← Quay lại trang sách

CHƯƠNG BẢY NÚI ĐỒI, CHÙA CHIỀN, MÁY BAY

Tháng giêng đã đến, nhưng ở sâu dưới phía nam, chúng tôi thấy ngày vẫn ấm tuy ban đêm có lạnh. Buổi sáng, chúng tôi thức dậy ngay từ lúc bình minh ló dạng. Dưới màn sương trắng đục, chúng tôi đi dạo trên những đường phố còn im ngủ, các cửa hàng còn đóng chặt sau những cánh ván. Chúng tôi đi vượt qua ngôi chùa có bức tường mầu đỏ, rời làng và leo lên đồi theo một con đường dốc dẫn đến ngọn suối mà chúng tôi thường tắm. Tất cả mọi vật đều bị sương mù che khuất. Sương bám vào sườn núi như thể núi mặc áo khoác. Dọc theo con suối, hàng thông im lìm khuất sau lớp sương. Một dòng thác nhỏ phóng vào khoảng không rồi rơi xuống vỡ tan, sủi bọt trắng ngầu trên nghềnh đá ngay trước mặt chúng tôi. Chúng tôi lội ngược dòng nước lạnh như đá. Bàn chân chúng tôi cũng nhậy cảm như hai tay, nó bám chặt lấy những phiên đá bị nước mài tròn nhẵn thín, nó dọ dẫm trên lớp rêu trơn trượt của các nghềnh đá...

Mặt trời lên cao. Dọc theo đường nước, những đám sương mù còn sót lại tan dần trong ánh nắng mai. Thấp dưới chân đồi, chúng tôi thấy những mái nhà lẫn trong vòm lá lớn, những trại quân rải rác chung quanh. Cả Nam-Ninh hãy còn yên ngủ, chỉ trừ những đợt khói bốc lên, lườn lờ giữa đám lá cây. Từ các trại luyện quân, tiếng lệnh hô vang lên với tiếng đáp của hàng trăm giọng một lượt. Các toán quân đã bắt đầu tập dượt. Xa hơn, cảnh vật khoác một mầu trắng mờ: những mầu xanh lá cây, xanh lam, xám chìm lẫn trong một mầu trắng đục như hơi nước, những dẫy đồi uốn khúc hướng tây đông cứ nhạt dần, biến từ xanh sang trắng.

Đôi khi, vào buổi tối, chúng tôi đùa nghịch đuổi nhau như những trẻ con khắp chung quanh làng, rồi cùng chạy vụt ra con đường cái, cùng cười ngất. Thế nào người ta cũng cho là hai đứa chúng tôi hơi khùng và thiếu tư cách. Ngoài tiếng ồn ào cười nói, tiếng rao hàng, ta còn nghe tiếng nước chảy róc rách dưới chân cầu. Ta còn nghe thấy cả tiếng chuông chùa, tiếng trống văng vẳng trong các tuần cúng trăng. Cũng có cả cái giọng the thé của các cây kèn đồng vào lúc chiều tà...

Vào những ngày trăng đầy, ta nghe thấy tiếng chuông chùa đổ vào lúc nửa đêm và lúc bình minh - chậm rãi, thật chậm rãi. Rồi, bắt nhịp với tiếng trống, tiếng chuông đổ liên hồi lẫn với giọng tụng kinh lầm rầm của hàng trăm người. Các người đi lễ, đàn ông, đàn bà đi từ bàn thờ này sang bàn thờ kia để khấn khứa. Trước mỗi bức tượng họ lại cắm hai ba cây nhang nghi ngút cháy. Cửa chùa rộng mở chào đón tất cả mọi người. Pao và tôi thường tản bộ hàng giờ trên các sân chùa.

Ngày nào chùa cũng đầy người cúng vái hoặc ngắm cảnh. Tại Trung-Hoa chùa chiềng vừa là nơi thờ phượng vừa là nơi giải trí. Trên đại điện, khói hương mờ mịt, các nhà sư đang ê a đọc và giảng các quẻ sâm cho các thiện nam tín nữ, người khác đang quỳ trước các tượng Phật đốt nhang, lần tràng. Phía ngoài, những người đi ngắm cảnh dạo trên những dẫy sàn lát đá vàn, ngắm nghía hàng lan can trạm trổ. Mỗi cây cột được đặt trên cái bệ hình bông sen trắng muốt và những phiến đá ngăn đều được trạm trổ đủ các hình thù: mây, nước, đá, cây, hổ báo, những chú nai hiền lành sợ sệt, những chú ngựa đang khom chân dậm, những con kỳ lân đang phì lửa, thôi thì đủ loại muông thú như trong một cuốn sách hình.

Chúng tôi đã thành tín đồ trung thành của cái vẻ đẹp và không khí yên tịnh của ngôi chùa này. Trước khi bình minh ló dạng, chúng tôi thường đến đây, ngồi xếp bằng trên sân đá trước đại điện, đắm mình suy tưởng...

Đó là giờ tụng kinh buổi sáng, các nhà sư mặc áo cà sa xám, xếp hàng một đi dọc theo dẫy cửa tò vò. Hàng nến bập bùng trên các bàn thờ, trước các bức tượng Phật uy nghi trên tòa sen, bao mắt lim dim, môi hé nụ cười an hòa trong bóng tối, tay bắt ấn chữ nhất chỉ thẳng lên trời. Các nhà sư ngồi thành hàng ngay ngắn trước bàn thờ, lầm rầm đọc kinh theo nhịp mõ đều đặn và chắc nịch như tiếng tim đập. Những dẫy sân trải dài vào tận bóng đêm đầy khí mát. Những thân cây thông, cây bá thẳng tắp đứng sừng sững như hàng cột. Những ngọn cây cao và mái chùa, đều vàng rực lên mầu mặt trời mọc. Trên nóc chùa những con rồng vàng uốn khúc, hàng thú nối đuôi nhau kéo xuống tận mép ngói. Dưới mái hiên những chiếc chuông treo lủng lẳng, im lặng trong bầu không khí yên tĩnh của buổi mai.

Trên chiếc lư đồng to đặt ngoài sân giữa, khói hương bốc lên nghi ngút giữa những nhánh cây trắc bá thành những cột trắng mỏng, tách ra rồi tỏa rộng, tan biến vào cõi vô hình. Tâm hồn chúng tôi cũng thế, trong khi chúng tôi ngồi đây, đắm mình trong giây phút mặc định: thế giới lùi xa, cái "ngã" biến mất hòa lẫn và nhập vào với cái yên bình đang bao trùm mọi vật.

Một tối sau giờ tụng kinh chiều, nán lại chùa mặc dù những người khác đã về hết, chúng tôi đi dạo quanh trên các con đường lát đá lấp loáng ánh trăng. Khi đi qua cửa của gian đại điện, nhìn vào trong, chúng tôi thấy một ngọn đèn cháy leo lét trước bàn thờ Phật. Một nhà sư ngồi xếp chân vòng tròn, tay đang lần tràng hạt miệng lầm rầm đọc kinh. Như bị thúc đẩy bởi một sức mạnh vô hình, chúng tôi cùng bước vào, nghiêm trang đứng trước bàn thờ, mắt ngước nhìn khuôn mặt vàng mờ ảo, cân đối của bức tượng Phật ngồi chính giữa. Cả Pao lẫn tôi đều không theo đạo Phật, nhưng tâm linh chúng tôi không khỏi rung động trước những lời tụng niệm từ bao thế kỷ qua và trước cái cảnh toàn thiện toàn mỹ, hoàn toàn yên bình này. Pao thốt lên:

- Nếu ngài là hiện thân của lý tưởng công bình bác ái mà chúng con tôn sùng, xin ngài hãy che chở cho chúng con, vì lòng chúng con đều trong sạch.

Chúng tôi cũng long trọng nghiêng mình chào như chào một vị hoàng đế.

Trên bước đường chông gai, chúng tôi tận hưởng quãng thời gian tuyệt vời ở Nam-Ninh này, và coi đó như là thời gian ngưng đọng tạm thời của định mệnh. Nhưng cũng trong cuộc nghỉ chân này, chúng tôi đã thu lượm lấy cái sức mạnh để đối phó với những đau khổ trong tương lai. Chúng tôi đặt những ngày tuyệt vời đó sang bên làm trừ bị - nhẵn nhụi và sáng láng như những hạt ngọc lấp lánh trên một sợi giây - để có thể triệu dụng trong ngày phân ly. Ngay trong quãng thời gian ngắn ngủi đó, khi chúng tôi chỉ cần có nhau là đủ sung sướng, chúng tôi cũng không thể nào tránh được việc nối lại các mối giây quen biết cũ và tiếp nhận thêm những người quen mới. Chúng tôi cố hết sức tránh những bữa ăn buồn nản hay những buổi mạt chược dài dặc và ngu xuẩn, nhưng đôi khi cùng với hai ba người bạn, chúng tôi cùng leo lên ngọn Tô-Vân-Phong khi đẹp trời.

Pao được nghỉ phép hai ngày. Chúng tôi có thể bỏ ra một ngày để leo cho hết con đường dốc, lên đến tận ngôi chùa trên đỉnh núi, ngủ tại đó một đêm và trở về vào sáng hôm sau... Hai người bạn Vũ-Quế-Phan và Vương-Vũ-Liên đến kiếm chúng tôi. Sau này Vũ-Quế-Phan phải trải qua một cuộc thử thách cam go với chúng tôi, một người hoàn toàn tin cậy và luôn luôn vui vẻ... Định mệnh cũng an bài để Vương-Vũ-Liên sẽ cùng chung với chúng tôi một cuộc phiêu lưu khác cực nhọc hơn gấp bội phần. Đó là một cô gái nhỏ thó và mảnh dẻ với những lọn tóc uốn quăn giống như kiểu mới nhất của những minh tinh điện ảnh Hoa-Kỳ, trái ngược hẳn với cái "sường sám", thẳng và giản dị bằng hàng vải xanh thô đang mặc trên người. Hôn phu của Liên là Phu-Quang-Tỷ, cùng làm việc một chỗ với Pao. Nhẽ ra anh ta cũng đi chơi với chúng tôi nhưng lại đổi ý vào phút chót cho rằng cuộc leo núi này quá mệt và có hại cho thần kinh. Anh ta có dáng vẻ của một chàng công tử bột với cái vẻ lả lướt, mớ tóc dài chải tém ra sau và lòng can trường của anh ta thì đáng nghi lắm.

Chúng tôi rời Đại khách sạn Nam-Ninh vào lúc bẩy giờ sáng và đi băng qua cây cầu ở đầu đường. Trên cầu và trước cửa ngôi chùa đều có lính bồng súng đứng gác. Họ phải gác từ sáng cho đến tối vì hiện đang có một vài đơn vị đang đóng quân tạm thời tại đó.

Chúng tôi leo lên dốc núi, có lúc mặt trời rọi thẳng vào lưng sưởi ấm chúng tôi, đôi khi chúng tôi lại chìm vào bóng dâm thật mát và lạnh như nước suối... Khi đến khoảng trống trên lưng chừng một ngọn đồi, chúng tôi tạm ngừng để thấy cảnh vật như trải rộng ra ở phía sau lưng và trước mặt, vách đá càng ngày càng dốc thẳng khi chúng tôi càng tiến đến gần đỉnh.

Buổi trưa chúng tôi nghỉ trong một cái quán nhỏ bên đường để ăn cơm. Một cái kiệu đang ì ạch tiến lên phía chúng tôi. Người ngồi trong kiệu ngả dài ra phía sau, đầu thấp hơn hai chân thòng ra hai bên thành kiệu, thoạt nhìn, chúng tôi chỉ thấy sau đôi vai của người phu kiệu là một chiếc quần kiểu để đánh gôn và đôi dầy cao su đung đưa qua lại. Chiếc xe dừng lại cạnh chúng tôi. Người lữ khách mệt mỏi ngồi dậy nói với chúng tôi:

- Một ngày đẹp quá há! Tôi chán mấy người lắm và công việc trong văn phòng thì lại đầy ứ. Tôi cũng nghĩ, thuê chiếc kiệu này và tôi cũng đến đây vậy.

Đó là Phu-Quang-Tỷ, hôn phu của Liên, Anh ta đội chiếc nón cối, mang kính mát, mặc áo vét và chiếc quần đánh gôn mà lúc nẫy tôi có nói đến. Anh ta còn mang thêm một đôi giầy phòng hờ, một bình thủy, một chiếc gậy lớn, một sợi dây thừng như thể đi leo núi vậy. Anh ta liếc mắt kiểm điểm đống hành trang nghèo nàn của chúng tôi với vẻ khinh rẻ. Chúng tôi chẳng có gậy gộc cũng chẳng mũ mão gì cả. Pao chỉ mang theo có cái túi đeo lưng. Chàng mặc quần soóc, áo sơ mi ngắn tay và một chiếc áo len buộc lỏng nơi cổ. Vũ-Liên và tôi mặc như thường ngày: một chiếc xường xám bằng vải xanh dài, xẻ dọc từ đùi xuống chân, tiện lợi và không rườm rà. Vũ-Quế-Phan vì không tập thể dục nên mồ hôi chảy ướt cả bộ quân phục bằng hàng len.

Hai người phu đặt chiếc kiệu xuống đất, tìm chỗ nghỉ ngơi ăn uống và hút thuốc. Phu-Quang-Tỷ từ chối dùng bữa với chúng tôi. Anh chàng mang theo đầy đủ thức ăn và đang bắt đầu ăn, bữa ăn thường nhật quá nặng như thể sắp sửa phải tận dụng những bắp thịt của anh. Rồi anh ta đứng lên trước, tay múa tít cây gậy như sợ chúng tôi đuổi kịp...

Chúng tôi trả tiền và lại bắt đầu đi. Đến khúc rẽ thứ hai chúng tôi bắt gặp anh chàng nằm ngả dài bên vệ đường:

- Kiệu của tôi đâu rồi? Anh ta nhăn nhó với giọng thảm hại. Mấy người không thể ăn lẹ lên được một chút hay sao?

Rồi như tìm lại được phép lịch sự, anh ta quyết định hy sinh và nhường chiếc kiệu cho hôn thê. Nhưng Vũ-Liên lại thích đi với chúng tôi và Vũ-Quế-Phan. Chúng tôi bỏ mặc anh chàng đó lẽo đẽo phía sau theo đúng cái cách không có hại đến thần kinh của anh ta.

Hết còn những bước cheo leo hay những ghềnh đá ngạo nghễ trên đầu chúng tôi. Chúng tôi đã lên tới đỉnh núi. Con đường chấm dứt nơi đây, ngay trên ngưỡng cửa của ngôi chùa...

Băng qua nhiều chiếc sân, chúng tôi tiến ngang qua những bước tượng ông Thiện; ông Ác dễ sợ, những thần lục định lục giáp đang trợn mắt múa tít binh khí trên lưng voi, lưng ngựa, ngang qua tượng Phật Di Lặc béo tròn với cái bụng phệ hay tượng Phật Bà Quan-Âm một trăm tay, Phật Bà Quan-Âm toàn nhân ái.

Những vị ni cô mặc áo cà sa xám rộng thùng thình trông như những con dơi bước ra vây quanh lấy chúng tôi tiếp đón. Những người đi lễ đang xì xụp vái lậy trước các bàn thờ. Tiếng chuông, tiếng trống âm vang nhè nhẹ. Gió lộng qua các phòng, thổi những ngọn cờ, lá phướn bay lất phất và làm lung linh mấy ngọn nến. Tất cả những điều này đều quá thân thuộc với tôi và xa vời với cảnh tao loạn, chiến tranh biết bao...

Chúng tôi ngồi trên những cái đôn trạm trổ tinh vi và một chú tiểu bưng trà ra mời chúng tôi.

Sư cụ trụ trì hiện ra trong khung cửa ngập ánh trăng. Sư cụ là một người lùn, thấp bé, mắt sáng và linh động như mắt con chim sẻ. Hai bàn tay gầy và nhỏ, những ngón tay cong và dài như những cái vuốt của chim ưng. Sư cụ như chìm hẳn vào trong cái áo cà sa rộng thùng thình, trong chiếc mũ ni với hai cái dải thắt dưới cằm và vắt ngang qua vai ra phía sau như một cái vạt áo. Sư cụ bước lại gần chúng tôi, dáng nghiêng qua ngã lại, vừa đi vừa cúi chào và chúng tôi cũng phải cúi thấp mình chào trả lại. Cụ phóng người lên một chiếc ghế dựa cao, ngồi vắt vẻo thõng hai chân với đôi giầy da rộng quá khổ đong đưa trong không khí.

Câu chuyện mở đầu bằng những lời chào hỏi thông thường, nhưng sau đó, gia chủ chúng tôi liền kể liên tu hết chuyện này đến chuyện kia, đến nỗi Vũ-Quế-Phan cũng không xen vào lấy được một lời. Sư cụ kể cho chúng tôi nghe về lịch sử của ngôi chùa...

Sư cụ nói, nói mãi. Gió lùa những bóng tối vào trong phòng. Lễ giáo không cho phép chúng tôi ngắt ngang lời dù rằng chúng tôi vừa đói vừa rét cóng cả người và trời đã tối đen... Chúng tôi mừng rỡ vô hạn khi các ni cô hiện ra, đi châm đèn rồi bưng cơm: thịt thì bị cấm hẳn đi rồi - vì các phật tử cho rằng mọi sự sống đều là cao trọng cả - nhưng mỗi khi chùa thết cơm chay, những món đậu phụ, nấm, những món sốt, dầu thảo mộc được nấu nướng thành nhiều món ăn tuyệt khẩu và nổi tiếng là ngon. Các ni cô dọn và sới cơm ra từng bát và mời:

- Cơm đã dọn xong.

Trong khi đó, mặc dù tay thì vẽ một cử chỉ mơ hồ như mời chúng tôi, sư cụ vẫn chưa dứt tiếng nói. Thể diện buộc chúng tôi phải làm ra như thể không để ý đến các món ăn thơm phức đang trêu chọc khẩu vị của chúng tôi và nghe nốt câu chuyện cho đến hết. Khoảng một khắc sau, sư cụ vẫn giữ chúng tôi nguyên chỗ với đôi mắt tinh anh và với câu chuyện tràng giang. Lợi dụng một lúc cụ ngưng để lấy giọng, Vũ-Quế-Phan ngắt:

- Chúng tôi không dám giữ thầy lâu hơn nữa! Thầy đã tiếp đãi chúng tôi quá niềm nở. Xin thầy hãy thứ lỗi vì chúng tôi đã làm phí thì giờ quí báu của thầy. Chúng tôi không dám giữ thầy lâu hơn nữa.

Vừa nói, anh vừa đẩy nhẹ sư cụ ra phía ngoài cửa y như ta đẩy một con chiên bướng bỉnh. Còn chúng tôi thì không thể nào kìm được nữa. Vồ lấy bát, đũa, chúng tôi bắt đầu ăn ngấu nghiến. Sư cụ lẩn vào trong bóng tối mất dạng.

Về khuya, gió dịu đi nhưng lại trở thành lạnh giá và cóng buốt. Chúng tôi trằn trọc dưới những chiếc khăn cổ, nặng và cứng như gỗ. Trước khi trời sáng, Vũ-Quế-Phan đã gõ cửa khua chúng tôi dậy.

- Mặt trời mọc, dậy đi thôi!

Mới bốn giờ rưỡi sáng. Tiếng tụng kinh trầm trầm và đều của các nhà sư vọng vào phòng như tiếng sóng nước rì rào vỗ vào bờ. Người rét run và đờ đẫn vì cơn buồn ngủ, các bắp thịt nhức như dần sau một ngày vận động quá độ, tôi bước chập choạng đến bên cửa sổ. Trời tối và trong suốt, những vì sao lạnh băng và mờ nhạt, biến dần sang vẻ lóng lánh không mầu như những viên ngọc. Pao khoác lên vai tôi một chiếc khăn ấm chiếc ít cứng nhất rồi chúng tôi cùng đi ra ngoài đỉnh núi với các bạn khác. Khi chúng tôi bước trên đám cỏ cứng, long lanh những giọt sương, ánh sáng đã trắng lóa cả mọi vật và trên nền trời chỉ còn một vì sao cô độc. Chúng tôi đã có thể nhìn rõ mặt nhau trong tia nắng ban mai đầu tiên của ngày.

Ngọn Tô-Vân-Phong đứng sừng sững đơn độc giữa một thế giới chìm đắm, đỉnh núi nhô lên trên mặt lớp mây như một hải đảo, chung quanh các mỏm đá mây trôi triền miên y như nước đại dương. Một màn trắng lẹ làng trải dài về phía những đỉnh núi một mầu xám kỳ ảo nhanh hơn cả những đợt mây trôi.

Trên đầu chúng tôi, vòm trời xanh muốt và nhạt dần về phía đông. Mặt trời, từ từ hiện ra sau một đám mây, uy nghi, lẫm liệt. Mặt trời hiện ra giữa buổi sáng như vị hoàng đế hiện ra giữa trào đường. Ngay sau đó, các đường mây trắng đứt đoạn thành những rợn sáng và những đụn mây trắng dồn tụ, ùn lên che khuất vùng dương. Thật khó có thể tưởng được rằng mỗi buổi sáng, trong khi chúng tôi lội bì bõm trong một màn sương mù ướt sũng dưới chân đồi, trên đầu chúng tôi lại có cái cảnh sáng đẹp tuyệt vời như thế này.

Sau khi đã dùng điểm tâm và dâng một chút tiền cúng quả cho nhà chùa (lệ chỉ cho phép nhận cái gì mọi người cúng quả mà không được phép đòi hỏi xin thêm gì khác). Chúng tôi kiếu từ các ni cô. Sư cụ bận việc chỗ khác, cũng may vì chúng tôi có ý định trở về nhà vào buổi trưa. Chúng tôi gửi lời cám ơn sư cụ và bắt đầu xuống núi. Đường xuống không khó như lúc lên, nhưng tôi và Vũ-Liên lết chầm chậm, hơi thấm mệt vì những cố gắng chiều hôm qua. Phu-Quang-Tỷ cùng đi với chúng tôi buổi sáng đó, đầy vẻ cường tráng và chịu đựng, và chúng tôi luân phiên nhau leo lên kiệu của anh ta vì khuyến khích tính lười biếng của mấy người phu khiêng kiệu thì quả thật là đáng tội.

Chúng tôi đi vòng quanh một nhánh núi. Nam-Ninh hiện ra - những mái nhà cái xám cái vàng, những thân cây đen ngòm, những con đường đất đỏ rực và vàng ánh tỏa đi tứ phía - và phía bên kia dẫy đồi, cánh đồng trải ra dưới chân núi, sáng bóng như một giải sa tanh.

- Nghe này!

Vũ-Liên ra hiệu cho chúng tôi yên lặng. Chúng tôi đứng im. Chỉ có tiếng lá cây rì rào trong gió, chỉ có tiếng nước chẩy róc rách trong ghềnh. Nhưng không! Có tiếng ù ù như tiếng sấm dội xa xăm, tiếng lóc bóc như pháo nổ nhưng thật nhỏ, thật xa. Kế tiếp là những tiếng nổ long trời, rung động cả không khí. Một cột khói bốc cao khỏi lớp sương mù ở về mạn Hàng-Châu. Phi cơ oanh tạc.

Mấy chiếc máy bay đương bay về phía chúng tôi. Tiếng ù ù của động cơ to dần, trở thành một tiếng gầm, như từ khắp nơi dội lại. Chúng tôi cố nhướng mắt xem chừng ở đâu. Có lẽ chúng đã lẫn vào khoảng không sáng chói của vòm trời.

- Kìa.

Chúng tôi nhìn xuống đám cỏ cao mọc hai bên vệ đường. Tiếng gầm kinh hồn ào tới, vây bọc lấy chúng tôi. Các súng phòng không của chúng tôi bắt đầu cành cạch nhả đạn, tiếng nghe thật gần và rõ ràng. Rồi có tiếng một vật gì rít lên trong không khí. Chúng tôi cảm thấy mặt đất rúng động. Tiếng gầm rú của máy bay càng ngày càng dữ dội và trở thành tiếng động duy nhất: nó đập lên trên da thịt tưởng chừng như người điếc cũng phải nghe. Pao và tôi nằm dài bên nhau trong đám cỏ cao, mặt ngẩng nhìn trời, kinh ngạc nhiều hơn là sợ hãi. Những máy bay Nhật bay ngay trên đầu chúng tôi theo đội hình từng mười chiếc: ba, bốn, ba. Chúng bay tới, thật đều đặn, thật nhanh, dũng mãnh, nhẹ nhàng với vẻ chững chạc uy nghi và lạnh lùng, thân mình lóng lánh như ngọn lửa bạc dưới ánh mặt trời, tuyệt đẹp. Chúng tôi nhìn chúng bay bổng trên đỉnh núi rồi biến mất.

Chúng tôi đứng dậy, mặt còn hơi tái và phủi những cọng cỏ còn bám vào quần áo.

Pao nói giọng trầm ngâm:

- Thế là chúng đã biết là Thống tướng Tưởng hiện ở đây.

Chúng tôi nhìn quanh kiếm mấy người bạn đường. Vương-Vũ-Liên lóp ngóp chui từ dưới một tảng đá ra, vẻ hơi tiều tụy, cỏ và cành cây khô còn vướng trên tóc. Vũ-Quế-Phan núp trong một bụi gai và khó nhọc lắm chàng ta mới chui ra được. Anh uốn qua éo lại gỡ tránh mấy cành gai đang giữ dịt anh ta. Không thấy Phu-Quang-Tỷ đâu. Lúc nẫy Vũ-Liên thấy anh ta chạy trên con đường đất, lúi húi như một chú thỏ nhát nhúa. Chúng tôi vừa tiến theo phía ấy vừa gọi tên anh ta. Ở góc đường có một căn chòi vách đất mái lá, chắc do mấy người dân ở đây dựng lên cho khách thập phương trú mưa nắng. Trước khi tới nơi, chúng tôi đã thấy gió thổi vù vù, đúng là cái lý do hiển nhiên để dựng căn chòi này. Phu-Quang-Tỷ hiện ra nơi cửa, mặt mày xanh lét như tầu lá và đang cầm chiếc khăn tay bằng lụa trắng bịt mũi. Anh ta dọ dẫm đi về hướng chúng tôi. Chúng tôi phá lên cười. Anh ta bỏ chiếc khăn tay xuống lườm chúng tôi giận dữ:

- Tôi không thấy gì đáng cười cả. Trước một vấn đề sống chết mà còn làm bộ làm tịch là ngu xuẩn. Nếu chúng ta bị dội bom, những ngọn cỏ cao kia không ngăn được miểng bom, trong khi bức vách dầy của căn chòi này... Và mấy người cũng không cần phải gào tên tôi lên như thế. Tôi nghe thấy mấy người ngay từ đầu, nhưng vì chưa chắc là cuộc oanh tạc đã dứt nên tôi chưa trả lời. Không khí trong đó cũng có phần... ngộp.

Chúng tôi cười muốn xỉu được. Đã hẳn đây không phải là cái cười tế nhị; nhưng khi ta vừa thấy tử thần bay ngang đầu dưới ánh sáng lấp lánh của mấy cánh kim khí, cảm tình của chúng ta thế nào cũng có phần bị lệch lạc và dễ bị xúc động vì một lý do không đâu. Đột nhiên chúng tôi cùng trở lại nghiêm trọng.

Từ tuốt trên cao như chỗ chúng tôi đang đứng, không thể nào ước lượng được tầm mức quan trọng của cuộc oanh tạc. Khói và bụi bốc lên mù mịt - từ lúc bom nổ cho đến bây giờ chưa đến mười phút - che khuất hết mọi vật. Chúng tôi vội vàng xuống núi không kịp dừng lại để mà thở nữa và một giờ sau, chúng tôi đã xuống đến sườn đồi ngay trên đầu làng. Tiếng người ồn ào huyên náo hơn một đàn ông vỡ tổ bay lên tận chỗ chúng tôi và lẫn trong đó là tiếng kêu gào thảm thiết thê lương. Chúng tôi nhìn sững vào làng.

- Không! Tôi thảng thốt kêu lên! Không! Không!

Ngôi chùa đầu làng bị trúng bom! Ngôi chùa của chúng tôi, nơi linh thiêng ngàn năm yên tĩnh ấy! Mái ngói vàng trên chính điện thủng một lỗ lớn và sàn đá trước chùa bị nát vụn tan tành, một lỗ bom to lớn ngoác miệng thay thế cho chiếc lư đồng ở giữa sân.

Chui qua một lỗ hổng trên bức tường đó, chúng tôi len lỏi giữa đám người hổn độn len vào chùa. Những cây bá mảnh dẻ trong sân đều bị chém nát, gẫy đổ, những cánh ngói cong vòng với những chiếc chuông và những con thú quen thuộc năm chình ình giữa đống bụi cát. Những lan can đá trạm trổ hươu nai, cầm thú đều bị phá nát hết. Các toán cấp cứu đang bới lục giữa đống gạch ngói tan nát dưới những cặp mắt kinh hoàng của những kẻ hiếu kỳ.

Trong một lúc, tôi tưởng chừng như không thể chịu đựng hơn được nữa. Nhưng thế chưa phải là hết. Pao cúi xuống lượm một mảnh kim khí có cạnh sắc như nước. Trên ngón tay chàng, một vết máu tím bẫm đọng lại. Chàng rùng mình vứt miếng sắt đi. Trên nền đá trắng, loang lổ vết quần áo rách nát, miểng bom và... một cánh tay bị chặt ngang vai. Tôi nhắm mắt, khủng khiếp muốn phát nôn và vội vàng quay gót chạy khỏi nơi này. Khi chúng tôi bước xuống đến sân dưới, một toán người mang huy hiệu hồng-thập-tự lẹ làng băng ngang qua. Họ khiêng một xác người lũng bụng và tay chân đứt tiện. Họ đặt cái xác nằm ngay ngắn trên mặt đất, bên cạnh những khối thịt bất động và lấy một miếng vải đỏ, nguyên là các cây cờ hay phướn trong chùa phủ lên trên. Một đôi giầy sỹ quan lộ ra ngoài. Dưới lớp vải của đống thịt bên cạnh là cặp chân của một binh sỹ với đôi dép gai; và giữa đám xác còn lại là một đôi giầy vải với cái đế thật dầy của một nhà sư.

Các ni cô chạy tới chạy lui và cánh áo cà sa bay phồng lên theo sự di chuyển. Tiếng nức nở, tiếng lầm rầm cầu nguyện của họ thống thiết như một điệu cử ai, át cả những tiếng rên rỉ của những người bị thương, họ mang ra một mớ nhang và nến đang cháy, gắn xuống nền đất ngay dưới chân của mỗi xác người một cây. Một trong các sỹ quan chỉ huy các toán cấp cứu kêu các ni cô đi lấy rơm, chiếu và chăn nệm cho những người bị thương. Họ vội vàng chạy đi, hoảng hốt như một bầy chim đang ngủ bỗng bị quật dậy vì ánh lửa thiêu đốt.

Chiến tranh đã kéo đến. Nó đã tàn phá cả cái bình an muôn thuở của ngôi chùa. Lẫn lộn với đống gạch vụn trên chính điện, chiếc đầu của một tượng Phật nằm chỏng chờ giữa đám tàn nhang rải vung vãi, miệng vẫn luôn điểm nụ cười ánh sắc vàng và trầm tư. Một trong những bàn tay to lớn của bức tượng văng ra hơn hai chục thước, nằm giữa vườn hoa dập nát, chỉ một ngón tay thẳng lên trời như một lời cảnh tỉnh nghiêm trọng.