CHỦ NGHĨA NHÂN VỊ (tt) L.- LIÊN HỆ TƯ BẢN VÀ CẦN LAO
Vì chủ trương quyền tư hữu có giới hạn nên Nhân Vị Chủ Nghĩa cho phép con người có tư bản (của riêng), nhưng tư bản ấy không gây dựng bằng một phương tiện bất chánh, hay phát triển nó mà không gây hại cho công ích. Chủ nghĩa còn dung hòa tư bản với công nhân, điền chủ và tá canh. Điều nầy đã được Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thực hiện bằng cách:
Ban hành luật lao động và cải cách điền địa, trên căn bản. Biệt đãi nông dân lao động ‘’thăng tiến Cần Lao’’ và ‘’lao tư lưỡng lợi’’ nghĩa là làm thế nào cho hai bên đều được lợi, do đó phải định mức lương tối thiểu, mức địa tô hợp lý, và thi hành luật lệ về an ninh, bảo hiểm và cứu tế xã hội. Tỷ dụ: Chủ và thợ cùng dự vào việc quản trị xí nghiệp. Sau khi trả công thợ, phải trích một số tiền để xây nhà thương, trường học, nhà giải trí cho thợ thuyền và bảo hiểm tai nạn lao động bằng quỹ bù trừ, tạo hình thức kết ước cộng đồng.
Cải tạo quy chế lao động, quy chế nghiệp đoàn tư bản và lao động, để dung hòa quyền lợi chung và cá nhân.
Để bảo đảm đời sống của lao động cần phải có quy chế lao động và nghiệp đoàn để giáo dục và cải tiến lao động. Nghiệp đoàn sẽ là nơi giáo dục thợ thuyền và gia đình của hắn, chứ không thể biến thành đoàn thể đối lập, căm thù tư bản mà cộng sản thường lợi dụng. Khế ước cộng đồng sẽ bảo đảm quyền lợi cho đôi bên: Tư bản và lao động một cách hợp lý.
Vì rằng, muốn khuyết trương kinh tế phải cần có tư bản và Cần Lao. Bởi thế, quyền lợi đôi bên phải được dung hòa. Chủ Nghĩ Nhân Vị chủ trương tranh đấu cho quyền lợi của giới Cần Lao, bằng cách phục hồi cho họ quyền lợi và khả năng để phát triển Nhân Vị mình, mà không tổn hại đến quyền lợi giới khác.
Chương trình tranh đấu chia làm hai giai đoạn:
1.- Giai Đoạn I:
Với khẩu hiệu ‘’thăng tiến Cần Lao’’, chủ nghĩa tranh đấu cho giới Cần Lao, có một số lương khả dĩ nuôi sống mình, gia đình mình, và đủ nuôi con cái đi học. Người thợ phải có một mái nhà, một sản nghiệp, và một số tiền dự phòng khi tai ương, vận rủi, ốm đau, bịnh tật, già cả.
Tiền công không tính theo việc làm, mà tính theo phí tổn gia đình người thợ, nhưng cũng căn cứ theo: Thời gian tùng sự, cấp bực trong cơ quan, khả năng chuyên môn của người thợ.
Khi trả tiền phụ cấp gia đình cho người thợ như vậy, người chủ không được coi là một cử chỉ làm phước của mình mà chỉ làm phận sự theo lẽ công bình trong xã hội mà thôi. Nhưng ở tình trạng đó, Chủ Nghĩa Nhân Vị cũng chưa đủ điều kiện cần thiết cho người thợ phát huy hết khả năng nhân vị mình, cũng như óc sáng kiến, tinh thần trách nhiệm, sức nỗ lực và tình đoàn kết. Thuyết Nhân Vị cũng cố thắng lợi ở giai đoạn đầu, để làm bàn đạp chuyển sang giai đoạn hai.
2.- Giai Đoạn II:
Chế độ tiền công nói trên không bất công, nhưng nó chưa phục vụ con người đúng mức. Chế độ ‘’lao tư lưỡng lợi’’ ở giai đoạn 2 nấy, đã được áp dụng ở vài nước Âu Tây như Thụy Sĩ, Bỉ, Pháp.
Mối liên hệ giữa chủ và thợ thắt chặt hơn. Thợ phải được cộng tác với chủ trong công việc, cũng như chia huê lợi và quản lý xí nghiệp. Chủ và thợ góp phần mình vào công việc chung. Thợ đem sức Cần Lao nhân vị, chủ bỏ vốn, máy móc và nhiên liệu: Kẻ công người của, nên ‘’lao tư lưỡng lợi’’.
Huê lợi là công của đôi bên, nên đôi bên đều được hưởng. Dĩ nhiên chủ vì có vốn và máy móc phải được chia phần nhiều hơn.
Nếu thực hiện được chương trình tranh đấu ở giai đoạn 2 nầy thì người thợ sẽ ý thức được địa vị của mình mà cố gắng tăng năng xuất, và giữ gìn dụng cụ máy móc cho chủ. Như thế chủ và thợ sẽ không còn chống đối nhau, mà sẽ xem nhau như anh em đồng tình đồng lực trong một kinh doanh chung.
I.- VẤN ĐỀ CHÁNH TRỊ
Theo Nhân Vị Chủ Nghĩa, thì chánh trị là một biểu thị của Nhân Vị, nghĩa là việc con người phải làm, để xứng mình là Nhân Vị. Cho nên hoạt động chánh trị là sự sinh hoạt của mọi người chớ chẳng của riêng ai, và hoạt động ấy nhằm phục vụ cho mọi người trong xã hội chớ chẳng phải mưu lợi cho cá nhân nào, một giai cấp nào hay một đảng phái nào.
1.- Nhà nước và quyền hành.
Không cần lý luận dài dòng, ta cũng nhận thấy trong bất cứ một quốc gia tự do nào cũng gồm 2 sự kiện Quản Trị và Thụ Hưởng.
Quản trị thuộc phần Chánh Phủ, thụ hưởng thuộc phần nhân dân.
Khi sáng tạo con người thì Thượng Đế đã ban cho cái quyền in ghi trong lý trí, để tự điều khiển lấy mình, và cũng ban cho con người cái bản tính hợp quần thành xã hội.
Nay đã quy tụ thành quốc gia xã hội, thì phải sống có trật tự, để đồng tiến đến hạnh phúc. Vậy do đó phải có cái quyền hành chung, để sắp đặt và hướng dẫn (quản trị) mọi người đồng tiến đến hạnh phúc (thụ hưởng).
Trong một quốc gia thì quyền quản trị ấy thuộc nhà nước hay chính phủ.
Nhưng quyền là gì? Quyền là một nguyên tắc thống nhứt và trật tự, có thể tập trung cả lực lượng cá nhân (mỗi ngày) quy vào công ích, trong một xã hội (quốc gia). Nhưng bất cứ trên lãnh vực nào. Quyền cũng không được lợi dụng công ích mà bóc lột nhân dân.
Mục đích là hạnh phúc chung, hay công ích công lợi, sẽ không bao giờ đạt được, nếu thiếu sự tuân phục chính quyền (chứ không phải ngụy quyền).
Song quyền hành nầy có phải dựa trên vũ lực để áp bức nhân vị không? Thưa không. vì nếu dựa vào vũ lực, thì cường quyền sẽ áp công lý, và quyền ấy sẽ bị ‘’con người hữu lý tính’’ dựa vào công lý mà phản dân ngay.
Quyền có phải do nhân dân ban cho không?
Thưa không. Vì con người là loài thọ sinh, chịu luật luân lý thiêng liêng chi phối, thì con người không thể tạo quyền và ban quyền để điều khiển luân lý được (luân lý là trật tự theo thiên lý).
Quyền bính xã hội là quyền điều khiển con người theo trật tự thiên lý.
Vả lại nếu con người ban quyền, thì con người có thể dựa vào quyền của kẻ cho, mà giựt lại lúc nào cũng được. Như thế sẽ đến hỗn loạn và vô chính phủ (theo Đức Giáo Hoàng Léo XIII).
Quyền có phải do tay Chánh Phủ tự ban cho mình không?
Thưa cũng không nốt. Vì nếu tự tay chính phủ ban cho mình, thì không được. Vì chính phủ là con người, cũng không ngoài vòng thọ sinh, làm sao tạo ra được luân lý cho mình, mà tự tạo ra quyền điều khiển.
Vả lại, nếu chính phủ tự ban quyền, thì chính phủ sẽ tự do thao túng và trở nên độc tài, ta không quyền phản đối. Hơn nữa, nếu quyền do chính phủ tạo ra, thì theo như Cicéron thách đố, chính phủ hãy dùng quyền mình đã tự tạo mà hợp thức hóa (nghĩa là nhìn nhận) mọi sự ác, cho tiện việc xử sự, xem có được không? Nếu được thì sẽ là loạn chứ không phải bình.
Vậy quyền hành xã hội do đâu mà có?
Xin thưa, ai ban cho con người bản tính xã hội, thì ban quyền xã hội, để chỉ huy và hướng dẫn xã hội đến hạnh phúc chung. Tạo hóa đã tạo ra con người có bản tính xã hội (theo Aristote) thì dĩ nhiên Tạo Hóa ban cho quyền hành xã hội. Vậy từ nguồn gốc thiêng liêng và bản tính của nó, quyền hành xã hội là lành mạnh, là công lý bất di dịch.
Như thế, dân chủ không có nghĩa là dân có quyền chỉ huy mình trong xã hội hay sao? Xin thưa, với bản tính tự chủ của con người, thì chính con người điều khiển đời sống cá nhân của mình theo lý trí và lương tâm. Nhưng trong đời sống chung, theo thực tế riêng biệt (nguyên nhân và hiệu quả không thể một). Đành rằng, chính phủ là thành phần nhân dân, nhưng khi được chọn cầm quyền thì chính phủ và nhân dân là hai yếu tố: Một hành pháp và một tuân pháp. Bởi thế cho nên khi phạm pháp thì chính phủ không còn là hành pháp nữa mà đã trở thành phạm nhân. Ngay như nhà lập pháp, khi tuân luật, thì họ cũng đã ở vào hoàn cảnh khác rồi.
Chẳng hạn như khi xưa ông Nguyễn Văn Thành (pháp gia triều Nguyễn) đã bị kết án tử hình bởi ‘’luật yêu ngôn’’ (có ý phản loạn trong văn thơ), của chính ông lập ra. Nói khác đi, lúc lập luật, thì ông Thành là pháp gia, nhưng khi phạm luật, thì ông đã trở nên một can nhân vậy.
Vậy tuyển cử không có nghĩa trao quyền là gì? Thưa không. Tuyển cử là dấu dân có quyền chọn người tài đức, thay mình lãnh quyền chỉ huy dân tộc.
Xin kết luận rằng: Quyền do Thượng Đế ban sẵn rồi. Dân chỉ chọn người thay mình sử dụng quyền ấy để mưu hạnh phúc chung.
Dân có thể đổi chế độ, thay người cầm quyền, còn quyền là công lý bất di dịch, con người không sáng tạo ra nó và cũng không thay đổi bản tính công lý của nó được.
Một triết gia nhân vị Pháp, J. Maritain đã nói trong vấn đề nhà nước với con người rằng: ‘’Một quyền hành bất công, không phải là một quyền hành, cũng như một luật lệ bất công, thì không phải là một luật lệ’’.
2.- Quyền hạn của người dân đối với nhà nước.
Trong bất cứ chế độ nào, chính quyền muốn trở thành bất công, nghĩa là đi ngược lại nhân vị, thì chính quyền ấy tự nó đã trở thành ngụy quyền, tàn bạo và phải dựa vào độc tài và vũ lực (phi nhân, phi lý). Quyền của cộng sản là một bằng cớ. Vậy khi tuân phục một chính quyền, người dân không phải nô lệ như dưới chế độ ngụy quyền quân chủ của các tên ác chúa hay của cộng sản độc tài. Ở đâu có chính quyền (đúng theo uyên nguyên và bản chất của nó), thì ở đó, người dân có tự do chọn người tài đức thay mình cầm quyền quản trị.
Bọn ác chúa thì cho rằng, họ là dòng dõi luân phiên nhau thay Trời trị dân, cũng như cộng sản cho họ có bổn phận trị dân, vì họ có ‘’sứ mạng lịch sử’’ phải thi hành. Theo quan niệm Dân Chủ Nhân Vị, thì người cầm quyền do dân chọn. Bởi lẽ ấy, nên khi người cầm quyền đã mất tài đức, biến chính quyền thành ngụy quyền, thì dân sẽ dựa vào tự do thiêng liêng của mình mà truất phế kẻ ấy, để chọn người khác đủ điều kiện tài đức thay vào (ý nghĩa cuộc chọn Ngô Chí Sĩ, thay thế hôn quân Bảo Đại trong kỳ trưng cầu dân ý 23.10.1955).
Tuy nhiên, trên căn bản tôn trọng nhân vị kẻ khác (tránh tàn sát) người dân dựa theo nguyên tắc dân chủ và truất quyền chính phủ một cách ôn hòa và hợp pháp, bằng cuộc tổng tuyển cử theo Hiến Pháp quy định.
Chỉ trong trường hợp, kẻ cầm quyền mà ngoan cố, chống lại nhân dân, thì bất đắc dĩ và cũng theo thiên lý, nhân dân mới dùng đến biện pháp cuối cùng là cách mạng bạo động, (như trường hợp nhân dân Ba-lan, Hung-gia-lợi và Việt Bắc chống cộng sản bằng vũ lực) để thay người, hoặc đổi chế độ. Bởi đó mà người cầm quyền nên có ý thức Dân Chủ và Tự Do cho rõ ràng và thiết thực, để tránh cuộc cách mạng tổn thương nhân vị của nhân dân.
Về phía chính quyền, vì lý do bảo vệ nhân vị, và vì hạnh phúc chung của nhân dân, nhà nước (của chính quyền chứ không phải thứ mà nhà nước của ngụy quyền cộng sản) được quyền bắt buộc nhân dân phải thi hành phận sự do luật pháp của nhân dân ‘’hữu lý tính’’ quy định, qua hình thức dân biểu, để được hưởng quyền lợi quy định trong Hiến Pháp.
Nên lưu ý rằng, Dân Biểu Quốc Hội lập pháp, hay các nhà làm luật thay dân, chỉ chép lại Thiên Luật, vì không có luật pháp nào, dù trong thực hành có độc tài đi nữa, ngoài mặt giấy tờ cũng không dám nêu nguyên tắc gì ngược lại hữu lý tính và quyền lợi nhân vị.
Nhà nước cũng có thể dùng biện pháp vũ lực trong hai trường hợp sau đây.
a.- Khi một cá nhân hay một nhóm người đe dọa sự độc lập vật chất, hay tự do tinh thần của một nhân vị.
b.- Khi một cá nhân hay một nhóm người không tuân kỷ luật chung, do họ đặt ra để bảo vệ trật tự an ninh và ích chung.
Tuy không được đặt trên quyền lợi nhân vị, nhưng trong phạm vi của nó, nhà nước phải có đủ thẩm quyền, thì quyền ấy mới phục vụ nhân vị có hiệu lực.
3.- Dân Chủ.
Những hình thức dân chủ không cần. Nhân Vị chỉ đòi hỏi một nền dân chủ thật sự cho mọi người.
Chủ Nghĩa Nhân Vị quan niệm rằng dân chủ là một lý tưởng (hay một trạng thái tinh thần như Ngô Tổng Thống đã nói). Muốn tiến đến đó, nghĩa là đến sự thực hiện Dân Chủ Hoàn Toàn, thì Nhân Vị phải qua một sự giáo dục già giặn, phải có một nhân cách đúng đắn, biết suy xét và biết lựa chọn.
Nó không phải là hành trình của một ngày một buổi, mà phải là một cuộc du lịch chậm rãi lâu dài. Nó cũng không phải là kết quả dĩ nhiên và hoàn toàn đầy đủ, sau khi công bố một Hiến Pháp Dân Chủ; mà nó là công trình của tổ tiên để lại qua nhiều thế hệ, và cũng là công trình học tập dần dần của mỗi công dân.
Mặc dầu là lý tưởng, nhưng Dân Chủ không phải là ảo mộng, mà nó là một lý tưởng vững chắc căn cứ trên quyền lợi xác thực của Nhân Vị.
Bởi vậy Dân Chủ không phải một vài hành động lẻ tẻ, mà là tất cả các cuộc sinh hoạt của con người trên mọi ngành, có tính cách Tôn Trọng Nhân Vị.
Điều mà Chủ Nghĩa Nhân Vị chú trọng nhất là ‘’Dân Chủ không phải là quyền tối trọng của đa số, một hình thức của áp lực, mà Dân Chủ là sự tìm tòi phương sách chính trị để bảo đảm cho mọi Nhân Vị sống trong xã hội có quyền tự do phát triển và hoàn thành trách nhiệm’’ (Theo ông Mounier triết gia Nhân Vị Chủ Nghĩa). Bởi thế mà nhà nước phải sáng suốt lèo lái nhân dân đến bờ hạnh phúc, và khéo hướng dẫn họ nhận định được sự chân ích, vì có khi, bởi chưa kịp giác ngộ mà họ lầm lẫn Chính với Tà, và bị ngụy thuyết lừa gạt.
Để nhân dân được trực tiếp tham chính, thì Chủ Nghĩa Nhân Vị chủ trương chế độ Dân Biểu, bằng cách phổ thông đầu phiếu, và cũng nhận thái độ đối lập, để giúp đỡ chính phủ tránh sai lầm, bởi vì ‘’việc người thì sáng mà việc mình thì quáng’’.
‘’Nhưng phải nói rõ rằng chỉ có sự đối lập trên phương pháp thực hiện, chứ không thể nói đối lập trên căn bản’’, nghĩa là không có đối lập bằng Tôn Chỉ đi ngược lại Nhân Vị, để phụng sự cho đoàn thể hay ngoại bang. Chính Ngô Lãnh Tụ, trong huấn từ cùng Cán Bộ Công Dân Vụ cũng xác nhận rằng: Trong một nước Dân Chủ, nhà cầm quyền nào cũng nhận lời phê bình chỉ trích xác đáng của phe đối lập. Nhưng người đối lập cũng phải tôn trọng nguyên tắc dân chủ, và phải có óc xây dựng. Đối lập mà chỉ nghĩ đến tham vọng riêng, chỉ muốn đảng trị, rồi dùng phương tiện bất chính, tuyên truyền xuyên tạc, đi đôi với kẻ thù dân tộc, vu khống chính phủ, hay âm mưu bạo động, hòng uy hiếp chính quyền và dư luận, thì không phải là đối lập dân chủ, mà là phiến loạn, phản quốc, phản đối’’. (Huấn từ cùng Cán Bộ Công Dân Vụ ngày 5.9.1955). Có thể kết luận rằng: Dân chủ thực sự, theo quan niệm nhân vị, chỉ có thể thực hiện được, là khi toàn dân có một trình độ giác ngộ và hiểu biết cần thiết, nghĩa là từng người một phải cố gắng học tập để xây dựng cho mình một Ý Thức Hệ Dân Chủ. Thứ đến, là mỗi người trong toàn dân, kể cả người thi hành dân chủ, phải biết hy sinh chút ít quyền lợi của mình cho ích chung, nghĩa là tự nguyện sống một lối sống dân chủ. Tóm lại, là có ý thức dân chủ rồi, còn phải tự nguyện một lối sống dân chủ, mới có thể dung hòa đời sống và tư tưởng của mọi người thành một chính thể dân chủ được.
Trong khi tiến đến giai đoạn toàn dân tự nguyện tự giác, thì Dân Chủ Nhân Vị, đã được thể hiện một phần lớn trong thực tế, là hình thức Dân Biểu Quốc Hội, thể thức ứng cử và tuyển cử phổ thông, sự nhìn nhận các quyền lợi căn bản của con người và sự phân quyền lập pháp (do Quốc Hội), quyền hành pháp (do Tổng Thống) và quyền tư pháp (do các Thẩm Phán với tính cách độc lập trong nhiệm vụ).
M.- VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Nói đến xã hội là nói tổ chức gia đình, chính trị, kinh tế, giáo dục và cứu tế...,nhưng, xuyên qua những vấn đề thảo luận trên, ta cũng có thể ý thức được phần nào đại cương của xã hội nhân vị, một xã hội cần phải có điều kiện thuận tiện và khẩn thiết để giúp được nhân vị chu toàn thiên chức. Nhân Vị Chủ Nghĩa quả quyết rằng con người sống, phát triển nhân vị mình và thi hành sứ mạng cao cả được là nhờ ở xã hội.
Bởi vậy, Nhân Vị là mục đích, xã hội là phương tiện để nhân vị thực hiện sứ mạng mình.
Nếu lấy nhân vị làm phương tiện để phụng sự cá nhân như Tư Bản Chủ Nghĩa, hay phụng sự đảng như cộng sản chủ nghĩa là sai.
Nhân Vị do một nguồn gốc thiêng liêng có một giá trị tuyệt đối, còn xã hội do nhân vị hợp thành. Qua thời gian, xã hội bị tiêu diệt hay thay thế, nhưng nhân loại (gồm nhiều nhân vị) vẫn trường tồn.
Nhân vị là một hữu thể tuyệt đối độc lập, nên không bao giờ được coi như một phần của toàn bộ, như của gia đình, của giai cấp, của nhà nước hay quốc gia, hay của một bộ phận trong guồng máy xã hội như cộng sản nghĩ. Nói khác đi, nhân vị là phần tử độc lập và tự do hợp thành quốc gia xã hội. Trong các xã hội kể cả nhân loại, các nhân vị đều có giá trị ngang nhau và đều có quyền lợi trên xã hội tùy theo nhiệm vụ của mình. (Một người ở không, không thể có quyền lợi như một người tận tâm Cần Lao sản xuất). Nếu có nhà nước, là để phụng sự cho con người, chớ con người không phải sinh ra để phụng sự cho nhà nước như cộng sản chủ trương; hay phụng vụ vua chúa như dưới chế độ quan chủ chuyên chế ngày xưa. Theo ông Berdiaeff, một chiến sĩ nhân vị người Nga, thì ‘’Chính phủ và quyền bính, là công bộc bảo vệ quyền lợi con người’’. Chính Ngô Tổng Thống, một nhà chính trị nhân vị lỗi lạc hiện thời, cũng luôn nhắc nhở rằng: ‘’Công chức là công bộc của dân’’.
Nếu Chủ Nghĩa Nhân Vị bảo vệ con người chống lại áp bức xã hội, thì chủ nghĩa ấy cũng cung cấp cho xã hội, mọi phương diện đầy đủ, để xã hội giúp con người hoàn thành sứ mạng. Xã hội vì thế cũng có quyền hành và quyền hành ấy nằm trong tay chính phủ, và Nhân Vị phải tuân theo để thực hiện ích chung.
Vì ích chung, con người có thể hy sinh mạng sống và chính ở sự hy sinh nầy là chỗ nhân vị hoàn thành sứ mạng đối với Thượng Đế vậy.
Đây là trường hợp của các vị anh hùng xưa đã bỏ mình gìn giữ giang san đất việt, và các chiến sĩ ngày nay trên thế giới đã bỏ mình để chống Cộng, bảo vệ nhân vị của con người.
Trong xã hội, mỗi người đều là nhân vị ‘’bình đẳng về phẩm cách quyền lợi và nhiệm vụ’’ nên phải hòa hợp những quyền lợi và chân ích để tránh xung đột giữa người và người, cũng như giữa người và xã hội, để mưu hạnh phúc chung cho mọi người.
Muốn thấy ta không bị chìm đắm hay bé nhỏ trong xã hội, Chủ Nghĩa Nhân Vị kêu gọi con người hãy trở về với những cộng đồng nhỏ, như gia đình nghiệp đoàn, làng xã..., để mình ý thức được giá trị nhân vị của mình cao trội hơn. Và cũng trong những cộng đồng ấy, ta phát triển cho nhân vị ta và giúp các nhân vị khác phát triển như ta, để cùng nhau ‘’phát triển cộng đồng’’, trong các công tác xã hội, để cùng nhau ‘’đồng lao cộng hưởng’’, những hạnh phúc của chính mình tạo ra, dưới sự hướng dẫn của chính quyền và các chuyên viên do chính quyền cung cấp.
Chủ Nghĩa Nhân Vị chủ trương một xã hội không giai cấp, nghĩa là không vì lý do sinh đẻ trong gia đình sang hèn, hay vì lý do tài sản nhiều ít, mà nhân vị có quyền lợi hơn kém nhau. Cũng không có ai, đương nhiên là người thống trị, mà cũng không ai đương nhiên là người bị trị.
Nhưng chủ trương không giai cấp, không có nghĩa là không phân biệt nhà đạo đức với kẻ gian hùng, người bất lực với bực tài ba.
Trái lại, xã hội nhân vị càng chú trọng giúp đỡ tài ba phát triển đứng mức để phục vụ nhân loại, và đề cao Đạo Đức để hướng dẫn con người về hướng Chí Thiện, hầu xây dựng một xã hội lành mạnh có nhân đạo, có công bằng, trong đó có mọi người đều tiến đến hạnh phúc như nhau, đúng với chủ trương ‘’Đồng Tiến Xã Hội’’ trong sự tôn trọng nhân vị của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Ngô Tổng Thống lãnh đạo ngày nay.
N.- VẤN ĐỀ VĂN HÓA
Rất có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có người cho văn hóa là những ngành hoạt động về tinh thần. Kẻ khác cho ‘’văn hóa là thành tích của sự gắng sức của loài người từ dã man đến văn minh tiến bộ’’. Người Duy Vật thì bảo rằng: ‘’Về phương diện động thì văn hóa là ý thức hệ của quá trình tranh đấu giai cấp trong một xã hội nhứt định’’.
Trong phần đông quần chúng lại nghĩ rằng văn hóa là sức học nên thường nói rằng ‘’anh ấy văn hóa khá lắm’’ nghĩa là anh ấy học khá lắm.
Đứng trên lãnh vực của Chủ Nghĩa Nhân Vị Duy Linh thì ‘’văn hóa là tất cả những hoạt động để thỏa mãn những nhu cầu tinh thần và vật chất nhằm mục đích phát huy nhân vị’’.
Nhận rằng con người có thể xác và tinh thần tức là nhận phần lý trí của con người. Con vật thiếu lý trí nên không có văn hóa. Văn hóa phải khởi hành ở con người, có giá trị thiêng liêng, và cũng phải nhằm phục vụ con người trên bực thăng tiến hóa về tinh thần nhiều hơn về vật chất, nghĩa là làm sao phát huy được giá trị con người cả 2 phần: Thể xác và đặc biệt là Tâm Linh. Cái nghịch lý của văn hóa ở mấy thế kỷ gần đây là đã phục vụ con người quá nhiều về vật chất, gần như quên hẳn tinh thần. Nhứt là sau 2 trận thế chiến, khoa học lại đi lên còn đạo đức thì đi xuống.
Văn hóa nhân vị chủ trương quân bình khoa học và đạo đức, nghĩa là 2 yếu tố nầy phải song hành mà tiến, để đạo đức có thể hướng dẫn khoa học phục vụ cho hạnh phúc của con người, thay vì tàn sát hắn một cách dã man.
Hiểu như thế thì theo Nhân Vị Chủ Nghĩa, văn hóa phải được thể hiện trong các ngành hoạt động của con người trong cuộc sống như: Chánh trị, kinh tế, xã hội, khoa học, tôn giáo v.v...
‘’Nhân vị’’ chỉ tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp địa vị thì ‘’văn hóa nhân vị’’ cũng phải được phát huy trong tất cả mọi người. Vậy văn hóa phải có tính cách đại chúng, nghĩa là tư tưởng (ý thức hệ) phải hướng dẫn đại chúng đến một đời sống phù hạp, và xứng đáng địa vị con người. Hình thức phải được thành thực, giản dị và dễ hiểu. Nhưng đại chúng hóa văn hóa như vậy không có nghĩa chạy theo thị hiếu tầm thường của quần chúng, mà trái lại hướng dẫn dần dần quần chúng từ thấp đến cao, trong sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần, và huấn luyện thị hiếu của họ theo quan niệm thẩm mỹ và thanh cao để biết đối chiếu giá trị mà lánh dữ chọn lành.
Đời sống con người có hạnh phúc hay lầm than, một phần lớn là do văn hóa có lành mạnh, thanh cao, hạp nhân bản, hay ủy mỵ, đê hèn, phi nhân, vô đạo.
Để thực hiện văn hóa nhân vị nói trên, về phần tiêu cực thì Chính Phủ Cộng Hòa Việt Nam cương quyết đả phá những tệ đoan xã hội do chế độ thực dân phong kiến để lại, bằng cách thay đổi chương trình giáo dục ngu dân của Pháp, cùng với phương pháp nhồi sọ của chế độ cũ; bài trừ tứ đổ tường, cấm chỉ các sản phẩm văn nghệ suy đồi, như sách vở báo chí, hình và phim ảnh có tính cách khiêu dâm, hay thương luân bại lý. Về mặt tích cực, chính phủ đã xây dựng một đời sống mới, với Phong Trào Khỏe: Lập lại chế độ lương hướng cho các hạng lao công cải thiện đời sống thôn quê cũng như thành thị bằng một nền kinh tế nhân vị, để con người sống xứng đáng là con người; cống hiến cho đồng bào những cuộc giải trí lành mạnh thanh cao, và mở rộng nền giáo dục thêm sâu rộng khắp trên lãnh thổ nước nhà.
IV.- KẾT LUẬNĐã ý thức được rằng nhân loại đang lúng túng trong 2 nẻo bế tắc của cá nhân và cộng sản chủ nghĩa thì con người Nhân Vị ‘’linh hơn vạn vật’’ không lẽ bó tay ngồi chờ chết, trong khi ánh sáng Duy linh đã chiếu rọi cho mình một lối thoát quang đãng thênh thang.
‘’Đường Về Nhân Vị’’ đã mở rõ dưới ánh bình minh buổi sáng, giờ giải thoát vang lên như chuông báo hiệu một hạnh phúc huy hoàng, thì chúng ta còn chờ gì mà chưa kiện toàn thể xác và cải tạo tinh thần để góp phần với nhân loại, thúc đẩy cuộc cách mạng nhân vị mau sớm thành công.
Con đường Nhân Vị, mở thênh thang
Dân Chủ, ngày thêm rực nét vàng.
Bến Hải, mai đây, cầu nối nhịp,
Người Nam, thống nhứt nước non Nam.
Phan Quốc Ninh
(cựu khóa sinh Nhân Vị)