bố cộng sản). Vậy đâu là tự do thật sự? Kinh nghiệm lịch sử đấu tranh của nhân loại đã cho biết chắc chắn là Tự do thật sự chỉ có một, còn Tự do giả hiệu thì hằng hà.

Tự do thật sự được coi là vấn đề căn bản của nhân vị; đối với Nhân Vị Chủ Nghĩa, con người có tự do, nhưng không phải một tự tự do quá trớn, không giới hạn, có thể đưa tới hỗn loạn nô lệ.

Tại sao phải có tự do? Vì không có tự do thì không có vấn đề trách nhiệm, không có công phúc, tội lỗi, và việc thưởng phạt đều vô nghĩa. (Con trâu phá lúa, con chó cắn người, đều vô tội vì con vật không có tự do (tinh thần). Chúng hành động theo bản năng. Bởi đó, chủ của con trâu hay con chó điều khiển nó phải gánh phần trách nhiệm của gia súc mình nuôi. Trái lại, bạn giết kẻ tình địch, không phải trong trường hợp tự vệ, bạn đã tự do quyết định, trù liệu phương tiện và bạn có thể giết hay không giết do nơi bạn. Bởi có tự do, nên bạn có trách nhiệm về hành vi của mình).

Tự do là khả năng lựa chọn chớ không phải là quyền. Nhờ nó ta có thể chọn việc nấy hơn việc khác, lành thay vì dữ, chớ không vì có tự do mà ta có quyền lánh thiện làm ác.

Đó là về tự do luân lý, còn tự do tự nhiên của con người thì đã được Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa dựa trên căn bản Duy Linh Nhân Vị nêu rõ ở Điều 13, 15, 16, 17 và 23.

(Điều 13

Mọi người dân có quyền tự do đi lại và cư trú trên lãnh thổ quốc gia, ngoại trừ trường hợp luật pháp ngăn cấm vì duyên cơ vệ sinh hay an ninh công cộng.

Mọi người dân có quyền tự do xuất ngoại trừ trường hợp luật pháp hạn chế vì lý do anh ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh hay lợi ích công cộng.

Điều 15

Mọi người dân đều có quyền tự do tư tưởng và trong khuôn khổ luật định, có quyền tự do hội họp và lập hội.

Điều 16

Mọi người dân có quyền tự do ngôn luận. Quyền này không được dùng để vu cáo, phỉ báng, xâm phạm đến nền đạo lý công cộng, hô hào nổi loạn, hoặc lật đổ chính thể Cộng Hòa.

Mọi người dân đều được hưởng quyền tự do báo chí để tạo thành một dư luận xác thực và xây dựng mà Quốc Gia có nhiệm vụ bảo vệ chống lại mọi hành vi xuyên tạc sự thực.

Điều 17

Mọi người dân đều có quyền tự do tín ngưỡng, tự do hành giáo, và tự do truyền giáo, miễn là sử dụng quyền ấy không trái với luân lý và thuần phong mỹ tục.

Điều 23

Quyền tự do nghiệp đoàn và quyền đình công được công nhận và sử dụng theo thể thức và điều kiện luật định.)

Nhưng phải luôn luôn nhớ rằng, mặc dầu trên phương diện nào, tự do cũng không được qua khỏi giới hạn, làm mất tự do hay quyền lợi chính đáng của người khác.

Tự do là ân huệ Thiên Phú của Nhân Vị, nhưng nếu không bảo vệ, thì tự do cũng bằng thừa.

Tự do thật sự không phải được hứa suông, mà còn phải được chánh phủ bảo vệ, bằng cách tạo cho công dân có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện tự do.

Nói khác đi, là tự do phải được áp dụng toàn diện, nghĩa là trên mọi lãnh vực chánh trị kinh tế, xã hội, văn hóa v.v...

Thiếu một phương diện, thì tự do thành ra vô nghĩa. Ví dụ: Trong Hiến Pháp nhìn nhận công dân trong nước có tự do cá nhân, không ai được quyền bắt bớ giam cầm trái phép, nhưng nghèo đói không cơm ăn, áo mặc, nhà ở, thì cái tự do cá nhân ấy có nghĩa gì? Hoặc có tự do kinh doanh để làm gì? Nếu không có đất cày, không tiền vốn làm ăn? Hoặc nữa, có tự do ngôn luận làm gì, nếu ta dốt nát tịt mù không biết gì mà nói?

Toàn diện, còn có nghĩa: Tự do phải được thực hiện ở mọi từng lớp nhân dân trong nước, không phân biệt giai cấp, đảng phái, tuổi tác, học lực, tiền của. Tự do theo phong kiến, tư bản, hay cộng sản. Trong các chế độ nầy chỉ có một thiểu số người hưởng tự do trên sự chà đạp tự do và quyền lợi của kẻ khác.

Tóm lại, tự do con người có thể héo dài tới giới hạn đừng làm hại gì đến người khác, đừng hại đến sự ích lợi chung, và đừng hại đến thuần phong mỹ tục.

B.- VẤN ĐỀ LUÂN LÝ

Nói đến luân lý là nói đến bổn phận, đến cái gì bắt buộc, mà nền tảng của bổn phận ở đây là Thượng Đế, vì người là nguồn gốc của nhân loại và nhân vị. Luân lý của nhân vị bắt nguồn ở Thượng Đế và chính Thượng Đế đặt ra thiên luật và in ghi trong lý trí nhân vị, để con người có lý trí phải theo.

Khi ta làm một điều gì mà ta xét ra có vi phạm đến nhiệm vụ hay quyền lợi nào, thì là trái luân lý (trái trật tự thiên nhiên).

Luân lý đối với nhân vị có thể gồm trong việc hiếu thảo mẹ cha, bảo tồn danh dự cho mình và kẻ khác, phải trả nợ non sông, phải yêu mình và thương người (hay là công bình và bác ái).

Trong vấn đề luân lý, Nhân Vị chịu trách nhiệm đối với lương tâm, với kẻ khác, với xã hội, và với Thượng Đế vì người sẽ thưởng phạt hành vi thiện ác của con người (Thiện Ác đáo đầu).

C.- VẤN ĐỀ QUYỀN LỢI VÀ NHIỆM VỤ

Do bản tính Nhân Vị, con người có những quyền căn bản và bất khả xâm phạm.

Nhưng quyền dựa vào đâu mà có? Quyền dựa vào nhiệm vụ mà có. Vậy ở đâu có bổn phận là ở đó có quyền lợi, hay nói cách khác, bổn phận đẻ ra quyền lợi. Thí dụ, anh làm xong ngày công thì sau bổn phận đó được quyền lãnh một số tiền thù lao xứng đáng. Khi anh đã lo xong công việc cung cấp vật chất và tinh thần cho gia đình, thì anh có quyền điều khiển cái gia đình ấy.

Nói cách khác, con người sanh ra đã có hai nguyên tố để sống chung với đồng loại là bổn phận và quyền lợi.

Bổn phận và quyền lợi cũng như quyền lợi và quyền lợi không bao giờ xung đột nhau. Sở dĩ ngoài thực tế có xung đột là vì người ta quên bổn phận mà chỉ đòi hỏi quyền lợi, hay không phân biệt được quyền lợi nào cao quyền lợi nào thấp mà phải nhường nhau.

Có quyền lợi do Thiên Luật: Quyền của Thiên Chúa (sự sinh tử con người) và con người không quyết định được cái sinh như cái tử của mình.

Quyền do Nhiên Luật: Quyền làm cha mẹ, quyền sinh sống và bảo vệ tính mạng, quyền Cần Lao và tư hữu, quyền sinh sản, quyền tín ngưỡng.

Quyền do Nhân Luật: Tất cả quyền do Hiến Pháp ban cho trong xã hội có điều kiện và có thời gian. Chẳng hạn như muốn hành nghề chuyên môn phải có đủ điều kiện chuyên môn và trong một thời gian thuận tiện nào đó. Quyền nào do Nhiên Luật thì không ai bóc tước được, nó theo con người đến chết, còn quyền nào do xã hội ban cho thì muốn lấy lại lúc nào cũng được. Chẳng hạn, nếu bạn mắc phải bịnh loạn óc, thì luật pháp không cho bạn có quyền hành nghề bác sĩ nữa.

Do đó, tất nhiên có một trật tự xếp hạng theo thứ tự trọng hệ, các thứ quyền nhân sinh: Quyền do Thiên Luật, quyền do Nhiên Luật, rồi mới đến quyền do Nhân Luật. Trong trường hợp có xung đột giữa 2 quyền lợi thì quyền ở cấp bực thấy phải nhượng bộ. Khi hai quyền lợi cá nhân ở đồng cấp bực thì quyền lợi do một nghiệm vụ ít quan trọng hơn phải nhường.

Giả sử trong một cuộc chìm đò (bac) có cả vợ bạn và Tổng Thống, trong tình trạng tối nguy, bạn chỉ có sức cứu được một người, thì người mà bạn phải cứu, là Tổng Thống, vì nhiệm vụ của Tổng Thống là nhiệm vụ đối với toàn dân, quan trọng hơn.

Lê Lai liều mình chết thế cho Lê Lợi cũng bởi Lê Lai xét thấy nhiệm vụ mình ít quan trọng hơn nhiệm vụ của Lê Lợi, minh chủ, linh hồn của cuộc kháng Minh.

Trên quan điểm thông thường của Nhân Vị Chủ Nghĩa, quyền sống, quyền có cơm ăn, áo mặc, nhà ở cho mình và cho gia đình mình thế nào cho hợp với nhân phẩm của đấng làm người ‘’linh ư vạn vật’’ thì tối cần.

Khi quyền lợi cá nhân đối chọi với quyền lợi công ích chính đáng thì quyền lợi cá nhân phải nhượng bộ. Có khi quyền lợi căn bản như quyền sống cũng phải hy sinh cho sự bảo vệ non sông là quyền lợi chung của giống nòi.

D.- VẤN ĐỀ PHỤ NỮ

Theo Chủ Nghĩa Nhân Vị, phụ nữ phải được tôn trọng vì người đàn bà cũng là một nhân vị.

Đã là nhân vị ngang nhau, giữa đàn ông và đàn bà không gì phân biệt nhau về phẩm cách, nên không ai lệ thuộc ai cả (Điều 5 của Hiến Pháp: Mọi người dân không phân biệt nam nữ ra bình đẳng về phân cách, quyền lợi và nhiệm vụ, và phải đối xử nhau theo tinh thần tương thân tương trợ).

Nhưng ngoài thực tế, nam nữ có cơ cấu thể xác khác nhau, bởi đó mà có những khả năng khác nhau, nên có nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Tuy nhiên, khả năng khác nhau ấy không mâu thuẫn nhau, mà lại hòa hợp và bổ túc lẫn nhau, làm cho con người được đầy đủ hơn, để thực hiện sứ mạng của mình. Nếu đem công việc nặng nhọc giao cho người đàn bà ‘’mình hạt xương mai’’, thì đàn bà làm sao nổi, hoặc đem công việc sinh đẻ dưỡng dục con cái, giao cho người đàn ông, thì người đàn ông làm sao kham.

Trong gia đình cả hai căn cứ trên sự hiểu biết, thương yêu mưu ích chung cho vợ chồng và con cái. Nhưng người đàn ông làm chủ gia đình, vì có phận sự phải lo cho sự sống của gia đình. Người đàn bà nếu có vâng phục người đàn ông, là chỉ vì lợi ích chung cho gia đình, và mình chỉ vâng phục người đàn ông mà mình đã lựa chọn để giúp đỡ mình trong sứ mạng.

Người đàn bà, tùy khả năng có thể tham gia vào công tác kinh tế, văn hóa, nhưng trọng trách thiêng liêng cao cả của người đàn bà là thiên chức làm vợ và làm mẹ nuôi dạy con cho thành nhân vị, có tài đức. Tóm lại, Nhân Vị Chủ Nghĩa không chủ trương cực đoan, đòi hỏi cho người phụ nữ một sự bình quyền quá mức, trái thiên nhiên, là hoàn toàn tự do hoạt động như đàn ông, gánh vác những công việc ngoài sức mình, nhưng chỉ đòi hỏi sự tôn trọng nhân vị và quyền lợi của người đàn bà. Trong trường hợp đồng khả năng, đồng nhiệm vụ với đàn ông, thì đàn bà phải được hưởng số lương ngang nhau, hay quyền lợi tinh thần bằng nhau. Chẳng hạn trong gia đình, cha mẹ đều được kính mến và quý trọng như nhau. Nếu là Dân Biểu Quốc Hội như nhau, thì nam như nữ được hưởng phần thù lao như nhau.

Nếu người xưa căn cứ trên điểm sinh lợi, mà ví người đàn ông như cái đăng, đàn bà như cái đó, bổ túc lẫn nhau, hoặc căn cứ trên tâm linh mà chúc đôi vợ chồng được yên vui như Loan (chim trống) Phụng (chim mái) cùng nhau đem tiếng lòng hòa thành khúc nhạc ái ân muôn điệu (loan phụng hòa minh), thì nay trên lãnh vực ‘’tinh thần sứ mạng’’, ta có thể nói, nếu đàn ông là cái đầu điều khiển gia đình, thì người đàn bà là quả tim để làm cho gia đình yên vui hạnh phúc vậy.

Đ.- VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH

Gia đình là một cộng đồng thiên nhiên gồm có nhiều nhân vị, trong đó có cha mẹ và con cái, mật thiết sống chung nhau và được pháp luật hợp thức hóa, bằng luật bất ly hôn.

Gia đình do một nguồn gốc thiêng liêng. Khi sáng tạo nhân loại có nam và nữ là Tạo Hóa đã có dụng ý giao cho nhân loại sứ mạng phổ thông và duy trì nhân loại, bằng tình yêu, trong khuôn khổ gia đình.

Do đó gia đình là một nhu cầu sinh lý, tâm lý và xã hội cho nhân loại; đồng thời cũng là điều kiện thiết yếu cho sự sinh tồn và phát triển của nhân vị.

Đến tuổi trưởng thành, nam nữ tự nhiên cảm thấy một khuynh hướng tìm đến người khác giống, để yêu thương và phụng sự. Trong bản năng thiên nhiên nầy, ta thấy có hai yếu tố sinh lý và tâm lý. Trong mỗi con người của hai phái đã được thiêng liêng đặt sẵn một ái lực huyền diệu thúc đẩy con người đến chỗ thỏa mãn dục tình, một cách thanh bai tao nhã, khác xa loài vật.

Tạo hóa còn thêm cho con người một lý trí, là dụng ý rằng vấn đề sinh lý dựa trên luân lý mà hướng dẫn và tiết chế, chớ không để thực hiện bừa bãi, phi luân như loài vật. Vậy, nền tảng của gia đình là hôn nhân. Về hôn nhân, Chủ Nghĩa Nhân Vị quan niệm rằng hai người sắp lấy nhau, phải có đủ sức khỏe và tinh thần, để thực hiện hôn nhân và lãnh trách nhiệm thiêng liêng của nó. Trong việc hôn nhân, nhà nước cũng như cha mẹ, không quyền áp chế, nhưng phải can thiệp và ngăn trở khi thấy thanh niên hay thiếu nữ chưa ý thức đầy đủ về việc hôn nhân và trách nhiệm nặng nề của nó, hoặc lựa chọn bừa bãi theo đam mê và dục vọng nhất thời, có thể đưa đến kết quả tai hại về sau.

Vì rằng, sau cuộc ái ân thiêng liêng ấy, còn vấn đề nối dòng dõi tông môn và duy trì nhân loại, nên hôn nhân phải có tính cách thuần nhất, nghĩa là một vợ một chồng, và cũng bởi lý do tôn trọng nhân phẩm của người đàn bà, vì người đàn bà cũng là một nhân vị. Điều nầy đã được hợp thức hóa và bảo vệ theo Điều 25 của Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa: Quốc gia công nhận gia đình là nền tảng của xã hội. Quốc gia khuyến khích nâng đỡ sự thành lập gia đình, sự thực hiện sứ mạng gia đình, nhất là trong sự thai nghén, sinh đẻ dưỡng dục hài nhi. Quốc gia tán trợ sự thuần nhất của gia đình.

Hôn nhân còn phải có tính cách trường cửu, nghĩa là đôi bạn giao ước sẽ cùng nhau ở đến khi tóc bạc răng long, hay đến ngày nào có một trong hai người khuất bóng. Vô lý à! Vui ở buồn thôi chớ? Thưa không, vì tình yêu là một sự tận hiến mình, mà khi tận hiến thì không còn lấy lại nữa. Đây cũng là một vấn đề công bằng. Bất luận anh hay chị khi thành hôn, ai cũng đòi hỏi rằng trong ‘’quả tim’’ của hôn phu hay hôn thê mình không có ‘’bóng một tài tử hoặc giai nhân’’ nào trước. Ai cũng muốn hưởng hoa ‘’từ độ hoa khai’’ thì ‘’đến lúc hoa tàn’’ phải ăn ở làm sao cho ra ‘’người chung thủy’’ chớ. Hơn thế, đôi bên còn sứ mạng làm cha mẹ, phải lo nuôi dạy con cái cho thành những nhân vị xứng đáng ngày sau. Vì lẽ đó, mà gia đình còn cần phải có một điều kiện kinh tế, cơm ăn, áo mặc, nhà ở, đủ cung cấp cho sự săn sóc vật chất, tinh thần, cho con cái. Có thể nói cuộc hôn nhân là bản giao ước đầu tiên của hai nam nữ, mà cũng là bản giao ước cuối cùng, trong ấy hai người có bổn phận tương trợ nhau. Cũng vì ý niệm đó mà từ xưa, người ta chúc cho đôi tân hôn ‘’bền duyên cần sắt’’ đến lúc ‘’tóc bạc răng long’’. Bởi đó mà việc ‘’bất ly hôn’’ đã do Nhiên Luật định rồi. Trong gia đình, tuy vì nhiệm vụ chỉ huy, người cha có quyền hạn chỉ huy, nhưng người mẹ cũng có chức vụ làm vợ làm mẹ, cũng nặng nề ngang nhau, nên quyền hạn tương đương.

Của cải quý hơn mọi sở hữu của vợ chồng là con cái, vì nó là thân thể của đôi bên, là kỷ phần (của riêng) của hai ông bà ‘’tuy hai mà một’’. Vậy gia đình nhân vị hiểu rằng, bổn phận thiêng liêng của cha mẹ là phải lo nuôi dạy cho con cái cho đầy đủ để cung cấp cho nhân loại số nhân vị tốt đẹp và phải giữ vững gia đình để duy trì xã hội quốc gia (xin xem chi tiết ở bài ‘’gia đình nhân vị’’ của tác giả đăng ở phần phụ chương).

E.- VẤN ĐỀ GIÁO DỤC

Vấn đề giáo dục là một trong những vấn đề then chốt của Nhân Vị Chủ Nghĩa, Nhân Vị cần phải được phát triển, không gì bằng việc giáo dục. Muốn xây dựng một xã hội lành mạnh, Nhân Vị Chủ Nghĩa không dùng võ lực như cộng sản mà dựa trên sự giáo dục để giác ngộ nhân dân.

Chánh sách nầy đã được Chánh Phủ Cộng Hòa Nhân Vị áp dụng rõ rệt đối với đồng bào ‘’sai đường lạc lối’’, đi xa chánh nghĩa của con người.

Con người phải được giáo dục không ngừng. Ngay trong gia đình, cha mẹ đã phải giáo dục con cái về đức hạnh. Đến trường, nhà trường thay thế cha mẹ một phần để giáo dục phần chuyên môn, bồi dưỡng thêm phần đạo đức. Ra ngoài xã hội, Chánh Phủ tiếp tục giáo dục nhân dân bằng sách vở, báo chí, phim ảnh, phòng thông tin, các lớp học tập, các cuộc mết-tinh, những buổi nói chuyện thân mật v.v...

Đường lối giáo dục của Nhân Vị Chủ Nghĩa, dựa trên bản tính thiên nhiên của con người và trong sự tôn trọng nhân phẩm, để hướng dẫn con người phát triển trong tự do, chứ không uốn nắn con người theo đảng phái hay tôn giáo nào hết.

Chẳng những Chánh Phủ chủ trương việc giáo dục mà còn khuyến khích việc giáo dục của nhân dân, cho phép ‘’Truyền Bá Quốc Ngữ’’chống dốt, cho phép mở trường tư, không phân biệt tôn giáo, miễn là việc giảng dạy nơi trường đừng đi ngược lại tinh thần tôn trọng nhân vị thì thôi.

G.- VẤN ĐỀ KINH TẾ

Nhân Vị Chủ Nghĩa quan niệm con người có hai phần: Xác và hồn, không thể quên một. Vậy con người có tư tưởng, nhưng cũng có miệng cần ăn, có xác cần nuôi. Câu ‘’có thực mới vực nên đạo’’, hay ‘’anh hùng bụng đói, cũng nằm co’’, đều nhắc đến vấn đề kinh tế trong con người.

Bởi thế, nếu thiếu tự do kinh tế thì các tự do khác không nghĩa lý gì? Được tự do đi lại làm gì, nếu không có món tiền nhỏ mọn làm lộ phí? Tự do tín ngưỡng làm gì nếu không đủ tiền mua gạo ăn hằng ngày?

Đã ý thức được tầm quan trọng của vấn đề kinh tế nên Tổng Thống Cộng Hòa Nhân Vị Việt Nam luôn luôn nhắc nhở toàn dân rằng: Muốn độc lập thật sự, cũng như muốn bảo vệ nền độc lập ấy, thì phải có một nền kinh tế độc lập và giàu mạnh. Bởi vậy, sau khi tái lập được an ninh trật tự trong nước, thì bao nhiêu lực lượng đều dồn về công việc xây dựng một nền kinh tế quốc gia cường thịnh.

Đây không đi sâu vào chi tiết của nền kinh tế nhân vị, nhưng chỉ phác lược đại cương, đường lối của nó mà thôi. Nếu kinh tế nhân vị, nhằm vào việc giải phóng con người ra khỏi mức sống thấp kém và sẽ xây dựng trên những nguyên tắc sau đây:

a.- Tôn trọng quyền tư hữu trong khuôn khổ công bằng xã hội.

Quyền tư hữu là làm chủ các vật, do mình làm ra, hoặc cha mẹ để lại như tiền bạc, nhà cửa, máy móc, ruộng vườn, v.v...Nhưng con người là một phần tử trong xã hội, nên một đôi khi vì công ích cho toàn thể, quyền tư hữu có thể bị hạn chế một phần. Tỷ dụ: Đất và nhà ta ở là quyền của ta, nhưng vì lợi ích hay an ninh chung, trong lúc khẩn thiết Chánh Phủ muốn lập trường học, nhà thương, hay trại lính. Chánh Phủ có quyền tạm đổi ta một căn nhà khác hay bồi thường cho ta để sử dụng căn nhà đó vào việc công.

b.- Dung hòa sự tự do cạnh tranh với quyền hướng dẫn kinh tế để giữ mức thăng bằng xã hội.

Sự tự do cạnh tranh trong chế dộ tư bản đã gây ra những bất công của xã hội và kinh tế chỉ huy của cộng sản đã làm mất tinh thần tiến thủ, và sáng kiến của con người về phương diện sản xuất, thành ra nền kinh tế nhân vị phải áp dụng một chính sách khu biệt để dung hòa sự tự do cạnh tranh và hướng dẫn.

Có ba khu vực kinh tế:

1.- Khu vực sơ đẳng hay đệ nhất hạng sở hữu.

2.- Khu vực nhị đẳng hay đệ nhị hạng sở hữu.

3.- Khu vực tam đẳng hay đệ tam hạng sở hữu.

1.- Đệ nhất hạng sở hữu gồm có những của cải cần thiết cho sự sống xứng với nhân phẩm, như cơm ăn, áo mặc, đường đi, nhà ở, nước, điện, v.v...Chánh Phủ sẽ áp dụng chính sách hướng dẫn việc sản xuất cho đầy đủ và phân phối cho đồng đều để tránh mọi đầu cơ bóc lột, tỷ dụ Chánh Phủ sẽ trực tiếp quản trị nhà máy điện và nước để dân được hưởng giá rẻ.

2.- Đệ nhị hạng sở hữu gồm những thứ có tính cách tiện nghi như đồng hồ, xe cộ, tơ lụa, v.v...việc sản xuất và phân phối được tự do, tuy nhiên Chánh Phủ có thể can thiệp và hạn chế để giữ sự thăng bằng xã hội. Tỷ dụ: Việc buôn bán trâu bò vẫn được tự do? Nhưng vì một lý do gì sự sản xuất trâu bò kém đi, Chánh Phủ có quyền cấm giết thịt hoặc xuất cảng trâu bò ra ngoại quốc, Chánh Phủ cấm nhập cảng tơ lụa để chấn hưng tơ lụa nội hóa v.v...

3.- Đệ tam đẳng sở hữu gồm những nhu cầu không cần thiết cho sự sống lắm, nhưng làm thỏa mãn sự đòi hỏi về tinh thần, thẩm mỹ v.v..., ví dụ sách báo, tác phẩm mỹ nghệ, tranh ảnh v.v...Chánh Phủ không hạn chế gì cả.

H.- HỢP LÝ HÓA VÀ CƠ KHÍ HÓA VIỆC PHÂN PHỐI VÀ SẢN XUẤT

Nước nhà là nước hậu tiến cần phải cơ khí hóa mọi ngành công nông để con người bớt mệt nhọc, để cho hàng sản xuất nhiều và bán giá rẻ, để mọi người đều được hưởng dụng (hợp lý hóa việc phân phối). Nhưng phải hợp lý hóa sự sản xuất theo nhu cầu trong nước cũng như ngoài nước, để tránh nạn kinh tế khủng hoảng. Tỷ dụ: Trong nước thiếu các dụng cụ nông nghiệp mà các ngành kỹ nghệ chỉ chú trọng tới việc sản xuất nước hoa để bán lấy nhiều tiền, Chánh Phủ phải hợp lý hóa sự sản xuất, nghĩa là hướng dẫn sản xuất nông cụ để cung cấp cho nông nghiệp nước nhà. Hoặc hướng dẫn sản xuất nông sản thích ứng với thị trường ngoại thương, để tăng cường nền tài chánh quốc gia. Mặt khác tổ chức hợp tác xã sản xuất để tăng gia lợi tức cho nhân dân.

I.- VẤN ĐỀ TƯ HỮU

Dựa vào hai nguyên tắc sau đây mà mọi người đều có quyền tư hữu.

Mọi người không phân biệt ai, đều có quyền căn bản được chung hưởng tài sản trên đời nầy. Mọi người không phân biệt ai, đều có quyền sở hữu là một trong những quyền lợi tự nhiên của con người. Quyền nầy do Nhiên Luật gắn liền với con người từ lúc mới sanh.

Quyền tư hữu là quyền tự nhiên của con người, vì nó được đặt trước luật lệ của nhà nước.

Quyền tư hữu cần thiết để làm nẩy nở nhân vị và giúp nhân vị hoàn thành sứ mạng của mình. Bởi con người có tự do Cần Lao, nên dĩ nhiên có quyền làm chủ tài sản do Cần Lao của mình đào tạo. Quyền tư hữu cần thiết cho sự tự tồn của nhân vị và gia đình, để làm nền tảng cho xã hội. Chủ gia đình phải có riêng để nuôi mình, nuôi con và để lo tương lai cho nó. Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa cũng đã xác nhận quyền nầy trên thực tế, theo Điều 21 của Thiên II Quyền tư hữu rất lợi ích cho xã hội, được quyền có của riêng, con người mới ham làm việc? Có của riêng, thì xã hội quốc gia cũng do tài sản đó, mà trở nên giàu mạnh. Quyền tư hữu vì thế mà không đối chọi với lợi ích chung như cộng sản hằng vu cáo. Sự bất công trong xã hội hiện tại trong cái cảnh ‘’Người bất túc, kẻ hữu dư’’, không phải tại quyền tư hữu mà chính tại lòng ích kỷ của ‘’con người thiếu nhân vị’’, lạm dụng quyền tư hữu. Quyền tư hữu là yếu tố cần thiết để nhân vị được tự do. Nếu không có của cải riêng Nhân Vị sẽ lệ thuộc một kẻ khác, như ở chế độ Tư Bản Tự Do quá trớn, hoặc lệ thuộc nhà nước như ở chế độ cộng sản. Quyền lợi của mỗi người phải tùy thuộc ở lợi ích chung. Nói rõ hơn, quyền tư hữu có giới hạn. Giới hạn nầy không phải do sự độc tài của nhà nước, mà do nguyên tắc căn bản, là mọi quyền lợi trên đời nầy có mục đích phục vụ cho mọi người chớ không riêng một cá nhân hay giai cấp nào. Do đó mà: Quyền tư hữu của người nầy bị quyền tư hữu của người nọ hạn chế. Chẳng hạn người có ruộng đất thừa thãi, phải bán lại cho kẻ không có để tự canh, với tinh thần tương thân tương trợ (chánh sách cải cách điền địa của Chánh Phủ là một áp dụng rất rõ ràng).

Quyền tư hữu còn bị hạn chế do sự lợi ích chung của quốc gia dân tộc nữa. Nhà nước có quyền quốc hữu hóa các nguồn lợi to tát mà tư nhân khai thác không đúng mức, hoặc nếu khai thác được đúng mức thì nó sẽ thành thế lực to tát lấn áp nhà nước và bóc lột nhân dân.

Nhà nước cũng có quyền đánh thuế trên những lợi tức. Cũng là một cách hạn chế tư hữu, để có tiền bạc trùng tu và xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Nhà nước phải can thiệp vào lãnh vực kinh tế theo tôn chỉ sau đây. Phải làm sao cho mỗi người có của cải riêng cần thiết để sống xứng đáng với phẩm tước của nhân vị: Cơm ăn, áo mặc, nhà ở và tiền bạc thuốc men khi đau ốm. Ngoài ra những nhu cầu khẩn thiết trên, nhà nước còn phải trù liệu phân phối tài nguyên hay giúp đỡ tiền bạc cách nào để mỗi người có thể có khoảng đất, miếng vườn, mà cày cấy trồng trọt hay xây dựng công kỹ nghệ riêng cho gia đình mình hầu đi đến chỗ phồn thịnh quốc gia.

K.- VẤN ĐỀ CẦN LAO

Điều 14 Hiến Pháp đã nói: ‘’Mọi người dân đều có quyền và có bổn phận làm việc’’.

Trước hết ta nên hiểu rằng: ‘’Có quyền làm việc’’ là không ai ngăn cản ta làm việc, chứ không phải ta đòi hỏi nhà nước phải có việc cho ta làm.

Nhưng Chánh Phủ phải tổ chức xã hội cách nào để mỗi người tùy khả năng, và nếu biết kiếm việc làm, thì có công ăn việc làm. Chánh Phủ can thiệp để nâng cao mức sống và lương bổng Cần Lao thế nào đủ sống mà lại còn tiết kiệm được ít nhiều phòng khi mất việc hay ốm đau.

Cần Lao chẳng những cần cho đời sống nhân vị lại còn cần cho sự tiến bộ xã hội nữa. Bởi lẽ, người nào đã có tiền của nhiều, không Cần Lao để sống, cũng phải làm việc để trau giồi nhân phẩm để góp phần xây dựng xã hội (ở không sẽ sinh ra tật xấu).

Cần Lao đối với Nhân Vị là một giá trị, một hoạt động thiêng liêng cao quý có tâm linh góp phần vào đó, chớ không phải là một món hàng bán chác mà tư bản chủ trương ‘’mua rẻ sức lao động’’, cũng không phải là một ‘’giá trị sản xuất máy móc’’ mà cộng sản bóc lột của ‘’con người’’.

Khi Cần Lao, con người nhân vị còn phải đem hết tâm trí và tinh thần chức nghiệp của mình vào đó, vì người làm chớ không phải máy làm. Mà khi người làm, thì làm cả xác lẫn hồn chứ nào phải cái xác không. Vậy có thể nói mỗi việc nào do Cần Lao của con người làm ra đều có đóng dấu ‘’Nhân vị linh ư vạn vật’’ trong đó. (xin xem bài giá trị Cần Lao ở phần phụ chương).

Vậy vấn đề thù lao phải xứng đáng với sức Cần Lao của con người. Trên quan điểm tôn trọng Nhân Vị, Chính Phủ Nhân Vị phải can thiệp đúng mức ở điểm nầy. Ngoài ra cũng vì phẩm tước nhân vị của mọi người, mà Chính Phủ cũng can thiệp đến việc tổ chức chỗ làm của Cần Lao hai giới Nam Nữ phải riêng biệt, khác hẳn tình trạng Nam Nữ ‘’xô bồ xô bộn’’ trong các công xã của Trung Cộng. Chỗ làm phải đầy đủ vệ sinh, làm việc đúng giờ ấn định, hoặc có làm thêm phải trả tiền phụ trội, hoặc chủ trương Cần Lao có quyền nghỉ lễ chánh thức có lương, và phải có bảo đảm an ninh vật chất khi lâm nạn, hoặc lúc về già.

Vậy công việc nhân vị hóa Cần Lao nói trên, trước hết, phải có: Ý thức Cần Lao của mỗi nhân vị, đức tánh công bình của giới chủ nhân và phải có sự can thiệp hữu hiệu của Chánh Quyền.

Cần Lao như thế, nhân vị mới phát triển hết khả năng của mình và xã hội quốc gia mới tiến bộ được.