CHƯƠNG CHÍN TRẠM NGƯNG Ở QUẾ -LÂM
Cứ kể mãi cái việc chúng tôi đến một nơi nào đó, đi kiếm một chỗ ở và dĩ nhiên chẳng còn chỗ nào trống, riết rồi cũng nhàm. Dù vậy, trong một cuộc sống đã mất hết các điều căn bản để sống, có được một căn phòng, một mái ấm dù tạm thời cách mấy đi nữa cũng là một hạnh phúc đáng kể. Quế-Lâm đã đầy ắp những người là người. Từ nhiều tháng nay, hàng lũ người kéo đến đây, chạy trốn khỏi những vùng bị đe dọa hay bị chiếm đóng...
Một cái cửa đen nhỏ với cái bảng hiệu: Khách Sạn Cửa Đông. Một chiếc sân thật ra chỉ là một giải đất hẹp. Một người hầu, một xạ phang ngái ngủ mời chúng tôi bước vào và dẫn đi thăm khắp lượt. Nơi đây người ta sống chen chúc bẩy tám người một phòng, người nọ nằm kề người kia như một bầy cừu hay như trong một chuồng heo. Chỉ có bóng tối và nói thì thào với nhau là cách độc nhất để có một chút riêng tư. Dù sao nó vẫn là một chỗ trú, một chỗ ở. Đó là tổ ấm của chúng tôi trong suốt khoảng thời gian gần hai chục ngày...
Ngày đầu tiên của chúng tôi ở Quế-Lâm hoàn toàn yên tĩnh và vô sự. Pao đi nhận lệnh tại Bộ Tham Mưu đặt trong các văn phòng rất đều đặn của một ngôi chùa cổ. Đã lâu người ta không còn thấy bóng dáng những nhà sư trong lớp áo cà sa xám, người ta không còn cúng vái những bức tượng Phật ở đây nữa.
Các phòng sở của Bộ Tổng-Tham-Mưu đặt ở gần cửa Tây của thành phố. Người ta xì xào với nhau rằng nhiều kho đạn dược lớn được chôn dấu quanh vùng này. Ngôi nhà của chúng tôi ở sát ngay cửa Đông. Từ đó con đường băng qua một chiếc cầu nhỏ và dẫn về các dẫy đồi cùng những hang động lớn, có thể tránh bom tốt hơn bội phần bất cứ chiếc hầm hố nhân tạo nào.
Các hang động của Quế-Lâm là một thắng cảnh thiên nhiên rất tiếng tăm, được rất nhiều du khách đến thăm viếng. Những ngày đầu tiên đến đây khi cuộc chiến chưa kịp đuổi theo, chúng tôi đã đi thăm mot vòng Thất Tinh Thạch Động, một dọc các đường hang thông nhau chằng chịt, rộng lớn y như một thành phố ngầm dưới đất... Đó là những hầm trú bom của Quế-Lâm; nó có thể chứa được toàn thể dân chúng vùng này. Trước khi chúng tôi đến, nơi đây không bao giờ bị dội bom. Nhưng các tổ chức gián điệp Nhật dọ biết những việc di tản của chúng tôi, nhận ra nhiều lãnh tụ quan trọng và thế là bom lại rơi xuống bắt đầu tư tuần lễ thứ hai của tháng chạp.
Ngày đầu tiên bị dội bom, Pao và tôi đang đi mua đồ tại ngã tư của hai con đường chính. Quế-Lâm chẳng có gì nhiều để mua vì vùng này rất nghèo. Chúng tôi lục tung các hàng sách, tiêu tiền vào sách vở quá cả cái mức mà túi tiền chúng tôi cho phép. Pao thích các chủ đề chính trị, còn tôi thích tiểu thuyết, nhưng tôi không tìm ra được cuốn nào cả, vì dân ở đây toàn là những người khô khan chững chạc. Cuốn khá nhất mà tôi tìm được là bộ Tam-quốc-chí, một bộ sách cổ viết cách đây tối thiểu hơn ngàn năm. Tôi cũng cần vài chiếc áo ấm vì tên thợ may ở Nam-Ninh đã chạy trốn với cả áo của tôi. Chúng tôi ngừng lại trước một tiệm vải ngay chính giữa trung tâm thành phố. Còi báo động hụ lên.
Khi tiếng còi hắc ám vang lên át hẳn cả những tiếng động khác, mặt người bán hàng đang tiếp chúng tôi xám ngắt, đứng chết trân như bị tê liệt vì kinh hoàng. Sau cùng, hắn cuốn vội vải vóc thành bịch để mang đi. Ngay lập tức, tiếng vân cửa rào rào: người ta đóng cửa tiệm. Pao và tôi đi bộ về phía nhà chúng tôi, chậm rãi và không sợ hãi gì cả. Chúng tôi đã biết quá nhiều các cuộc báo động, nhưng chỉ biết có một cuộc oanh tạc và ngay cả lần đó, sự việc cũng hầu như xa vời, giống như một chuyện hoang đường hơn là một tai nạn đã thực sự sống qua.
Về đến quán, tên xạ phang đón chúng tôi, đầu đội một cái mũ nhựa sơn đen, dấu hiệu của một chuyên viên cứu hỏa tình nguyện. Hắn nói với chúng tôi là sẽ ở lại và khuyên chúng tôi nên giao đồ đạc cho hắn, chỉ nên mang theo những gì quý giá nhất. Khi chúng tôi ló ra đường, một dòng người mãnh liệt cuốn chúng tôi ra phía cửa thành. Chúng tôi vừa ra khỏi cửa được mươi bước thì hồi còi thứ hai hụ lên. Máy bay đang bay đến gần! Chúng đến thẳng Quế-Lâm! Chúng tôi sẽ bị oanh tạc! Thế là một nỗi khiếp sợ ghê gớm bùng lên, một nỗi kinh hoàng mà tôi chỉ gặp lại ở Trùng-Khánh.
Cuộc dội bom này đã phá hủy trung tâm buôn bán của Quế-Lâm khá chính xác. Sáng ngày hôm sau, khi đi chơi, chúng tôi chợt đi ngang qua cái nền nhà của cái cửa hàng cách đây hai mươi bốn giờ chúng tôi còn đứng mua vải. Trong khi chúng tôi còn đang đứng tại đó, giống y như là một tiếng vọng từ chiều hôm qua - cũng đúng ngay một giờ - còi báo động lại hụ lên.
Sự kinh hoàng ngày hôm qua không xảy ra nữa. Trước đó hàng giờ, người ta đã bồng bế kéo nhau ra khỏi thành phố, chăn mền cuộn tròn trên vai, tay chất đầy những bao, bịch. Không hấp tấp vội vàng gì cả, chúng tôi quay về quán trọ, lấy gối đồ quý, giao chìa khóa cho tên xạ phang và ra khỏi thành phố. Chúng tôi băng qua cây cầu cùng với một nhóm người khác, cũng bình tĩnh, không hấp tấp, vừa đi vừa nói chuyện với nhau cách thản nhiên. Mặc dù còn xa mới đến các hang động trú bom, Pao và tôi đi tách về phía ruộng. Chúng tôi không sợ, bởi vì chúng tôi chưa bao giờ bị sợ hãi đủ lâu để biết lo nghĩ chín chắn. Nhìn một cuộc oanh tạc từ xa là một chuyện, nhưng vội vã chạy trốn một trái bom xé không khí rơi ngay lên đầu lại là một chuyện khác. Sau khi đã kinh nghiệm điều này một lần, lòng tin vào phép tính xác suất may rủi sẽ bất di dịch và ta không còn ngại gì nguy hiểm nữa. Nhưng vào thời đó, chúng tôi không có kinh nghiệm gì cả và lòng khinh rẻ đám đông của chúng tôi mạnh hơn là ý thức về các điều nguy hiểm. Chúng tôi đi lang thang giữa các vườn cây và các vòm cây keo, hái vài ba cánh hoa đồng. Chúng tôi có mang theo cả sách. Trong khi chờ đợi máy bay - không đến - chúng tôi nằm dài dưới gốc cây đọc Tam-quốc-chí và các bài thuyết chính trị của Bạch-Chung-Si.
Chúng tôi rời Quế-Lâm vào một trong những buổi sáng bị máy bay tới viếng, vì trời hôm đó rất thấp, một lớp mây xám đã phủ ngang khắp vùng. Những dẫy đồi bọc theo đường chân trời hiện ra như một khung cảnh huyền hoặc. Giữa đám sương xám ngắt, nó có vẻ nổi lên như được khắc trên bìa cứng. Với một ngày như vậy, không còn thấy ánh mặt trời chói chang, ta biết rằng trời đã sang đông...
Hai ngày đầu chúng tôi được toàn xe tốt và tài xế giỏi, nhưng sau đó toàn là xe cũ nát: đèn bể, nắp xe nhăn nheo và sét, thùng nước rỉ chẩy, động cơ cũng chẳng tốt gì hơn... Những tên lái cái đống sắt di động đó chỉ một ý niệm tối sơ đẳng về vấn đề cơ khí. Sau khi đã qua khu vực từ Quảng-Tây đến Quế-Châu, chúng tôi giao phó sinh mạng cho những tên tài xế hoàn toàn ẩu tả.
Dù vậy, so với cuộc hành trình đến Quế-Lâm, lần này có thể coi như thú vị được. Đến giờ ăn, chúng tôi ngừng lại để kiếm đồ ăn nóng. Chúng tôi dừng lại mỗi đêm để ngủ và đôi khi tại những chỗ đến lạ kỳ cục. Trên đường, quả có nhiều chỗ làm chúng tôi thích thú, chỉ trừ những cua quẹo gắt, những đường vòng vèo hay những khi xe phóng như bay trên các ghềnh đá và vực thẳm, tính mạng giao vào tay những tên khùng không hề biết thắng là cái gì.
Chiều tối hôm Giáng-Sinh, chúng tôi được nằm đất trong phòng tiếp tân lớn của tòa thị chính Y-Trang, trên cái nền cao được dùng để trình diễn văn nghệ. Ngày hôm sau chúng tôi tiến vào Quế-Châu, vùng rừng núi hoang vu gần như không có ai tới, cho tới mấy ngàn năm gần đây vẫn cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài.
Trong các khu đồng bằng và ven núi có nhiều bộ lạc người Thượng sinh sống: đàn ông có dáng cao lớn, da ngăm đen, mặc những áo rộng mầu đỏ, vàng hay tím có lót da thú, đàn bà thì trang sức bằng nhiều vòng đeo tay nặng, những khoen tai và các chuỗi bằng bạc nạm ngọc hay san hô. Chúng tôi thấy họ trong các thị trấn khi họ đến đây đổi các giá rổ, đồ sành và các loại da thú. Họ đi giữa đám người Trung-Hoa với dáng đi nhẹ nhàng, hai con mắt nhỏ nhanh và e dè như cặp mắt một con báo.
Không có những thành phố quan trọng trong vùng Quế-Châu, nhưng khắp nơi chỗ nào chúng tôi cũng nghe thấy những giọng quen thuộc: "Coi kìa! Đó là giọng Hồ-Bắc! Đây là Nam-Kinh! Ninh-Ba! Hán-Khẩu!"
Nơi đây, khu Trung-Hoa tự do tụ tập hàng triệu người không muốn sống trong tù hãm dưới gót giầy quân Nhật.
Tại một vài vùng ở Quế-Châu, Vân-Nam và Tứ-Xuyên vẫn còn những nhà hút thuốc phiện, bất hợp pháp nhưng rất được ưa chuộng, giống như những quán rượu lậu bên Mỹ thời cấm rượu...
Chúng tôi đã chạy trong đêm tối được một lúc lâu, không có đèn. Một cơn mưa nhẹ và lạnh bắt đầu rơi xuống. Con đường vốn chỉ là một giải xám mù mờ, nay trở thành vô hình trong cái cảnh tối tăm mờ mịt này. Thế là chắc chắn chúng tôi không thể đến thành phố đã dự định và đến chín giờ tối, chúng tôi ngừng lại tại thôn xóm đầu tiên hiện ra. Đó là một ngôi làng kỳ dị với khoảng vài chục căn lều vách đất xiêu vẹo, nằm chìm trong bóng đêm trên sườn đồi trọc lốc.
Chúng tôi tràn vào trong cái quán độc nhất xin trú qua đêm. Một mùi vị ấm êm xông thốc vô mũi như mùi vỏ cảm cháy, một mùi vị khó quên sau khi đã ngửi qua một lần, tràn ngập không khí. Chính tôi cũng chưa biết là mùi gì, phải một lát sau, khi tôi làm một vòng quan sát chung quanh, tôi mới đoán ra: đó là mùi khói thuốc phiện. Những tấm nệm cỏ xếp dài theo tường, ở giữa là những ngọn đèn mù mờ, hình thù kỳ lạ và đám đàn ông nằm dài trên nệm, không thức cũng không ngủ mà như thể đang đắm mình trong một nghi lễ kỳ bí. Những bàn tay cử động nhanh nhẹn trên các ánh lửa lập lòe phóng ra nhiều bóng in trên tường. Những khuôn mặt đổ dồn về hướng các ngọn đèn, trông giống như những cái khuôn đúc trong ngà, lớp da nhăn nheo bọc lấy xương. Đôi môi khô và nhợt nhạt, mắt lờ đờ như bị che dưới một cái màng mầu vàng. Khi chúng tôi vào, họ chẳng động mình cũng chẳng thèm ngoái cổ nhìn. Mất cả thiên tính tò mò, họ mụ đi. Mụ vợ ông chủ quán đi từ người này sang người kia, đưa cho họ những công thuốc phiện sống. Đó là một mụ đàn bà xấu xí, đầu tóc bù xù, da mặt vàng ủng; tròn quay và có những nét tinh quái. Những người nghiện dùng một dụng cụ mỏng như cái kim đan để lấy thuốc. Họ xoay đi, xoay lại viên thuốc trên ngọn lửa làm cho nó phồng lên trong khi mắt mơ màng không ngừng nhìn nó chăm chú. Họ ấn viên thuốc trên một miếng đá nhẵn, ve cho nó thành hình, nhét nó vào trong cái lỗ tẩu bằng đồng rồi nằm hít lấy khói thuốc. Kế đó lại nướng viên thuốc khác. Mặc dù họ chỉ đông khoảng hơn một tá, nhưng hình như phòng có vẻ đông hơn vì những cái bóng chiếu hắt lên tường và trên trần của họ.
Tất cả hành khách đều lên trên lầu bằng một cầu thang hẹp, nhưng Pao và tôi chiếm cái phòng tiếp khách và chúng tôi kê hai cái bàn sát nhau để làm giường rồi trải mền ra. Chiếc đèn dầu đặt trên cái ghế đẩu, ánh đèn trơ trọi tạo thành một vùng sáng úa. Mùi thuốc phiện đầy phòng y như ở phòng bên. Nó khiến chúng tôi hơi bị váng vất, khiến cho tôi có cái cảm giác như những chiếc bóng chung quanh tôi đều mọc cánh cả. Chúng tôi sửa soạn sơ qua để ngủ. Tôi lau mặt bằng cái khăn ướt, cởi áo ngoài và ngả mình nằm xuống. Pao ngồi xuống bên cạnh bàn, mặt chàng rực lên dưới cái áo len màu đỏ xẫm. Ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn làm nổi lên mớ tóc đen, cặp mắt sáng và sâu như hai vết đen trên khuôn mặt bằng ngà với những nét chân thành và cởi mở, đôi môi cong và dọ thám. Chàng cúi xuống trên tôi và tôi chìa tay về phía chàng... Cánh cửa kêu ken két và một giọng đàn bà cười rú lên the thé phá tan giây phút êm đềm đó. Pao nhẩy phắt xuống đất, mở toang cánh cửa. Mụ vợ ông chủ thản nhiên bước vào. Mụ cười khẩy và nói một câu thật thô tục rồi đứng trân ra đó cười, ý đợi chúng tôi cùng cười theo. Tôi không hiểu hết nghĩa câu nói nhưng Pao chẳng nói một tiếng nắm vai mụ đẩy ra ngoài, đóng sập cửa lại và chặn bằng một chiếc ghế. Chàng quay về phía tôi, vẻ mặt hung hãn, tức giận và cau có. Chàng thổi tắt ngọn đèn nhẩy phóc lên giường và quay lưng về phía tôi...
Một buổi chiều đông buồn tẻ, chúng tôi đến trước dòng Dương-Tử, đứa con kiêu hùng của biển cả mà chúng tôi đã từ giả ở Hán-Khẩu. Nơi đây là Trùng-Khánh, cách bờ bể ba ngàn cây số mà nó vẫn còn là vua các dòng sông, sóng nước đỏ ngầu và đầy bùn ào ào xô đuổi nhau với một sức mạnh trùng trùng. Bên bờ phía Bắc là dẫy đồi xếp thẳng một hàng, tối mờ đi vì rừng thông. Dòng nước lao vào một ghềnh đá trơ trọi nằm song song với bờ sông, vô tận và sủi những đợt sóng trắng xóa. Đứng từ bờ sông bên này, cách biệt bởi một mặt nước mênh mông, rộng hàng cây số, chúng tôi ngắm nghía cái kè đá khổng lồ có tên là Trùng-Khánh.
Xám mờ trong sương chiều, Trùng-Khánh trông giống như cái mũi tầu nhọn hoắt của một chiếc tầu đang rẽ sóng giữa dòng sông Gia-Lâm và sông Dương-Tử. Những tòa nhà đồ sộ, tầng này chất trên tầng kia, đứng sừng sững trên ghềnh đá. Khói mù trên nóc thành phố, cho khuất mọi chi tiết, nhưng những đường viền về một nét xám đậm rất rõ trên nền trời xám nhạt. Nhìn từ phía bên kia dòng sông như vậy, thành phố có vẻ siêu thực, trôi vật vờ trong màn sương, trong một ảo ảnh. Khoảng cách đã tạo nên ảo giác của hư vô. Không thể nào tưởng ra được tiếng ầm ầm của muôn ngàn thứ cọ sát lại có thể bốc lên trên những cái tháp xám nhạt đó. Đó chỉ là bóng dáng của một thành phố tuyệt vô sinh động. Đó chỉ là một thành phố tạo ra trong trí tưởng của chúng tôi, lặng lẽ, mù mờ trên mặt nước xám và mờ hơi sương.