← Quay lại trang sách

CHƯƠNG TÁM VỀ MIỀN NAM

Sau đó mọi vật đều thay đổi một cách lẹ làng. Công việc thường bị trắc trở vì các cuộc bạo động hàng ngày. Nó đã thành quen thuộc đến cái độ mỗi sáng, không cần đợi còi báo động, mọi người đều đã đóng cửa tiệm, chặn cửa, lên đồi tìm chỗ trú ẩn cho đến tối. Đêm đêm họ len lén về nhà để ngủ. Những con buôn và đám dân chạy bám theo các cơ sở hành chánh với hy vọng kiếm công ăn việc làm đều bỏ nhà, bỏ cửa, dọn hàng hóa đồ đạc đến những vùng an toàn hơn. Tên thợ may biến mất cùng với hai chiếc áo dài của tôi và không thấy chường mặt ra nữa. Trong khoảng ba ngày, Pao và tôi gần như là chủ nhân độc nhất của Đại Khách Sạn Nam-Ninh. Tất cả mọi người đều bỏ làng lên sống trong các trại hẻo lánh trên đồi.

Các hoạt động hàng ngày diễn ra đều đặn như các đợt thủy triều. Sáng sớm bảnh mắt người ta thấy cảnh nhốn nháo dọn dẹp, tiếng kêu, tiếng chân người lao xao trên đường phố. Đàn ông, đàn bà, trẻ con lũ lượt kéo nhau ra khỏi làng, gói ghém những đồ vật quý giá trong cái túi vải, vì có ai biết chắc được lúc trở về còn thấy nhà mình nguyên vẹn. Cuối chót của dòng người là những hàng quà rong bán cam, bánh... Tám giờ sáng, đường phố trải dài vắng ngắt, hai bên đường, các cửa tiệm đều trống rỗng và một màn yên lặng trùm phủ trên làng. Ta có thể đi từ đầu làng đến cuối làng mà không gặp một mạng trừ mấy người lính đang đi tuần. Tại khu chợ trời, trước kia ồn ào huyên náo tiếng người mua, kẻ bán, tiếng rao hàng, tiếng mời mọc, những gánh rau (cà dái dê nhẵn thín, cà-rốt đỏ ngậy, đậu xanh) bây giờ hoàn toàn vắng vẻ và im lặng, chỉ còn mấy con chó hoang đang sục sạo trong đống rác. Nam-Ninh giống như địa điểm một chợ phiên vừa dứt với những gian hàng bụi bậm, trống rỗng và hoang phế.

Vào lúc hoàng hôn, thủy triều lại dâng về. Dân cư Nam-Ninh lại trở về nhà, thắp đèn, mở cửa hàng. Tất cả các sỹ quan, các công chức làm việc trong Bộ Tư Lệnh lại lũ lượt kéo nhau từ các nông trại trên đồi cao trở về, thèm nghe những tiếng động, thèm bạn bè. Các hàng ăn còn ở lại thắp đèn lên và bắt đầu buôn bán nhộn nhịp, thu vào những số lời nhẽ ra phải làm cả một ngày trong vài tiếng đồng hồ. Tiếng cười, tiếng hát, tiếng đi lại kéo dài đến tận khuya. Rồi bất thần, tiếng huyên náo im bặt vì chúng tôi đang có lệnh giới nghiêm và giờ giới nghiêm là mười một giờ.

Dĩ nhiên Pao vẫn tiếp tục đi làm tuy rằng công việc thường bị đình hoãn luôn. Chúng tôi vẫn sống trong căn phòng khách sạn cũ, bám riết lấy cái tiện nghi và cái vẻ riêng tư tương đối của nó, hơn là một chỗ trú chân tạm thời mà chúng tôi có thể có - cũng có thể không - tìm được nơi nào đó. Đúng như vậy, bởi vì cho đến lúc nào khách sạn còn giữ được cái mái nhà là chúng tôi vẫn còn được sống sang trọng chán so với những túp lều tranh giữa đồng, chẳng có ngay lấy cả chút xíu hy vọng có được căn buồng riêng.

Chú bồi nhỏ cũng ở lại với chúng tôi. Tôi không hiểu vì lý do gì hắn lại ăn ở quá mức đôn hậu như thế. Dĩ nhiên những món tiền "nhậm sà" của chúng tôi đâu có đủ để đòi hỏi một thiện chí như vậy. Nó vẫn tiếp tục mang nước nóng cho chúng tôi suốt từ sáng cho đến chiều. Nó lo quét nhà mặc dù không ai bảo. Chúng tôi không còn ngại chuyện bụi rác lọt qua kẽ hở dưới sàn nhà nữa. Khi còi báo động rú lên, mặc dù rất sợ hãi, không bao giờ nó chạy trước chúng tôi cả. Nó có nhiệm vụ cài then cửa. Nó rất không bằng lòng việc chúng tôi ngồi dưới gốc cây đa ngay đầu làng trong suốt thời gian báo động. Ngay cả lúc này, nó cũng không muốn rời chúng tôi và giải quyết sự sợ hãi của nó bằng cách nấp trong một cái rãnh khô cạnh chúng tôi. Không lần nào nó không lăn quay ra ngủ, nhưng khi dứt báo động, chúng tôi lay nó dậy ráo rác, và nó chạy đi kiếm được đồ ăn cho chúng tôi một cách rất có hiệu quả. Tôi có cảm tưởng như nó có ma thuật trong cái việc cung cấp thức ăn nóng hổi và rất hợp mùa của nó, trong khi dù đi khắp cả làng, ta cũng chưa chắc mua được lấy một cái trứng hay một bát cơm khô nếu trời chưa tối. Chúng tôi rất mến nó và rất buồn phải bỏ nó khi chúng tôi rời Nam-Ninh. Pao tặng nó một cái vợt đánh bóng để tỏ tình yêu mến của chúng tôi. Chiếc vợt đã hư, cần phải rút giây lại, nhưng chú bồi của chúng tôi cũng khoái nó lắm, coi đó như một biểu tượng của phẩm cách và rất hài lòng với món quà đó.

Chúng tôi rời Nam-Ninh vào ngày 12 tháng chạp. Ngày 12 Trường-Sa bị thiêu rụi... Quân địch đã đến Dương-Châu.

Nam-Ninh đã bị bỏ rơi trong một sáng một chiều. Tuy không hề bị quân Nhật chiếm đóng bao giờ, nhưng sau cơn kinh hoàng ở Trường-Sa và sau khi Dương-Châu bị thất thủ, Nam-Ninh trở thành quá nguy hiểm. Bộ Tư Lệnh liền hợp và quyết định di chuyển đến Trùng-Khánh, thủ phủ hiện thời của chính phủ. Nhưng con đường thẳng đến Trùng-Khánh đầy bất trắc, rất gần với các trận tuyến và có thể bị cắt đứt bất cứ lúc nào. Bởi thế mới có quyết định đi sâu về hướng Nam, về phía Quế-Lâm, đại bản doanh tạm thời của Bộ Tư Lệnh, trong khi đợi được di tản bằng đường bộ đến tận Trùng-Khánh...

Hồi tưởng lại dĩ vãng, tôi thấy rõ một điều: mặc cơn ác mộng của mười ngày đường, mặc nỗi thất vọng ê chề, những đêm không ngủ, bẩn thỉu, cảnh người chen lấn ồn ào, không một ai nổi nóng, không một ai than vãn. Chỉ trừ có tôi (vì hầu hết thời gian đi đường, tôi ở trong tình trạng thật thảm não và không có che dấu được bao nhiêu), hàng trăm những kẻ đồng hành của tôi đã đối phó với tất cả những cái gian nan trong cuộc di tản đến Quế-Lâm, không phải bằng một sự can đảm chịu đựng mà bằng một lòng hăng hái vui vẻ. Tính khôi hài có lẽ là nét độc đáo và tuyệt nhất trong tính khí của người Trung Hoa... Tinh thần hài hước giúp chúng tôi chấp nhận sự vật. Tính khí vui vẻ giúp chúng tôi cười được ngay cả trong những trường hợp bất lợi, tính bình dị của chúng tôi giúp chúng tôi chịu đựng được những điều khó chịu nhất. Với cung cách đó chúng tôi khó tiến bộ, thiếu hiệu quả hơn là nếu chúng tôi quan niệm công việc cách nghiêm trọng hơn; nhưng thế này, chúng tôi lại sung sướng hơn. Chúng tôi biết cách thích hợp với hoàn cảnh. Ngày hôm nay chúng tôi có thể là những vị khách trong một thửa vườn đầy hoa ở Nam-Kinh, ngày mai lại là những dân chạy loạn, chất hàng tá đồ trong một căn phòng tồi tệ; nhưng chúng tôi vẫn cứ cười được như thường. Đó là cái cười tự nhiên, khoảng khoát...

Chúng tôi cùng sửa soạn với hàng trăm người khác để rời Nam-Ninh vào một ngày mưa dầm... Thời kỳ nắng ấm và đẹp đã nhường cho những đám mưa phùn buồn nản và những đợt gió buốt lạnh. Các lề đường đều ẩm ướt và nhầy nhụa. Nước mưa ào qua máng sối chẩy ào ào lên đầu chúng tôi. Giữa trưa, bóng tối chụp xuống, nhưng không có nhà nào thắp đèn. Bộ mặt của Nam-Ninh biến đổi như khuôn mặt của một phụ nữ đột nhiên già khọm và nhăn nhúm... Mọi thứ đều thay đổi. Từ cái vẻ thanh bình khó tả của những ngày đầu tiên đến những ngày ồn ào vui vẻ kế tiếp, không có gì giống với cái đám vài ba nóc nhà xám ngắt, buồn tẻ dưới cơn mưa dầm này.

Người ta đã cho lệnh chúng tôi sẵn sàng di chuyển vào giữa trưa. Hàng trăm sỹ quan và gia đình cùng với các quân dụng và giấy tờ của các cơ quan sẽ phải băng qua hàng trăm cây số trên một đường xe lửa độc nhất, đang bị kẹt cứng vì các đoàn tầu chuyển quân và dân tản cư. Lại còn vấn đề phải di chuyển tới đường sắt đã. Hầu như không còn chiếc xe hơi đặc biệt nào cả. Các xe cam nhông của quân đội được dùng để di tản những trại sách. Người ta đã chỉ định mười xe cho hành khách để chuyên chở nhân viên Bộ Tổng Tư Lệnh cùng gia đình đến Hán-Dương hay một vài nhà ga và xe lửa nào đó, để từ đó, họ có thể tiếp tục đến Quế-Lâm bằng đường xe lửa. Mười chiếc xe hơi cổ lỗ và què quặt để chạy không ngừng quãng đường từ Nam-Ninh đến đường sắt.

Chúng tôi đều mệt mỏi và thất vọng. Chúng tôi đã đứng đợi dưới cơn mưa hai giờ, hành lý ngay bên cạnh, hy vọng kiếm được một chỗ trên xe. Đến mười một giờ đêm mà đám người đứng đợi cùng những núi đồ đạc cũng vẫn không thấy vơi bớt chút nào. Không ai có quyền ưu tiên. Mọi người kéo đến, đặt hành trang ngay bên vệ đường và ngồi lên trên chờ đợi. Không có lấy cả nhà ga lẫn chỗ ẩn núp... Mỗi chiếc xe đến là một cuộc tranh dành... Pao và tôi để mặc mọi người, không chen đua vào cái cuộc chen chúc đó, không muốn chen lấn, xô đẩy để chiếm lấy một chỗ ngồi như vậy. Không phải là tôi kiên nhẫn hay lịch sự gì. Một nỗi ù lì tự nhiên xâm chiếm chúng tôi. Không có một lợi lộc gì đáng để cho ta phải tranh dành cách điên cuồng đến thế.

Gần nửa đêm! Mưa càng rơi nặng hạt hơn. Một dòng nước nâu đục chẩy dài theo các đường rãnh hai bên đường... Những phút trôi qua, những giờ trôi qua, những đêm tối và cơn mưa là ngoại lệ, kéo dài không dứt và việc đợi chờ không mang lại cho chúng tôi chút hy vọng nào cả. Sau cùng chúng tôi cũng tạo được một thứ trật tự. Một người nào đó có tài chỉ huy đã thuyết phục được đám đông rằng công việc lên xe và khởi hành nhanh hơn nếu chúng tôi biết sắp hàng theo thứ tự và đợi đến lượt mình. Không có vấn đề ưu tiên cấp bực. Có nói đến cũng vô ích vì chúng tôi đều đã đứng đợi được nửa ngày và nửa đêm rồi.

Các chuyến xe cứ thưa dần. Chiếc xe quay trở lại, dính dầy bùn đỏ khi rơi vào những bùn sâu đến tận trục xe trên các con đường mới phá mà chưa được san phẳng. Cứ sau mỗi lần đi như vậy khi về đến nơi, miệng phì phò và mình lắc lư, chúng long lơ và già đi trông thấy. Có khi chúng không thèm quay về; đâu đó trên đường, chúng nằm ì tuyệt vọng: bệnh tật trong bụng hay lạc đường đâm xuống hố. Chờ đợi nơi đây với tấm áo che mưa, có lẽ chúng tôi còn may mắn hơn những kẻ sau khi đã tranh dành vật lộn để kiếm được một chỗ ngồi, lại phải qua đêm với đống hành lý chết dí trong một chiếc xe hư máy nằm chình ình giữa đường dưới cơn mưa. Mặc dù không biết, chúng tôi cũng chẳng thiệt thòi gì hơn những người đã đến được đường sắt.

Trong vòng một hai giờ gì đó, chúng tôi cũng dần dần leo lên được hàng đầu. Chúng tôi đã bắt đầu thấy hy vọng chấm dứt cơn đợi chờ. Chuyến xe tới sẽ là của chúng tôi.

Không có xe nào đến cả. Mười một giờ rưỡi; trong khi mưa rơi lộp độp trên áo mưa của chúng tôi và dưới đường các suối nước bùn chẩy cuồn cuộn dọc lề đường, người ta chính thức loan báo: không còn xe! Thời tiết xấu, sự lưu thông tạm ngưng cho đến mai. Không còn gì cho đêm nay. Gần như thể trút được gánh nặng, chúng tôi bỏ đi tìm một chỗ ngủ qua đêm. Đúng là một nỗi thất vọng vì hy vọng cứ giảm dần theo thời gian.

Chúng tôi trú tạm trong ngôi trường trước kia được dùng làm văn phòng của Bộ Tổng Tư Lệnh...

Sáng hôm sau. Phía ngoài khung cửa kính, trời lạnh và xám ngắt sau lớp sương mù. Không khí im phắt và lạnh ngắt. Cơn mưa đã dứt. Có những đứa trẻ con khóc ré lên khi thức dậy. Nhưng đứa nhỏ được ấn vội cái vú vào mồm...

Tôi thức giấc, không khoẻ ra được bao nhiêu và người lại hực sốt. Tôi không đói cồn cào như Pao, nhưng tôi cũng đi ra phố kiếm cái gì ăn cùng với chàng. Chúng tôi đi dọc theo con đường làng, băng qua trước những căn lều tranh trước kia đã từng là những quán ăn phồn thịnh, nuôi sống cả trăm người mỗi ngày. Những ụ bếp bị phá, những chảo chiên bị gỡ đi. Chúng tôi đi qua những quán nước cửa đóng im lìm và đến trước Đại Khách Sạn Nam-Ninh. Nó đã trở thành kỳ cục và xa lạ. Sân trước vắng hoe, cửa phòng đều mở toang hoác. Trước căn phòng của chúng tôi, mấy nhánh cúc trụi lá xác sơ vì có ai đã vặt hết cả hoa. Chúng tôi đi rảo quanh khắp nơi mà chẳng có gì ngăn cản trừ một người hầu độc nhất và người gác cửa thản nhiên coi chúng tôi như là không có. Bếp trụi không lửa và tran đồ ăn trống rỗng. Các đầu bếp đều đã đi cả. Chúng tôi có cảm tưởng như mình là những bóng ma trở về ám quẻ nơi đây sau nhiều năm xa cách. Chúng tôi tưởng như là mình vô hình. Nam-Ninh đã quên hẳn chúng tôi.

Chúng tôi trở về trường. Vẫn không có xe. Sương mù đã tan và mặt trời đã lên cao, sáng chói lọi, tròn xoe và nhỏ như một khuôn trăng. Còi báo động buổi sáng thường lệ rú lên. Mọi người tản mát ra ngoài đồng. Pao và tôi trèo lên lưng đồi và chúng tôi nằm ngã trên cỏ ướt, dưới bóng cây. Chúng tôi giải khát bằng nước suối. Đến trưa mới sưởi ấm đôi chút. Chúng tôi ngủ được một lát. Tất cả những điều đó rối tung trong đầu tôi, lẫn lộn với các cơn mê bởi vì tôi thấy đúng là mình bị bệnh và hơi mê sảng. Đến khoảng giữa trưa, còi dứt báo động hú lên. Chúng tôi lại trở lại vệ đường. Đến ba giờ mới có một chuyến xe và người ta bán cho chúng tôi hai chỗ. Đó là một chiếc xe biến chế bằng gỗ đặt trên một cái sườn đã quá cũ và hư nát. Động cơ phì phò như bị bệnh đau tim, nấc lên từng chập. Chạy với vận tốc ba mươi cây số một giờ mà nó rên rỉ, các khớp nối kêu răng rắc như sắp sửa tung ra thành hàng ngàn mảnh đến nơi. Trên cái đoạn đường gồ ghề và sóc tung người này, nó di chuyển khó nhọc chẳng khác chi một chiếc thuyền buồm bất động giữa cơn cuồng phong. Chúng tôi bị lắc qua trao lại, bắn tung lên khỏi ghế, có khi đầu va cả vào mui xe.

Hàng ghế phía trước có một gia đình sỹ quan gồm vợ chồng và hai đứa con nhỏ. Người chồng cố hết sức che chở cho người vợ đỡ bị dằn sóc. Người đàn bà bíu chặt hai tay lên thành cửa sổ trụi lũi. Tôi biết ngay là bà ta đang mang thai đã sắp tới ngày sinh. Đột nhiên mặt bà ta xám xanh lại, vặn người trong cơn đau cực độ. Bà ta hổn hển nói:

- Nếu cứ tiếp tục như thế này mãi thì chẳng bao lâu nữa đâu!

Dù vậy chúng tôi vẫn tiếp tục chạy như thế khoảng nửa giờ nữa. Rồi xe táp vào lề đường và ngừng lại. Trong màn yên tĩnh bất thường đó, chúng tôi nghe thấy tiếng máy bay ù ù ở đằng xa.

Người tài xế vừa lao mình vào bụi cây gần nhất vừa la lên:

- Chạy đi! Máy bay oanh tạc!

Chúng tôi túa ra bằng mọi ngả. Người đàn bà chửa cũng cố chạy, hay nói đúng ra cố nhẩy từng bước một cách vụng về, người như gập đôi lại và miệng thì suýt xoa đau đớn. Người chồng hai tay hai đứa con nên không thể giúp gì cho vợ. Tôi những muốn giúp họ một tay, nhưng đất dưới chân tôi cơ hồ như nghiêng ngả, cảnh vật trước mắt tôi như mờ đi dưới một màn sương. Tôi không biết tiếng ù ù trong đầu tôi là tiếng máy bay hay tiếng tim, tiếng máu tôi quẫy lộn. Chúng tôi chạy đến một nông trại cách lộ khá xa và ẩn dưới vòm tre. Tiếng chó tru lên giận dữ. Những người trong trại ù ra vây quanh chúng tôi ở giữa sân, quần áo họ đều thêu vàng bạc cả. Tiếng họ đập vào tai tôi như một giọng lầu bầu không rõ nghĩa. Mặt trời đảo lộn và tôi nghe thấy tiếng gầm hét của một cơn lốc đen ngòm phủ chụp lên đầu tôi, lôi tôi vào cơn hỗn mang đen tối.

Khi tôi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên một lớp rơm ngay phía dưới cái ống máng và Pao đang lau mặt tôi bằng cái khăn tay nhúng trong nước trà nguội. Kế ngay đó, người đàn bà chửa cũng nằm bẹp trên nên sàn lát đá, quằn quại dưới cơn đau. Những chiếc máy bay oanh tạc bay thật cao trên đầu chúng tôi, cao đến cái độ ta không còn thể nào phân biệt chúng dưới nền trời xanh biếc. Khi những tiếng máy bay cuối cùng vừa dứt, tiếng kèn rú lên gọi chúng tôi trở về xe. Nếu chúng tôi không ra, xe sẽ chạy và bỏ mặc chúng tôi. Cuộc hành trình sóc nẩy lại bắt đầu và nửa giờ sau chúng tôi đến Sơn-Đầu, bên đường sắt.

Sơn-Đầu không còn gì hơn một cái tên. Nơi đây là ngã tư quốc lộ cắt ngang đường sắt và chỉ có một nhà ga. Một vài hàng quán nghèo nàn nằm rải rác trên hai lề đường. Tại đây ta chỉ thấy những món ăn thô sơ nhất. Chúng tôi chưa ăn gì từ chiều hôm qua. Chúng tôi được dọn cho mấy bát cơm, đậu phụ trắng và mấy trái ớt đỏ. Có lẽ cơn bệnh của tôi một phần cũng do cơn đói mà ra, bởi vì sau khi ăn xong, tôi thấy khá hơn một chút. Chúng tôi đi bộ đến nhà ga và đi qua những túp lều tranh đầy những thương binh được sắp thành hàng ngay ngắn, đang nằm đợi xe lửa đến chở họ về những nhà thương nơi hậu tuyến.

Có giọng thân mật và oang oang kêu chúng tôi: Vũ-Quế-Phan, anh ta đã đến đây trước.

- Đừng đợi tầu làm gì mất công! Cái nào cũng chạy về hướng Bắc chở quân ra tiền tuyến cả. Người ta bảo rằng chuyến tầu của mình còn nằm đợi trong một nhà chứa xe nào đó đợi đường trống. Chiều nay không có gì đâu. Ngày mai, có thể... Hay ngày mốt không biết chừng. Tất cả còn tùy thuộc cuộc đụng độ quanh Dương-Châu. Không có hy vọng gì trước khi tình hình ngã ngũ. Trong khi chờ đợi, anh chị sẽ ngủ đâu?

Chúng tôi lo lắng ngó quanh. Ngủ đâu bây giờ? Tất cả những chỗ có thể ngả lưng đều đã được giữ trước. Vũ-Quế-Phan đã để ý và tụ tập một đám nhỏ và bây giờ anh giới thiệu từng người.

- Cả Vương-Quế-Liên nữa. Cô ta chẳng biết hôn phu đang ở đâu và không ai lo cho cô ta cả. Đây là đại tá Hoàng và phu nhân (một cặp vợ chồng trung niên, ông chồng rất cao lớn và gầy, còn bà vợ lại nhỏ bé, tròn như hạt mít và rất thân thiện). Cô Hàn và hôn phu, đại úy Lô.

Hai người sau này tôi có biết sơ sơ. Vị đại úy là một người bạn của Pao. Cô gái là một người rất gầy còm bệnh hoạn, cô ta bị lao phổi rất trầm trọng. Họ ngồi dựa lưng trên đống hành lý xếp dọc theo tường. Cô ta ngồi nép mình trong vòng tay của hôn phu, cả hai đều như mơ màng bất cần đến những sự việc chung quanh, thu mình trong bàn tay định mệnh. Cô ta ho nức lên như xé phổi, nhổ cục đờm vào trong khăn tay rồi nằm vật ra mệt lả, hai mắt nhắm nghiền. Mặc dù biết bệnh truyền nhiễm nguy hiểm họ cũng không muốn rời nhau. (Theo quan niệm của người Trung Hoa, các cuộc đính hôn cũng có tính cách dứt khoát và bó buộc như các cuộc cưới hỏi. Trong ngôn ngữ chính thức, chữ hôn thê và hôn phu có nghĩa là: "vợ chưa cưới" và "chồng chưa cưới".) Cô Hàn nhất định không chịu rời hôn phu, cô ta đã đi từ Hán-Khẩu tới Nam-Ninh, từ Nam-Ninh đến Quế-Lâm để rồi rút cục chết ở Trùng-Khánh; quả là một việc điên khùng... Lý trí có thể lên án cái hành động ngu xuẩn đó, nhưng dù vậy, cái tình quyến luyến đó vẫn chứa nặng một cái gì cảm động và tuyệt vời. Khi Vũ-Quế-Phan giục chúng tôi mau đi kiếm lấy một chỗ, đại úy Lô nhẹ lắc đầu và ra hiệu cho chúng tôi cứ việc đi để mặc họ. Cô Hàn nằm dài bất động, quá mệt mỏi đề cử động.

Rời Sơn-Đầu, chúng tôi tiến về phía đồng quê để tìm chỗ tạm trú trong các nông trại. Trời chiều và một cơn mưa bụi nhẹ, xám mờ - người Trung Hoa gọi là "mưa vũ" - che phủ cảnh vật. Không còn thấy núi non nhấp nhô trên đường chân trời nữa; chúng đã biến hết vào trong nền trời xám xẫm. Bóng tối cứ dầy đặc dần, cánh đồng trải dài mênh mông, loáng thoáng một vài ngôi mả nhấp nhô hay một vài căn nhà vách đất. Chúng tôi kéo nhau một hàng dọc trên con đường đất hẹp, đàn ông phải xách va ly hay các túi hành lý. Cơn mệt và sự nản chí đè bẹp chúng tôi vào trong yên lặng, chỉ trừ có Vũ-Quế-Phan vẫn vui tươi như không. Anh dẫn đầu, vừa đi vừa hát các điệu ca cổ. Khi chúng tôi bị đuổi hết từ nhà này sang nhà kia vì nhà nào cũng đầy những khách trọ tạm thời cả. Vũ vẫn không chịu thua, anh khuyến khích chúng tôi tiếp tục đi nữa, chắc chắn thế nào cũng tìm được một mái nhà và sẵn lòng mang hộ hành lý của những người nào cảm thấy quá mệt để tiếp tục.

Chúng tôi tiến sâu vào đồng quê. Trời đã tối hẳn. Tôi không mang gì cả. Hai bàn tay không mà tôi còn cảm thấy mệt đờ người, lết đi không muốn nói, mắt chỉ lờ mờ thấy con đường trước mặt. Trước khi kiệt sức, tôi thấy trong bụng nhói đau cách mơ hồ và hốt nhiên tôi phát hoảng. Mới đầu cơn đau không rõ rệt nhưng sau nó trở nên dữ dội hơn, đau buốt hơn và quặn lên từng cơn. Tôi nghiến chặt răng để khỏi bật ra tiếng khóc kinh hãi đang dâng lên trong lòng. Đã từ hai tuần nay, tôi vẫn ôm ấp một mối hy vọng nhen nhúm, một nỗi nhiệm mầu bí ẩn. Tôi chưa nói gì với Pao trước khi chắc chắn hơn. Nhưng lúc này, những điều học hỏi được bên Anh báo cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Cơn sốt nóng hừng hực, cuộc hành trình lắc lư liên tục trên xe, cuộc báo động, cơn đau dữ dội trên sàn của căn lều tranh! Tôi biết nếu không được nghỉ ngơi tĩnh dưỡng tôi sẽ mất hẳn hy vọng có con. Mà lúc này tôi không thể nào nghỉ được.

Người tôi run lên vì nỗi thất vọng đắng cay hòa lẫn với cơn đau. Trong đêm tối, tôi để mặc nước mắt trào ra pha lẫn với nước mưa trên mặt. Tôi để mặc chẳng buồn lau. Tôi tiếp tục bước đi chuệnh choạng, giữ nguyên vị trí trong hàng người. Chúng tôi đã băng qua đuoc bẩy dậm - khoảng hơn bốn cây số - và cuối cùng đến trước một căn nhà đóng kín. Mấy con chó tủa ra sủa vang rân và lập tức thối lui trước ánh đèn bấm của đại tá Hoàng. Căn nhà nằm im lìm, chìm trong bóng đêm, cửa đóng then cài. Vũ-Quế-Phan lấy tay đập cửa và gọi ầm ầm. Mấy con chó chạy vòng quanh chúng tôi và sủa lên oăng oẳng dữ tợn hơn trước. Một lúc lâu, cánh cửa mới từ từ kêu ken két, hé mở đủ lọt ra một cái đầu. Ánh đèn bấm cho chúng tôi thấy khuôn mặt một bà già quê, cặp mặt đỏ hoe lom lom nhìn chúng tôi vẻ nghi kỵ. Vành môi dưới trễ xuống để lộ hai ba chiếc răng nanh độc nhất và làn da nhăn nheo xếp thành hai nếp kéo từ hai bên hàm xuống tận cái cổ gầy khẳng khiu. Trước khi chúng tôi kịp nói một lời, mụ đã ra hiệu xua đuổi, nhưng Vũ-Quế-Phan đâu có chịu để cho thiên hạ từ chối như vậy. Anh nài nỉ: nhất định thế nào cũng còn chỗ. Nó sẽ giúp chúng tôi trú qua đêm. Bằng một cử chỉ quyết liệt, anh rút phăng một tấm danh thiếp in tên với đủ các cấp bực và chức vị của anh khua khua trước mặt mụ già. Anh là một nhân vật quan trọng - đến đây, anh phưỡn ngực cách oai vệ và nói với giọng trịnh trọng và thản nhiên - và nếu mụ không nhận cho chúng tôi trọ, ngày mai anh sẽ trở lại đây với một đám lính và thế nào cũng có chuyện.

Mụ già thụt đầu vào trong, bàn luận, rồi bước ra, tay cầm một chiếc đèn dầu.

- Đi theo tôi, mụ nói, giọng nhăn nhó và dẫn chúng tôi ra phía sau nhà đến một cái kho đầy những bao lúa, bao đỗ và đậu. Bên trái lối đi là một hố phân. Trên bức tường phía bên phải dẫn lên căn buồng mà mụ già và mười người trong gia đình đang ngủ. Phía bên kia có một mái hiên che nào cào, nào bừa, cùng những nông cụ khác.

- Đấy! Chỗ này đấy, nếu các người muốn! Mười quan kim.

- Chỗ này là tốt lắm rồi. Vũ-Quế-Phan xoa tay trả lời. Chúng tôi sẽ xếp những bao này về một phía dựa theo bức tường trong kia, rồi chúng tôi sẽ trải rơm - rất nhiều rơm - dưới nền nhà và trải đồ ngủ lên trên. Nhưng chúng tôi sẽ chỉ trả năm quan kim thôi.

Những người đàn ông đã bắt tay vào việc, lấy những nạm rơm khô trên các đụn rơm sau nhà. Mụ già la lên phản đối. Rẻ qua. Chúng tôi lại sắp phá hết mấy đụn rơm. Mụ muốn đuổi chúng tôi đi không cho thuê cái kho nữa. Nhưng chúng tôi đã chiếm hết các chỗ. Chúng tôi tiếp tục sửa soạn chỗ ngủ, giả điếc mặc cho mụ già la lối và ngay cả lúc thêm một người đàn ông, một người đàn bà, hai đứa con trai, hai đứa trẻ nhỏ nữa xuống tiếp tay với mụ để la lối phản đối, chúng tôi cũng mặc. Tôi không biết đây có phải là màn hài kịch cốt để "nặn" thêm chút tiền thuê "nhà" hay quả thật họ sợ chúng tôi có ý gì khác với đống thóc đậu dự trữ của họ.

Ngay lúc đó, tiếng chó sủa vang rân cùng tiếng kêu cửa ở ngoài đường đã đánh lạc hướng của họ. Chắc lại là một vài người muộn màng, cùng đi theo con đường này, cũng đã bị đuổi từ nhà này sang nhà kia và lại đâm đầu vào cái nhà thiếu thân thiên này. Họ sẽ phải đi xa hơn nữa. Ở đây không còn chỗ nào khác hơn chỗ chúng tôi đang chiếm; còn chúng tôi sáu mạng, đồ ngủ trải ra sát nhau là vừa đủ không còn lấy một kẻ trống lọt chân nữa.

Mụ già quầy quả đi ra phía trước. Chúng tôi nghe thấy tiếng một người đàn ông đang hết sức năn nỉ, tiếng mụ già tru tréo từ chối; rồi giữa lúc mấy con chó bặt tiếng sủa, chúng tôi nghe thấy một tiếng kêu thảm thiết, không còn ra tiếng người nữa, tiếng kêu xé ruột biến thành tiếng gào rú đau đớn. Tôi nhận ra ngay tiếng kêu đó. Đó là tiếng kêu của một người đàn bà đau đẻ, một tiếng kêu không giống tiếng kêu nào khác.

Tôi nói với Pao và Vũ-Quế-Phan:

- Nhanh lên đi! Đúng là người đàn bà chửa trên xe. Hãy bắt họ phải cho bà ta ở đây.

Quả nhiên chúng tôi nghe thấy tiếng mụ già phản đối dữ dội:

- Đi đi! Không có chỗ. Mấy người dơ và xui xẻo lắm. Không! Dù là có tiền cũng không. Đi lẹ lên!

Điều này có vẻ phi nhân quá nhưng thật ra nó không hẳn như vậy. Tính dị đoan đã khoác lên hành động chửa đẻ một hào quang đầy bí hiểm và ghê sợ. Mặc dù người Trung-Hoa rất ham thích có con, mặc dù họ rất yêu mến con cái, nhưng chính cái hành động sinh nở lại được coi như là xấu xa và ghê tởm. Sau khi sinh nở, người ta phải làm các phép tẩy uế, phải đốt các nhánh trắc diệp, phải thắp hương, phải đốt pháo. Trong ba mươi ngày kế đó, người ta phải liên tục bói các điềm lành gở. Khi tuần trăng chưa qua, người đàn bà đẻ không được phép bước qua thềm cửa hay ngõ vào, sợ sẽ mang tai họa đến cho những người sống trong nhà. Trước những điều đe dọa ghê gớm như vậy, không có gì là lạ đối với việc các người như đám dân quê ngu tối này từ chối rước lấy tai họa của một khách qua đường.

Nhưng tôi, tôi không thể chấp nhận cái lòng dị đoan của họ được. Tôi không để cho người ta đuổi người đàn bà khốn khổ kia đi đẻ rơi đẻ vãi ngoài ruộng trống được. Tất cả bản năng nghề nghiệp của tôi nổi dậy. Tôi chả là một cô đỡ là gì.

- Để bà ta ở dưới mái hiên, tôi la lên. Họ sẽ trú tạm ở đó và bà ta sẽ chẳng bước qua ngưỡng cửa nào cả.

Vũ-Quế-Phan đi kiếm mụ già. Chúng tôi nghe thấy tiếng anh ta vui vẻ át những tiếng phản đối. Tôi lấy một cây đèn cầy và bước ra ngoài hàng hiên. Pao và đại tá Hoàng xếp gọn các nông cụ và đi lấy rơm trải xuống đất.

Vũ-Quế-Phan dẫn mấy người mới đến vào. Đúng như tôi đoán, đây là gia đình đã đi chung với chúng tôi trên xe. Người chồng đỡ ngang lưng vợ, mấy đứa bé chập chững phía sau, mắt đờ đi vì buồn ngủ.

Đứa bé chào đời khoảng năm phút sau đó. Trong suốt thời gian du học ở bên Anh, tôi không bao giờ ngờ được rằng chuyện đỡ đẻ đầu tiên của tôi tại quê nhà lại như thế này. Gắn trên một cây đà ngang, cây nến tỏa ra một vùng ánh sáng mù mờ, đặc khói. Người đàn bà nằm dài trên một cái chăn trải dưới đất. Tôi quỳ lom khom trên mớ rơm cạnh bà ta. Mấy đứa trẻ khoanh tròn như mấy con chó nhỏ đã ngủ khì. Người chồng ngồi xổm bên cạnh, siết chặt lấy tay vợ khi người đàn bà la lớn lên, thu hết sức lực để đẩy đứa bé ra chào đời. Tôi không có một tí dụng cụ gì, không có cả lấy một chút lửa để sưởi ấm cho sản phụ, không có lấy một chút nước để lau cho bà ta. Tôi chả làm gì được hơn ngoài việc tiếp nhận đứa bé khi nó lọt lòng và cột núm rốn nó bằng một sợi dây nhúng trong thuốc i-ốt. Tiếng gào của người mẹ ngưng bặt và người ta nghe thấy tiếng oe oe yếu ớt của một đứa trẻ sơ sinh. Tôi đặt nó nằm trên hai bàn tay. Đó là một đứa con trai, một đứa trẻ đẻ thiếu tháng, nhỏ xíu, chưa sẵn sàng để đón nhận cuộc sống. Khuôn mặt nhỏ nhăn nhúm như cau lại trong một niềm đau, cái cổ họng bé tí cố vươn ra để hút không khí; chân tay khẳng khiu như chân nhện, co quắp như đang bị rơi hẫng trong cơn kinh hoàng. Tôi cuộn nó vào trong cái áo cũ mà bố nó vừa lôi từ trong bọc ra và đặt bên cạnh mẹ nó.

Tôi đứng dậy và cái hàng hiên mờ tối bóng đêm đảo lộn quanh tôi. Mùi i-ốt hắc nồng hòa với mùi hôi thối của hố phân bên cạnh, mùi tanh máu tươi và mùi thơm nồng nặc của chút nước hoa mà tôi đã dùng để rửa tay vì không có rượu cồn. Bất thần, tôi lợm giọng muốn buồn nôn. Tôi quờ quạng băng qua sân tiến về chỗ trú của chúng tôi và buông mình nằm vật trên chiếc chăn bên cạnh Pao. Toàn thân đau nhức và tôi khóc mướt cho đến khi ngủ thiếp. Tôi cố chặn tiếng nức và cố giữ cho người đừng run để Pao khỏi thấy.

Tôi ngủ thiếp cho tới tận sáng ngày hôm sau, người như lặng đi trong một thứ kinh dị. Khi tôi tỉnh dậy, Vương-Vũ-Liên đang ngồi cạnh bên tôi. Những người khác đều đã đi hết cả. Họ đi bộ về Sơn-Đầu để thăm dò tin tức xe lửa. Vũ-Liên đi kiếm cho tôi thứ gì ăn. Ngồi bệt dưới đất, tôi ngước nhìn lên mái nhà tranh, không hồn. Cơn đau tấy đã rút đi khiến cho người tôi mệt mỏi nhức nhối. Tôi biết rằng tai nạn đã qua khỏi, nhưng đứa con mà tôi hy vọng đã không thành hình. Phải biết là tôi sẽ vui mừng thế nào, dù phải sinh nó ra trong một ngôi nhà nghèo hèn, như là người đàn bà tôi giúp đỡ tối qua.

Vũ-Liên mang đến cho tôi một vắt cơm và khi ăn xong tôi đứng dậy. Chúng tôi có thể tiếp tục cuộc hành trình bất cứ lúc nào và tôi không dám để cho mình bị bệnh nữa. Tôi sắp xếp đồ ngủ lại. Tí nữa tôi sẽ đi thăm con bệnh nằm dưới mái hiên của tôi. Khi đầu gối hết run, tôi sẽ đi. Tôi nhìn vào phía sân trong; người chồng vừa từ dưới hàng hiên bước ra. Ông ta mang một bó nhỏ, dài chừng ba mươi phân, bỏ trong một miếng vải xanh dương và gói bằng sợi dây lạt. Trên vai, ông ta vác một cái quốc. Hai đứa bé đi theo sau. Họ đi về phía sau một bụi tre trên bờ một thửa ruộng trống. Người đàn ông đặt cái gói vải xuống đất và đào một cái lỗ nhỏ. Hai đứa nhỏ dương đôi mắt tò mò kinh ngạc nhìn, chẳng hiểu gì cả. Người chồng đặt đứa bé con xuống dưới lỗ và lấp đất lên, đắp thành một cái gò con con rồi lê chân trở về chỗ trú. Lát sau khi tôi đến thăm, cả sản phụ lẫn tôi đều không ai đá động đến đứa bé bất hạnh. Bà ta chấp nhận việc nó sinh ra cũng như việc nó chết cách thản nhiên. Tôi không biết bà ta có đau khổ chút nào không. Có lẽ bà ta cho rằng nó chết như vậy lại hơn.

Vương-Vũ-Liên đang cố nhúm lửa bằng mấy cành cây trước nhà và chúng tôi sửa soạn nấu ăn. Chúng tôi mượn được chiếc bàn lung liêng cùng vài chiếc ghế đẩu và một chiếc ghế dài. Pao, Vũ-Quế-Phan và bà Hoàng đã trở về. Họ cho biết là hôm nay không có chuyến xe nào cả.

Chúng tôi sắp đặt một cuộc sống tạm. Đàn ông vác cào cuốc ra đồng với các nông dân. Chúng tôi sống bằng mấy trái ớt, đậu phụ và củ cải bới trong vườn. Ngày đầu tiên tôi chỉ nuốt được chút đường và nhân sâm hòa trong nước cơm. Tôi vẫn còn thấy người rất yếu và đau nhức, nhưng tôi không muốn chịu thua cơn bệnh. Tôi lê đôi chân chậm chạp, tránh không để cho cơn đau ngấm ngầm đang rình rập có dịp tái phát. Vương-Vũ-Liên và bà Hoàng lo việc cơm nước. Ban đêm chúng tôi thắp ngọn đèn dầu có hình dáng giống như cái ấm chè với cái bấc nơi vòi. Chúng tôi chung nhau cái chậu duy nhất, thay phiên nhau rửa ráy rồi chui vào trong chăn. Chúng tôi nằm thành một hàng ngang theo tường, chỉ có Quế Phan nằm dọc chắn ngay cửa để canh chừng. Mấy tên cướp có thể dẫm lên mình anh ta cũng chẳng lo đánh thức anh ta dậy. Khi ánh sáng vừa tắt, các tiếng động ban đêm bắt đầu nổi dậy: có cái gì lột xột trên mái tranh! Nó cào nó nhấm gây thành tiếng sồn sột, chin chít. Chuột! Chúng nhấm hết lớp da của mấy chiếc va-ly của chúng tôi, chúng chạy cả lên người khi chúng tôi ngủ. Tôi lo sợ hết hồn mỗi khi nghĩ chúng sẽ cắn tôi trong lúc ngủ.

Ngày hôm sau, ngày hôm sau nữa cũng không có xe lửa. Ban ngày chúng tôi vật lộn với ruồi (sinh sôi trong cái hố phân) và ban đêm với chuột. Mấy người đàn ông kéo nhau ra đồng làm việc coi như tập thể thao. Sau một thời gian, đám người nhà quê đã tỏ ra thân thiện hơn, chỉ trừ mụ già vẫn tiếp tục rình mò chúng tôi xin chút nước nóng, ít củi, một miếng dẻ lau, mụ im lặng giả điếc. Vì vậy Vũ-Quế-Phan phải đảm trách công tác đặc biệt là thu phục mụ già và thành công trong việc chấn tĩnh mụ ta được phần nào.

- Coi nào má, anh ta thuyết. Trông má đầy vẻ phúc đức, nhân từ. Hãy tử tế với tụi con, rồi má sẽ đầy dẫy con cháu, tử tôn và sẽ giầu có. Má sẽ là bà già phúc đức tiếng tăm nhất vùng này!

Thế là mụ ta toác miệng ra nhăn một nụ cười méo mó...

Đến sáng ngày thứ tư người ta báo cho chúng tôi biết là chuyến tầu sẽ khởi hành vào lúc bốn giờ chiều. Tin giải thoát này được đón mừng y như là ngọn gió đối với chiếc thuyền buồm bị chặn đứng vì kẹt cứng trong đám rong trên biển Sagasse (*). Nó thổi tan cái cảm tưởng lạc lõng, vô công rồi nghề đã ám ảnh chúng tôi suốt mấy ngày chờ đợi. Chúng tôi cuốn mùng mền, sắp xếp hành trang và từ giả chuột, từ giả ớt, từ giả hố phân.

Chúng tôi nối đuôi nhau đi dọc theo bờ ruộng. Từ xa chúng tôi đã thấy đám người lố nhố chật ních cả làng, trông giống như một đàn bọ đen nhung nhúc, một đàn kiến, đàn ong. Không phải chỉ có các bạn đồng hành trong Bộ Tham Mưu không thôi, chúng tôi còn có cả đám dân tản cư ở Trường-Sa hay ở các vùng bị chiếm đóng khác xa hơn về phía Bắc...

Chúng tôi cũng đến được toa tầu của chúng tôi, một toa hạng nhì với các hàng ghế gỗ dài xếp đối diện nhau từng đôi một. Khi toa tầu đã chật ních không còn ghế nào trống nữa và khi đám trẻ con được dồn vào một đống tại những chỗ không có ghế, người ta mới chất hành lý lên, nào dưới sàn, nào trên đầu và các bọc hành trang lớn tướng, lủng lẳng trong màn lưới ngăn ngay trên đầu chúng tôi cách dễ sợ... Sau khi phía trong toa xe đã chất đầy người và hành lý, đám dân chạy tản cư ùa lên xe, trèo lên nóc toa, tràn vào đầy cả lối đi, đứng chen chúc trên các bực thang lên xuống làm thành một khối chặt cứng đến nỗi không còn cách gì để mà nhúc nhích nữa. Chẳng có thứ tự, hàng lối gì cả. Thực ra thì chính viên sỹ quan lo việc chuyển vận cũng phải đi tìm lấy một chỗ vào phút chót. Bởi chẳng còn chỗ nào, anh ta đành phải đi hết cuộc hành trình cho tới Quế-Lâm trong phòng máy với tài công.

Chúng tôi ngồi chịu trận suốt từ bốn giờ cho đến nửa đêm. Mặt trời đã rơi xuống nóc xe suốt ngày và phía trong đúng là một cái lò lửa. Khi trời đổ tối người ta treo một cái đèn dầu lên. Đám trẻ con khóc dấm dứt, mệt mỏi và đói khát hay nằm vắt ngang trên đống hành lý ngủ vùi. Gia đình ở hàng hiên lại đi chung toa với chúng tôi. Người mẹ vạch áo chìa vú cho một đứa bé, rồi đến đứa kia, thế là chúng dịu đi rồi ngủ ngay trên tay bà ta. Không ai dám rời xe đi kiếm thức ăn hay đồ uống bởi vì tầu có thể chạy bất cứ lúc nào. Tầu lăn bánh đúng vào lúc nửa đêm. Lập tức không khí trở thành mát rồi lạnh, rất lạnh. Người ta đóng sập các cửa sổ xuống. Không khí không còn lưu chuyển được trở thành nặng nề, ngột ngạt. Chúng tôi mở cửa sổ ra một lát nhưng những người ở phía sau vì có con trẻ, phản đối dữ dội, nên lại phải đóng lại.

Cuộc hành trình kéo dài trong năm ngày, gần như một cuộc sống riêng biệt, khác hẳn với những gì chúng tôi đã sống qua và những gì sắp tới. Trong toa chúng tôi có cả thảy tám mươi bảy người, chưa kể số người tản cư phụ trội. Mỗi người chỉ có đủ chỗ đặt đít ngồi, không hơn không kém và chúng tôi đã phải sống năm ngày liền trong cái khoảng không gian đó. Mỗi khi tầu ghé vào một nhà ga, đôi khi chúng tôi có dịp ra khỏi tầu để mua nước rửa ráy và nuốt vội vã một bữa cơm. Nhưng trên lối đi cũng như trên các bực thang lên xuống đều đầy những thúng mủng, bao, bọc và người tản cư khiến cho mỗi lần lên xuống là y như đánh vật mới lách ra được một lối đi. Hơn nữa, chẳng bao giờ chúng tôi biết được tầu sẽ đổ lại trong bao lâu. Một lần, cả một đám hành khách bị bỏ lại trên sân ga. Tầu đã bất thần chuyển bánh chẳng báo trước và đám người đó chạy dọc theo đường sắt, vừa la ơi ới vừa vẫy gọi. Bởi vì họ quá đông nên tầu phải đổ lại cách đó hai cây số để đợi. Rất nhiều khi họ đậu lại hàng giờ liên tiếp hay hàng nửa ngày ở giữa đồng khiến chúng tôi không còn cách gì kiếm đâu ra thức ăn uống. Thế là chúng tôi đành gậm bánh lạt rắc mè. Ban ngày trời rất nóng, ban đêm trời lại rất lạnh; thế là khi trời vừa tối, chúng tôi chất thêm thật nhiều áo quần lên người. Không có chỗ để trải mền, đến ngay cả việc cuốn mền chung quanh người cũng không thể được, vì các ghế đều quả thật không thể chứa chúng tôi nếu lại cuốn thêm mền chung quanh...

Kể từ ngày thứ hai của cuộc hành trình, sân tầu đầy ứ rác đến tận mắt cá chân: vỏ cam, giấy, vỏ lạc, bã mía... Không có ai quét cả. Rồi, dần dần, không khí trở thành hôi thối thêm vào với mùi hơi người đông đúc và bẩn thỉu. Chỉ có một phòng vệ sinh cho tám mươi bẩy người. Bệnh ỉa chẩy lan tràn - có lẽ vì ớt, vì ruồi và vì sự ăn uống thiếu tiết độ - và người ta sắp hàng chờ suốt ngày đêm. Chẳng bao lâu, các cầu đều nghẹt và trào cả ra ngoài. Cửa bị kẹt nên không thể đóng kín lại được. Không có nước xối hay lau rửa. Mùi hôi thối trở thành kinh khủng không thể nào chịu nổi nhưng công việc tiêu hóa vẫn không ngừng...

Chúng tôi sống hơn tám mươi mạng chung nhau như vậy trong vòng năm ngày, chật chội nhưng vẫn giữ lễ với nhau, vẫn vui đùa với nhau; nói chung, chúng tôi cư xử với nhau như thể đây là một cuộc du hành. Đối với tôi lễ độ là một trong những đức tính cao trọng nhất trong cơn hoạn nạn, cái phong cách đó là tất cả nền móng của tập tục Trung-Hoa. Cái vẻ lịch sự bên ngoài đã xóa bỏ được những cuộc xung đột. Chúng tôi cười với nhau, cúi người chào nhau, nói với nhau những lời thăm hỏi thông thường và tuyệt diệu thay, cả ngàn điều bất bình quanh chúng tôi đều biến hết.

Chúng tôi không có sách vở, báo chí gì hết. Chúng tôi giải trí và giúp vui người khác bằng các câu chuyện, các bài thơ, các mẩu chuyện xã giao với người này, người kia khắp tầu. Dĩ nhiên chúng tôi nói đến chiến tranh, nhưng tuyệt nhiên không hề nghe thấy ai nguyền rủa hay oán trách người Nhật về cái hoàn cảnh khốn khổ hiện tại. Tất cả đám hành khách này hầu như đều đã mất cả sản nghiệp và nhà cửa vì cuộc xâm lăng. Hầu hết đều từ Nam-Kinh. Nhưng họ không thèm lý đến việc mất của cải vật chất. Chỉ có một điều khiến họ ấp ủ một nỗi căm hờn ngấm ngầm là việc hiếp dâm tập thể các phụ nữ Trung-Hoa. Đó là một điều không thể tha thứ được. Tuy vậy, ngay cả trên vấn đề này, họ cũng không hề có ý báo thù hay thù hận truyền kiếp mà chỉ bày tỏ lòng tin tưởng chắc chắn rằng những điều tàn nhẫn dã man đó chỉ là một khía cạnh của tính khí người Nhật trong cái căn bản phi đạo đức của họ. Chính vì cái điều thiếu tác phong đó mà người Nhật đã bị lên án phải thua. Họ không thể thắng được cuộc chiến tranh này, họ không thể giữ được. Họ thiếu cái căn bản vững vàng nội tại của truyền thống gia đình Trung-Hoa. Người Nhật không có căn bản đạo đức - đó là điều kết luận của đám hành khách đồng hành với chúng tôi - Họ vô đạo đức, do đó họ và xứ sở của họ đều bị lên án. Rất có thể nó sẽ kéo dài một trăm năm, có thể hơn, nhưng không ai lại có thể nghi ngờ cái kết quả sau cùng. Người Nhật phải bị hạ!

Chuyến xe của chúng tôi lê lết qua những cánh đồng của tỉnh Hồ-Nam với hai đám hành khách: nhân viên Bộ Tổng-Tham-Mưu ở trong xe và đám dân tản cư ở trên nóc... Sáng ngày thứ ba, xe phải ngừng lại tại một ngôi làng để sửa chữa. Càng ngày cuộc hành trình của chúng tôi càng quắt quéo và trục trặc. Sáng hôm đó, vì cần sửa một cơ phận quan trọng trong đầu máy, chúng tôi biết là phải đợi ít ra là một giờ hay hơn nữa. Thế là lập tức tất cả mọi người, dân tản cư lẫn Bộ Tham-Mưu đều tủa vào làng hay các cánh đồng chung quanh. Quang cảnh chỗ nào cũng là một đám người đang rửa ráy, kỳ cọ, gãi ngứa, cởi quần áo lùng chấy rận hãy lo làm những công việc khác mà thông thường ra phải làm cách kín đáo hơn. Sau một vài kinh nghiệm sống tập thể, tôi nhận thấy đàn ông thường hay mất phong cách và ý hướng thuần phong mỹ tục hơn là phụ nữ.

Pao và tôi vớ lấy chiếc chậu và chạy vào trong làng kiếm nước nóng. Hàng trăm hành khách khác cũng có ý định đó. Đến trước hàng nước thứ nhất chúng tôi thấy toàn những nồi trống và có cả chục người đang đứng xúm xít quanh chiếc lò đợi nước sôi. Quán thứ hai cũng cùng một cảnh như vậy. Người ta đứng xin nước trước tất cả mọi quán ăn, quán nước nào có lò lửa. Họ tràn cả vào bếp tư gia, khua chậu, múa khăn và tiền để đổi một chút nước nóng. Chúng tôi cũng ùa theo. Chúng tôi bước vào một chiếc sân và gặp mấy người đi từ trong sân ra, tay khư khư chậu nước đầy, nhưng khi chúng tôi vào đến lò, người ta đã vét giọt nước nóng cuối cùng và bà chủ nhà đang định đổ vào nồi một thùng nước lạnh khác. Bằng một cử chỉ quyết liệt, Pao giằng lấy thùng nước và đẩy tôi vào trong một khung cửa:

- Tú-Anh, vào đi!

Chàng cài then và đứng ngoài canh gác. Tôi thấy mình đang đứng trong một căn phòng ngủ tối mờ. Tôi đổ nước vào trong chậu, cởi hết quần áo và bắt đầu lau mình mẩy. Nước lạnh và sạch thấm vào người nhưng lại thật là tuyệt vời. Tôi lau chùi cho đến khi da tôi đỏ ửng như chín lên và bóng loáng rồi tôi mặc quần áo và đến lượt Pao. Những người ở trong phòng phản đối ầm ĩ. Tôi chống trả với họ trong khi Pao lại loay hoay lau rửa, nhưng họ vẫn tiếp tục càu nhàu ngay cả lúc chúng tôi bỏ đi. Dù sao cũng đỡ cau có hơn vì họ đã kiểm soát thấy rằng chúng tôi không đánh cắp gì của họ cả.

Còi tầu rú lên gọi chúng tôi về thật bất ngờ. Chúng tôi leo qua cửa sổ để về chỗ. Pao đỡ tôi lên rồi chàng chuồi mình vào. Nó đã trở thành cách ra vào thông thường của chúng tôi vì hầu như không có cách gì rẽ được một lối đi giữa đám người tản cư đứng chật cứng ngoài cửa. Chúng tôi sáng rỡ lên vì sạch sẽ và hứng chí. Chung quanh tôi, không khí thơm mùi nước hoa vì tôi đã trút chất cả chỗ còn lại vào trong chậu nước. Chúng tôi có vẻ như vừa mới tắm xong. Trong khi những người khác chỉ lo đến bữa ăn sáng, chúng tôi lo rửa ráy. Một sự yên lặng kỳ lạ trùm lên quanh chúng tôi. Thèm thuồng? Kinh ngạc? Tôi không biết nữa. Một cuộc tắm gội chẳng giữ được bao lâu. Còn hai ngày trong cái căn buồng di động bẩn thỉu này nữa. Chúng tôi hực lên vì nóng, vì mồ hôi và vì ngứa ngáy. Quần áo bám dính vào người chúng tôi, bốc mùi hôi khó chịu. Tóc chúng tôi nhơm nhớp với mồ hôi, bụi và khói. Cổ chúng tôi khô cứng vì khát, mắt chúng tôi nhức nhối vì gió và bụi. Dù vậy, thật ra, tất cả những điều đó cũng chưa thấm gì.

Sau này, khi chúng tôi gặp những người bạn ở Bắc-Kinh, các câu chuyện về các điều gian nan cực nhọc trên đường của họ phá kỷ lục về những điều chúng tôi có thể chịu đựng được. Một trong những người bạn của chúng tôi cùng với bốn đứa con đã phải đi từ Hán-Khẩu đến Ích-Trang trên một chiếc tầu thủy chất đầy những người, đến nỗi mọi người chỉ có đủ chỗ để đứng. Bị dồn sát vào thành tầu, cả năm bố con đã đứng như vậy suốt hai ngày hai đêm và ngay cả những đứa trẻ cũng không hề cất lời than vãn. Một cô bạn - đồng khóa tại đại học - một đêm kia đã lủi ra khỏi Bắc-Kinh và đã lội bộ cho đến tận vùng Trung-Hoa tự do. Một ngàn cây số, băng qua những thành phố đổ nát, các chiến tuyến của quân Nhật và các mật khu của kháng chiến.

Không! Những điều chúng tôi chịu đựng chẳng đáng gì.

Năm ngày. Chân trời Hồ-Nam lượn khúc, con sông rộng, những cánh đồng phì nhiêu nhường chỗ cho một thế đất lạ và hoang vu. Thoạt đầu những tảng đá trồi lên giữa cánh đồng thẳng tắp và xanh rì báo hiệu trước, rồi khung cảnh bằng phẳng thay đổi hẳn. Cánh đồng thẳng tắp như mặt nước bể đột nhiên bị những ngọn đồi chọc vỡ, chơ vơ giữa đồng như một ghềnh đá thẳng đứng hay những mũi tên nhọn hoắt chọc trời. Trước kia, nước biển ngập chỗ này, bao quanh các kè đá đó, bây giờ nước bể để lại một dẫy toàn sỏi và cuội tròn nhẵn vì nước. Những rặng núi tiến lại gần, những hình thù kỳ dị, quái đản nhô ra dưới ánh nắng chói chang của buổi trưa. Trông các ngọn núi giống như những con quái vật sống động, chồm đến trước chúng tôi, băng qua với những tiếng gầm, tiếng hét. Đó chỉ là tiếng xe nghiếng trên đường sắt mà dẫy đá ghê gớm kia dội lại. Nhưng trong cái cảnh dữ dội và siêu thực này, tiếng vang hình như vọng ra từ một cuộc sống tối tăm ngay trong lòng đá. Những dẫy đồi ở hai bên chồm đến chúng tôi như nhe nanh múa vuốt. Có những đoạn hình như chúng đuổi theo xe từng bước một, những con mãnh thú đang rình rập và săn đuổi chúng tôi. Trên đường chân trời, chúng thu hình lại, dọa nạt.

Mặt trời lan tỏa khắp nơi một ánh lửa đỏ chói. Những ghềnh đá khép lại quanh chúng tôi, càng ngày càng hoang dã, cao lớn và ghê khiếp một mầu máu và lửa. Chừng như đè lên chúng tôi khiến cho chúng tôi ngộp thở, sợ hãi. Xe lửa cứ tiếp tục chạy trong ánh chiều tà, băng qua những bóng xẫm đen. Tiếng còi hú lên dài đẳng và não nề như xuyên thủng dẫy đồi hoang dại; đỉnh đồi vẫn còn vương sót một thứ ánh sáng đỏ tía. Những mầu sắc trên trời xỉn dần; biến thành mầu xám tro. Bất ngờ xe lửa đứng dừng lại hất chúng tôi văng khỏi ghế. Chúng tôi đã đến Quế-Lâm.

Chú thích:

(*) Miền biển phía Bắc Đại Tây Dương có đầy rong.