CHƯƠNG MƯỜI ĐẠI GIA-ĐÌNH
Khi viết cuốn sách này, tôi đã nghĩ chỉ nói về Pao và tôi, cuốn hút trong cơn lốc của Trùng-Khánh binh lửa: đó là câu chuyện của hai thanh niên Trung-Hoa, cũng giống như hàng triệu thanh niên khác, có cuộc đời và các cuộc phiêu lưu tuy khác nhau về tiểu tiết, nhưng trên đại cương vẫn là câu chuyện của dân tộc tôi. Nay tôi nhận ra không thể trình bày câu chuyện này như một phản ảnh trung thực của nước Trung-Hoa nếu tôi không nói đến Đại Gia-Đình, đơn vị chính của đời sống Trung-Hoa. Một nhà thực vật học không thể nào chỉ nói đến chiếc lá hay cành hoa. Ông phải nghiên cứu tỉ mỉ cái hạt, cái rễ, thân cây, lá cây và cành hoa, phải khảo sát cái cây như là một toàn thể. Câu chuyện của tôi cũng vậy. Nếu tôi muốn nói về nước Trung-Hoa một cách vững vàng thỏa đáng chứ không phải bằng cách chấp nối vụn vặt hay méo mó, tôi phải mô tả cả gia đình tôi, cách sống, cách nghĩ, cách ăn, cách chơi và cách đương đầu với tai họa. Bởi vì tại nước tôi, đó là tất cả những điều căn bản của cuộc sống.
Tôi đã suy nghĩ sai lầm trong một thời gian khá lâu. Tôi tin rằng mình là duy nhất và tự mình có thể đảm đương lấy vận mệnh. Tôi phải về đến Tứ-Xuyên để nhận ra rằng tôi chỉ là tôi vì tôi là một người trong Đại Gia-Đình.
"Nếu có viết bút lông đẹp như vậy cũng không có gì là lạ, người ta nói với tôi như vậy, không hề ngạc nhiên về cái tài này của tôi tý nào. Chú hai của cô là một danh sỹ có hạng và ông nội của cô là một tay bút danh tiếng." Trong khi nghiêng mình trước di ảnh bà tôi, tôi khám phá ra là tôi có vòng lông mi cong vút của bà tôi và tôi tìm thấy chính ngay nụ cười của tôi trên môi một người em họ. Thế là tôi hết kiêu hãnh, hết thờ ơ vì tôi hiểu rằng, tách rời khỏi gốc gác và thân thế nơi người ta phát xuất ra, đời tôi sẽ bất toàn.
Ngay như cái khuôn phép họ hàng đã phản ảnh ý nghĩa của tình tương thân gia tộc Trung-Hoa. Con cái của chú bác - đúng ra là anh em chú bác ruột - được coi như chính anh em ruột. Ngay từ đứa con đầu, người ta đánh số thứ tự như là những "con trai và con gái của gia đình" không lý gì đến cha riêng của chúng. Chính vì thế mà hai cô em ruột kế tôi lại là thứ năm và thứ tám. Chị cả là cô con gái của chú cả. Tôi là chị Ba. Cha tôi có năm anh em và tất cả đều đã lập gia đình, có con. Thế hệ tôi hiện có mười bốn trai và mười sáu gái còn sống và khoảng chừng đó chết. (Những người này cũng được sắp thứ tự; trừ khi chết lúc còn nhỏ.) Cách gọi bằng số thứ tự đúng là cách độc nhất để tránh nhầm lẫn!
Trong hàng tổ tiên, không phải chúng tôi chỉ kể đến dòng chính. Ông nội tôi vốn là con trưởng và đã chết từ lâu và được gọi là "ông Cả". Những người em của ông, chúng tôi không gọi là những ông chú mà gọi là ông Hai và ông Ba tùy theo tuổi tác. Trong lớp này chỉ còn ông Ba và bà Năm sống. Vì ông Ba đã cưới vợ đến ba lần, nên con cái của ông khá đông. Tất cả đều được coi như cô chú bác của tôi, và được liệt vào hàng trên tuy có nhiều người cũng trạc tuổi tôi, có khi còn trẻ hơn.
Phụ vào với hệ thống thứ bậc đó, tên đệm của chúng tôi cũng chỉ rõ thứ bậc họ hàng. Tất cả trẻ con thuộc cùng thế hệ đều mang tên có một hay hai chữ đệm giống nhau. Trong thế hệ của cha tôi, đó là chữ Đại - "lớn". Thế hệ tôi là chữ Quang, có nghĩa là "sáng" như "Quang-Minh", "Quang-Ngọc" cho con gái. Trong cuộc đời, ta có thể mang nhiều tên, tên hồi nhỏ, tên học trò, tên chính thức, nhưng trong vòng gia đình tên đệm chung với các anh chị em vẫn theo ta cả đời. Tên đệm cho từng đời đã được chọn sẵn từ trước và được chọn theo những ý nghĩa tôn giáo và triết lý rắc rối. Trong gia đình chúng tôi, tên đệm cho mười hai đời sau đã được chọn sẵn và được ghi trong gia phả.
Tất cả những người trong gia đình đều liên hệ với nhau bằng một tên họ truyền theo dòng cha. Con gái về nhà chồng nhưng vẫn là con gái của gia đình mình. Ngoài cái giây liên hệ này, tình họ hàng sẽ lạt dần. Những đứa con của tôi sau này, anh em họ với con của anh em tôi, sẽ mang những tên họ khác nhau. Điều này có nghĩa là không có gì trở ngại cho việc chúng có thể lấy nhau. Những đám cưới giữa anh em cô cậu xảy ra rất thường. Đối với chúng tôi, tình cảm thân thuộc tùy thuộc vào cái tên nhiều hơn là vào yếu tố máu mủ. Tất cả những người mang tên cùng một họ đều coi như có họ với nhau và người ta lên án các cuộc hôn nhân giữa các gia đình này, ngay dù khi người ta không tìm ra được một chút dấu vết liên hệ máu mủ nào. Tại Trung-Hoa, số tên họ ít hơn các nước khác. Khi chúng tôi nói: "trăm họ" có nghĩa là: dân Trung-Hoa. Thật ra có vào khoảng hai, ba trăm họ, nhưng khoảng một nửa dân số mang họ Vương, Giang, Liêu, Lý, Chương, Dương hay Vũ. Đó là những họ mà ta hay gặp nhất. Đó là những ông Ất, ông Giáp của nước Tàu, nhưng đông hơn bội phần các ông Ất, ông Giáp của các nước khác.
Trước khi đến Tứ-Xuyên, tôi chẳng biết rõ gì lắm về các chi tiết của Đại Gia-Đình tôi, tôi chẳng biết đến cái tầm mức quan trọng mà nó sẽ ảnh hưởng đến tôi. Ngoại trừ chú Ba, bẩy năm trước đây có đến Bắc-Kinh để thanh toán công việc của cha tôi, tôi chẳng biết qua một người bà con nào. Đại Gia-Đình ở Tứ-Xuyên đối với tôi chỉ là cái gì mơ hồ. Tôi phải thú thực rằng, khi Pao và tôi lấy xe kéo đi đến nhà chú tôi, tôi chỉ có một ý nghĩ:
"Chỉ cần chú Ba có mặt ở Trùng-Khánh." Tôi đã quá mệt mỏi để lại phải lo đi kiếm một chỗ ở!
Chú Ba là giám đốc một nhà ngân hàng có chi nhánh tại Trùng-Khánh và Thành-Đô. Chú có nhà ở cả hai nơi mặc dù gia đình ở cả Thành-Đô. Chúng tôi có viết cho chú từ khi ở Quế-Lâm là chúng tôi sẽ đến Trùng-Khánh và chú đã đánh điện mời chúng tôi rất thành khẩn. Nhưng dĩ nhiên không thể định rõ ngày giờ chúng tôi sẽ đến. Có thể là chú đã đi vắng và giao nhà cửa cho đám người làm. Chúng tôi sẽ thấy cửa đã đóng chặt vì trời đã tối và như vậy là lại phải đi kiếm một quán trọ.
Hai người phu xe ì ạch trên một khúc đường dốc, người gập xuống, đầu gần đụng đến gối. Hai càng xe chổng ngược lên, chiếc ghế đằng sau ngã ngửa ra đến nỗi chúng tôi phải cố ngược cổ tới trước để giữ cho khỏi ngã lộn ra sau. La lớn: "Sảo lai" (dừng lại) để báo cho các xe phía sau, hai người phu vứt mạnh càng xe xuống đường trước một khung cửa đen bóng thật lớn và thả chúng tôi trước nhà chú tôi. Cửa không đóng, chú Ba có nhà.
Chúng tôi báo tên cho người gác cổng. Hắn dẫn chúng tôi qua ba lần sân đến tận đại sảnh và lớn giọng báo:
- Cô Ba và chồng cô Ba về.
Chú tôi dang hai tay chạy ra, mặt đầy vẻ vui mừng. Tôi giới thiệu Pao, chàng khẽ nghiêng mình chào, trang nghiêm và chững chạc. Chú tôi cũng nghiêng mình chào lại và tôi bắt gặp ánh mắt hài lòng trong mắt chú. Hẳn là Pao đã chiếm được sự quý trọng của chủ tôi vì sau này chú có bảo rằng tôi quả là "có mắt", điều đó có nghĩa là tôi đã chọn đúng.
- Nếu con mà chỉ có một thân một mình, không người nương tựa, không kinh nghiệm, chú Ba nói với tôi, con còn cực nhọc hơn nhiều.
Dù sao chú cũng đã thăm dò biết rằng Pao chẳng lý gì đến việc làm ăn buôn bán...
Đã bẩy năm xa cách mà trông chú tôi không già đi mấy. Dáng người trung bình, khô khan và nóng nẩy với cặp mắt đen, sắc, giọng nói vui vẻ, vang rền. Tất cả con người chú tiết ra nghị lực và khôn ngoan. Mặc dù rất thích bàn ghế ngoại quốc với những cái đệm thật êm, thật ấm, nhưng về vấn đề quần áo, chú không muốn biết đến kiểu Âu Mỹ bao giờ và quan niệm rất đúng rằng chiếc áo dài Trung-Hoa suốt năm luôn luôn thoáng đãng và tiện lợi hơn. Với vấn đề kiểu cọ, ông không chê bai, không theo mốt, mà chỉ theo ý riêng. Ưu điểm của chú là một lương tri sáng suốt. Chú tránh việc khoa trương. Mặc dù ở phía trong, chú mặc một cái áo sa tanh có lót da sóc và một cái áo lót bằng lụa Gia-Định, chiếc áo ngoài chỉ làm bằng vải xanh thường.
Đó là hình ảnh của chú Ba, người tiếp đón chúng tôi tại đại sảnh và đang gọi trà. Liệu đây có phải là thực? Liệu đây có phải là giấc mộng, một kỷ niệm từ thời dĩ vãng sống lại với tất cả những cái khả ái, dịu dàng của nó? Những chiếc sân sạch sẽ, đại sảnh rộng thênh thang với ánh đèn êm dịu, những cái thảm dầy, những chiếc ghế bành, ghế dài phủ da cọp, da khỉ, vẻ huy hoàng của các tấm tranh sơn mài, các lớp vàng son, cái bình xứ to tướng với những cành mai thật cao - cánh vàng trong suốt hé nở cả mùa Xuân - tất cả cái sang trọng, cái tiện nghi này đều là của một thế giới khác. Người hãy còn dính đầy bụi bậm của cuộc hành trình cực khổ vừa qua, chúng tôi ngồi ngả dài trong cái ghế bành rộng thênh thang, êm ái và nhấm nháp nước trà trong những chiếc chén sứ Kiến-Giang. Không còn chiếc tầu nào sẽ rẽ sóng dòng Dương-Tử để chở đến Trùng-Khánh những thức ngon vật lạ của Thượng-Hải, của ngoại quốc, của những bến ở hạ lưu dòng Dương-Tử nữa... Cái thảm hồng và xanh này được dệt ở miền Bắc, tại Thiên-Tân. Những cái chụp đèn chạm chổ này đều từ Bắc-Kinh tới. Kia là những bức tranh lụa vẽ Điện-Mùa-Hạ, những con kinh, những chiếc cầu và Bắc-Kinh, một cuộc sống khác!...
Chú tôi gọi:
- Lão Lý, Lão Sáng và Hồng Sảo đâu? Ra cả đây! Ra đây chào cô chú Ba đi.
Đám người làm quỳ trước mặt chúng tôi và lạy sát đất để tỏ lòng tôn kính. Chúng mang ra những thau nước nóng hổi, mấy chiếc khăn mặt tẩm nước hoa thơm phức, bánh xà-phòng "Ivory" đắt ngang vàng vì nó được mang từ Mỹ sang. Chúng vội vàng sửa soạn cơm chiều và đi đun những nồi nước lớn để sửa soạn nước tắm. Anh Hai, con của Bác Cả nhưng lại sống và làm việc tại Trùng-Khánh với chú Ba từ nhà Ngân Hàng về đến, chúng tôi được giới thiệu với nhau:
- Đây là vợ chồng em Ba.
Anh Hai cúi chào:
- Cô Ba! Mừng vợ chồng cô tới đây.
Câu chuyện chỉ xoay quanh cuộc hành trình của chúng tôi. Chú Ba tặc lưỡi luôn miệng và gật gù tỏ vẻ tán đồng hay thông cảm. Thế mà khi chúng tôi kể lại những chuyến xe lửa, những chiếc xe hàng, thức ăn tồi tệ, cảnh chen lấn, bẩn thỉu, rận rệp, những cơn nóng, cơn khát, cảnh bom đạn và con trẻ, hình như chúng tôi kể lại câu chuyện của người khác chứ không phải của chính chúng tôi. Khi hỏi tương lai, tất cả lại thành có vẻ thú vị và hoàn toàn hư ảo. Mục đích thực của chúng tôi, những kẻ đang ngồi đây, trong cái đại sảnh ấm áp này, với đám tôi tớ sẵn sàng hầu hạ này, nếu tắt cả cái xa xỉ, rộng rãi sạch sẽ, riêng tư này là của chúng tôi, thì quả thật không thể nào cũng lại chính là chúng tôi đã phải đi bới mót củ cải để ăn trừ cơm tại Sơn-Đầu, đã phải trọ trong một tiệm hút ở Quế-Lâm!
Hôm đó là ngày trước Tết. Tối hôm ấy chúng tôi ngủ trong căn phòng mới, sơn mầu ngọc bích, trong một cái giường chạm chổ đen tuyền, với những lá màn bằng lụa hồng. Chúng tôi nằm trên tấm khăn trải giường bằng lụa trắng tinh với những chăn gối, bằng sa tanh xanh vàng thêu đủ hình rồng phượng, hoa vạn thọ, hoa mận, những chiếc chăn thật ấm và nhẹ là vì nó không nhồi bông mà nhồi tơ. Những chiếc màn cửa bằng nhung kéo ngang cửa sổ để ngăn hơi lạnh mùa đông và một ngọn lửa ấm cháy bập bùng trong một chiếc chậu đồng bóng loáng. Một đứa tớ gái nhỏ luôn luôn ở gần trong tầm gọi để hầu hạ chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy ấm áp và dễ chịu sau khi đã tắm nước nóng với những cái bồn tắm làm ở tận Tô-Châu - những cái bồn đường kính đến thước rưỡi, tráng men xanh, trước kia vốn được dùng để nuôi cá vàng. Chú Ba để hai cái ngoài sân để thả cá và hai cái trong phòng tắm để làm bồn tắm. Nó sâu đến độ nếu ngồi trong đó và co chân lại, nước sẽ ngập lên tận cổ. Đây là lần đầu tiên Pao và tôi thực sự tắm rửa kể từ khi chúng tôi khởi hành từ Hán-Khẩu. Tất cả đều tuyệt diệu. Chúng tôi tha hồ xoải chân tay trên giường và một chiếc lò sưởi đã sưởi ấm sẵn cho chúng tôi. Xét từ trong đáy lòng, chúng tôi cảm thấy thỏa mãn và ngủ thẳng một mạch cho đến trưa ngày mùng một Tết.
Khi chúng tôi tỉnh dậy và nhận ra hôm nay là ngày gì, chúng tôi hôn nhau và chúc nhau một năm mới vui vẻ, đây cũng là năm mới đầu tiên chúng tôi sống bên nhau. Chúng tôi cảm thấy thoải mái, sạch sẽ, sung sướng biet bao khi được sống trong một vùng mà chiến tranh chưa tìm đến để tàn phá.
Ngày hôm đó, được coi như mở đầu cho một giai đoạn mới của chúng tôi và có vẻ như được điểm tốt. Người tớ gái mang trà và mấy cành hoa thủy tiên và hoa mai để bày trong phòng cùng với lời chúc mừng của chú Ba. Nhẽ ra chúng tôi phải dậy từ sớm để chào và cám ơn chú đã cho tá túc, nhưng khi chúng tôi ló mặt ra, chú tỏ ra hết sức thông cảm và gạt phắt những lời cáo lỗi của chúng tôi.
Ba ngày tiếp theo, chúng tôi chỉ lo nghỉ ngơi và tiêu khiển...
Chúng tôi đi lang thang trên các đường phố của Trùng-Khánh, nhìn ngắm các gian hàng. Chúng tôi đi xem kịch, đi coi hát bóng. Chúng tôi đến tiệm Quảng-Xuân-Yên để thưởng thức những bữa ăn sáng tuyệt hảo của xứ Quảng-Đông, những chiếc bánh nướng đủ mùi vị, ngọt, mặn hay chua cùng với nước trà xanh thơm ngát. Đây chính là tiệm cao lâu mà chúng tôi đã đặt tiệc cưới đã dọn từ Hán-Khẩu đến Trùng-Khánh. Tấm bảng hiệu của nó hiện ra như một bộ mặt của một người bạn cũ. Chúng tôi nghe những dĩa hát rè rè và đinh tai phát ra từ một chiếc máy chạy bằng dây thiều cũ rích, chúng tôi nghe ban nhạc kịch Bá-Linh, những khúc nhạc swing ồn ào của San Francisco, những tin tức mới nhất của Thượng-Hải bằng máy thu thanh. Chưa bao giờ chúng tôi thấy những tiện nghi của nền văn minh có khi lại quyến rũ như thế này. Vào mùa Xuân năm sau, khi Trùng-Khánh bị ném bom, tôi cũng lại lao mình vào các thú vui vật chất như vậy.
Tôi thấy hình như phản ứng tự nhiên của thần kinh sau khi bị quá căng thẳng đã khiến người ta đi tìm những thứ tiêu khiển lành mạnh và khuây khỏa như vậy.
Chú Ba sẽ phải về Thành-Đô bằng máy bay để ăn Tết với gia đình và chú muốn tôi đi theo để nhận họ với Đại gia đình. Chú đặc biệt lưu ý tôi phải đi thăm mộ bà nội để thắp nhang và khóc bà vì khi bà mất, tôi còn ở bên Anh... Tôi chẳng muốn rời Trùng-Khánh chút nào, vì Pao sắp phải lên đường ra mặt trận tây bắc trước khi hết Tết và không thể cùng tôi đến Thành-Đô. Tôi sẽ quý và tiện tặn mấy ngày chung sống bên nhau này hơn nếu tôi biết rằng chúng tôi sẽ phải xa nhau bao lâu hay nếu tôi đoán được rằng, suýt chút nữa, chúng tôi đã xa nhau vĩnh viễn.
Phi trường Trùng-Khánh là một giải cát phẳng và hẹp, một cái đảo gắn bó phía Nam của dòng sông. Hình thù của nó thay đổi tùy theo mực nước, nhưng nó luôn luôn giữ nguyên dáng vẻ của một con sò. Anh Hai, Pao và một vài người bạn ra phi trường tiễn chúng tôi. Chúng tôi ngồi kề bên nhau được vài phút. Pao và tôi ngồi sát cạnh nhau trên cái xà ngang trong lòng đò, nhưng chẳng nói năng gì. Một lớp sương mù dầy đặc buông trên mặt nước và thành phố. Chúng tôi thấy mình được tách rời giữa một vòng sương xám. Mặt nước đục phản chiếu một mầu sáng im lìm. Người lái đó ở đầu con thuyền giống như là một bóng ma mờ xám. Nhiều giọng người ngay kế cận làm chúng tôi giật mình, nhưng cả bờ sông, cả cái đảo và những con tầu cùng những người khác đâu vẫn chưa thấy.
Chúng tôi đến phi trường lúc bẩy giờ và đến mười một giờ chúng tôi mới cất cánh. Thoạt tiên, người ta đợi cho sương mù tan, sau đó người ta khám phá ra máy bay bị trục trặc cần phải sửa và người ta lo sửa khoảng hai ba giờ gì đó. Chúng tôi đi lang thang trên đảo, buồn vô hạn. Cát chui cả vào trong giầy tôi. Chúng tôi đã nói với nhau tất cả những lời mà chúng tôi muốn nói. Sau cùng, máy bay sẵn sàng cất cánh. Các hành khách đã bắt đầu lên tầu. Chú Ba vẫy tôi và tôi nói:
- Pao, em đi! rồi leo lên mấy bực thang.
Pao đứng nguyên chỗ mà tôi vừa từ giả chàng. Tôi cười với chàng qua lần cửa kính nhưng mặt chàng đã đanh lại. Máy bay bắt đầu nổ máy. Tôi áp má vào cửa sổ và vẫy chàng trong khi tầu bay chạy trên phi đạo. Pao đã quay lưng đi, nhưng vẫn đứng nguyên một chỗ, không động đậy...