← Quay lại trang sách

- 5 - TANG SỰ

René ơi, giờ đây, ta không thể phác hoạ lại nổi tình tự thất vọng, đã vây hãm lấy tâm hồn ta, vào lúc mà Atala thở hắt ra, hơi thở cuối cùng của cuộc đời. Phải nói rằng, lúc đó, ta đã mất hết sinh khí, phải nói rằng đôi mắt ta đã khép kín lại, và chỉ mở ra ở trước vầng dương để nhờ vầng dương tính đếm hộ lưu lượng nước mắt của ta đã tuôn đổ ra dưới ánh sáng mặt trời. Đúng vậy, vầng trăng đang soi chiếu trên đầu chúng ta, đã phải ảm đạm lu mờ khi soi rọi trên những vùng hoang vu cô tịch tại miền Kentucky. Đúng vậy, giòng sông dài đang nâng dắt, đẩy đưa những con thuyền của chúng ta đã phải khô cạn hết mọi con nước trước lúc nước mắt ta ngưng chảy vì Atala. Suốt trong hai ngày liền, ta đã thờ ơ lãnh đạm đối với những lời khuyên lơn, an ủi của nhà ẩn tu. Vì thế, để thử xoa dịu nỗi thương đau của ta, con người vĩ đại ấy đã không thèm sử dụng tới những lý lẽ ở thế gian này nữa, ông đã nói với ta: «Con trai của ta ơi, đó là «Ý trời ». Nói xong ông ôm ta vào vòng tay của ông. Nếu như, ta chưa từng kinh qua cái giây phút đó thì ta sẽ chẳng bao giờ tin nổi là, chỉ bằng vào vài tiếng nói của một tín đồ Thiên Chúa Giáo kiên trì nhẫn nại, lại có thể đem đến xiết bao nhiêu niềm an ủi.

« Cuối cùng, tình tự trìu mến, thành tâm, và kiên trì bất biến ở nơi con người nô bộc già nua tuổi tác của Chúa, đã thắng được tình tự lì lợm, do nỗi thương đau ở trong con người của ta. Ta đã biết hổ thẹn vì những dòng nước mắt của ta, đã lan trải niềm đau sang phía ông già, ta nói: «Thưa cha, thật là quá lạm, con biết rằng lòng tham dục của tuổi trẻ đã khuấy động những ngày bình ổn của cha. Vậy xin cha, hãy cho phép con được mang xác thân của vợ con đi. Con sẽ chôn vùi thân xác nàng vào một xó sỉnh nào đó, tại vùng sa mạc hoang vu và nếu như, phần mệnh của con còn bắt buộc phải dấn thân vào cuộc sống, thì con xin nguyện sẽ gắng sức để trở nên xứng đáng với cuộc hôn lễ vĩnh cứu, mà con đã hứa với Atala.»

« Trước sự hồi phục về với trạng thái can trường, thật bất thần của ta, vị linh mục hiền từ đã run lên vì vui thỏa, ông la lớn lên rằng: «Ôi máu đào của đấng Christ, máu đào của đấng cao cả, thầy của ta, giờ đây, con đã nhận thấy rỏ ràng một công đức của Ngài! Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Ngài đã cứu rỗi người thanh niên này. Ngài vừa hoàn tất xong một công trình của Ngài. Cầu xin Ngài hãy ban phát cho linh hồn đó tình tự bình ổn, và để mặc cho những nỗi bất hạnh ở nơi hắn ta, tự trở thành những vết sẹo kỷ niệm khiêm nhường và hữu ích.»

« Ông già công chính ấy, đã không chịu trao di hài con gái LOPEZ cho ta. Ông bảo ta đi mời các tân tín đồ của ông lại, để chôn cất nàng theo nghi thức long trọng của Thiên Chúa giáo. Nhưng, lại đến lượt ta chối bỏ ý định của ông, ta nói: « Không có một người nào biết tới những tai hoạ và những đức hạnh của Atala, bởi thế, để có thể chia xớt tình trạng bí ẩn của nàng thì chính chúng ta phải bắt tay vào công việc đào sới nằm mộ nàng, một cách âm thầm lặng lẽ. « Chúng ta đồng thoả thuận với nhau, là sẽ chôn cất nàng ở phía dưới vòm cầu thiên tạo, trên lối ra vô vùng ruộng đồng của người chết, vào buổi sáng hôm sau, lúc mặt trời mới mọc. Chúng ta đã quyết định sẽ thức sáng đêm ở bên cạnh di hài của người trinh nữ ấy, để cầu nguyện cho nàng.

« Chiều hôm đó, chúng ta đã mang di hài quí giá của nàng tới khu vực cửa hang mở về hướng Bắc. Ông già ẩn tu liệm xác nàng bằng một mảnh vải mang từ Âu Châu tới, mảnh vải do chính tay vị từ mẫu của ông dệt: Đó cũng là tài sản duy nhất của đất nước ông, còn sót lại, ở bên cạnh ông, và kể từ lâu ông đã dự tính sẽ đem nó theo ông xuống nơi huyệt mộ của chính ông. Thân xác Atala được đặt nằm dài trên mặt thảm cỏ hổ ngươi xanh ngắt. Chân nàng, đầu nàng, vai nàng, và một phần lồng ngực của nàng bị phơi trần ra, không được che đậy. Trên mái tóc của nàng vẫn còn cài một bông hoa ngọc lan héo khô... Bông hoa do chính tay ta hái đem về rắc lên khu giường nệm của nàng trinh nữ để cầu ước cho nàng sớm mang thai. Đôi môi nàng nom giống như một nụ hồng đã đươc hái lượm về từ buổi sáng tinh mơ của hai ngày hôm trước, và giờ đây đã chuyển sang mầu tái lợt, đồng thời, cũng đang hé miệng mỉm cười. Trên đôi má trắng trẻo của nàng nổi lên vài đường gân xanh đậm. Đôi mắt nàng đã khép kín lại. Đôi chân trần trụi đặt sát gần nhau và đôi bàn tay mầu bạch ngọc đã ép giữ một cây thánh giá bằng gỗ mun để lên phía trên trái tim của nàng. Mảnh xương bả vai, di vật của lời nguyện ước năm xưa, đeo ở nơi cổ. Dường như, nàng đã bị quyến rũ, cùng một lúc, bởi vị thần linh sầu muộn và bởi một giấc ngủ say sưa dung dị hòa hợp với một cơn thụy miên của vùng mộ địa. Thật không còn gì cao cả hơn nữa. Và bất kỳ ai, nếu như chưa hề biết rằng người thiếu nữ đó đã từng phen vui sống dưới ánh sáng mặt trời, thì đều có thể ngỡ rằng, thân xác ấy chỉ là một bức tượng trinh nữ đang say ngủ.

« Ông già truyền giáo đã cầu nguyện suốt đêm, không ngưng nghỉ một phút nào cả. Ta ngồi yên lặng, ở phía đầu giường tang của Atala. Đã nhiều phen, trong lúc nàng say ngủ, ta từng đặt chiếc đầu khả ái của nàng lên trên đầu gối của ta. Đã nhiều phen, ta từng cúi sát xuống mặt nàng để lắng nghe, để uống từng hơi thở của nàng. Nhưng giờ đây, thì không còn một thanh âm nào phát xuất từ lồng ngực bất động của nàng ra nữa. Giờ đây, ta đã hoàn toàn vô vọng, không còn trông đợi nốt cái giờ phút mà người đẹp hồi sinh lại được.

« Sẩm tối hôm ấy, vầng trăng đã buông toả những phiến sáng nhợt nhạt xuống trần gian. Tới nữa đêm, trăng khuya chẳng khác chi một nàng trinh nữ đang thả bước xuống khu vực tang lễ, để khóc thương cho số phận hẩm hiu của một người bạn đồng trang lứa. Ngay sau đó, nàng trăng đã lan truyền tình tự bí ẩn sầu thương tới khắp miền rừng núi, giống như là nàng đã từng ưa thích kể lể, chuyện trò hằng đêm với những cây sồi già và những miền bờ biển xa xưa. Thỉnh thoảng, ông già truyền giáo lại nhúng một cánh hoa vào trong nước thiêng, rồi vấy động chiếc cành đẫm nước đó, để xông hương cho màn đêm. Đôi khi, ông già cất tiếng ngâm đi ngâm lại mấy vần cổ thi của nhà thơ JOB:

Tôi vào đời như hoa rực rỡ,

Rồi, héo khô như cỏ đồng hoang,

Hỡi ơi, vực sáng huy hoàng,

Sao không cung dưỡng cho hàng cùng đinht,

Sẻ chia «cuộc sống an bình »,

Cho người ấm áp tâm tình cay chua?

« Cứ như vậy, ông già ngân nga bài cổ thi. Giọng ông trầm mặc, nhịp nhàng, cuồn cuộn lan trải vào không gian tịch mịch của các khu vực sa mạc hoang vắng. Danh nghĩa của Đức Thượng Đế và của vùng U Tịch đã được phát xuất ra từ đợt đợt tiếng dội, từ ngàn trùng suối thác, từ lớp lớp rừng già. Tiếng gù gù của bầy chim bồ câu Virginia, tiếng rào rào của thác nước, ở trên khu vực đỉnh cao. Tiếng binh boong của chiếc chuông đồng đang réo gọi khách lữ hành, hòa trộn với tiếng ngâm nga thê thiết, khiến cho người ta ngỡ rằng, họ đã văng vẳng nghe thấy tiếng hòa âm của những người khuất bóng, tại khu vực ruộng đồng của người chết, đang đáp lại với âm điệu của nhà ẩn tu đơn độc

« Giữa lúc ấy, một vầng sáng vàng hoe hình thành tại góc trời Đông. Bầy diều hâu khởi sự kêu réo ở trên các tảng đá cao. Lũ chồn cáo lũ lượt chui về hang hốc ở những cây xích dương, để ẩn trú: đó chính là hiệu báo về giờ chuyển cữu của Atala. Ta vác di hài của nàng lên vai, ông già ẩn tu đi ở phía trước, trong tay cầm một chiếc mai. Chúng ta lần bước từ tảng đá này sang tảng đá khác để xuống núi. Tuổi già và cái chết đã làm chậm rải bước chân của chúng ta. Ta đã đổ lệ chứa chan, khi nhìn theo con chó đã từng phen cứu mạng chúng ta ở trong rừng sâu, và giờ đây, nó đang vui vẻ chồm nhảy từng bước, để mở một con đường khác cho chúng ta. Thỉnh thoảng, mái tóc dài của Atala đã bị làn gió sớm nô giởn, đẩy đưa thành một màng lưới mỏng manh, vàng hoe, phấp phới uốn lượn ở trước mặt ta. Đôi lúc, thân thể ta đã oằn cong bởi sức nặng, vì vậy, ta đành phải đặt di hài của nàng lên trên mặt rêu đá và ngồi xuống cạnh xác nàng để lấy lại sức khoẻ. Cuối cùng, chúng ta đã tới địa khu ở phía dưới nhịp cầu thiên nhiên, nơi khắc ghi mãi mãi vết tích thương đau của ta. Ôi, con trai của ta ơi, thảm thương thay cho cảnh trạng, một thanh niên trai trẻ man dã và một ông già ẩn tu già nua tuổi tác, đã phải quì sụp xuống, mặt đối mặt trong một khe trũng khô cạn giữa vùng cô tịch hoang vu và đang dùng sức tay để đào bới mộ huyệt cho một cô gái có xác thân nằm ruổi dài ở kế cận.

« Khi công việc hoàn tất, chúng ta đặt di hài của người đẹp vào trong lòng đất. Than ôi, ta đã từng phen ước mong được chuẩn bị cho nàng một chiếc giường nằm tại nơi chôn khác, chứ đâu phải tại đây!

Ta vốc vào lòng tay ta một nắm cát sạn, rồi lặng lẽ nín thinh ngắm nhìn gương mặt nàng lần cuối. Sau đó, phủ rắc từng lớp đất của vùng thụy miên lên trên vầng trán vừa tròn mười tám xuân xanh và ngắm nhìn dạng nét của người tình nhân yêu quí dần dần bị khuất lấp khỏi tầm mắt, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của nàng dần dần bị phủ kín bởi lớp màn che vĩnh cứu ; ngắm nhìn lòng ngực của nàng còn nhô cao trên đám đất đen thui nom chẳng khác chi một bông hoa huệ trắng tinh đang vươn mình khỏi lớp đất tối ám, thế là ta thét lớn lên: «Lopez hỡi, cha hãy tới đây mà xem, con trai của cha đang vùi chôn thân xác con gái của cha đây! ». Và hoàn tất nốt phần vụ vùi lấp di hài của Atala bằng những tảng đất của vùng thụy miên.

« Chúng ta quay trở về vùng hang động và ta đã trình bày với nhà truyền giáo rằng, ta đã quyết định xin ông cho phép ta được sinh sống kế cận bên ông. Nhưng con người thánh thiện ấy, đã thấu rõ tim óc của nhân loại, ông khám phá ngay được suy tư và mưu chước phát xuất từ nỗi đau tbương của ta. Ông liền bảo ta: « Chactas, con trai của Outalissi ơi, vào thời gian Atala còn tại thế, ta đã mong ước cho con được sinh sống ở kể cận bên ta. Nhưng, giờ đây, hoàn cảnh của con đã đổi khác: - Con phải quay về với tổ quốc của con. Con trai của ta ơi, con phải tin rằng, tất cả mọi nỗi thương đau đều không thể tồn tại mãi mãi được, sớm muộn gì rồi nó cũng phải chấm dứt, bởi vì trái tim của con người chỉ là một vật thể hữu hạn. Đó chính là nỗi thống khổ lớn nhất của chúng ta, vì:- Dù là thương đau, chúng ta cũng không thể thương đau mãi mãi. Vậy thì con hãy mau quay trở về miền trường giang Meschacebé: Hãy quay về để an ủi từ mẫu của con, người đã từng đổ lệ khóc con từng ngày từng buổi, người đang cần đến sự trợ giúp của con. Nếu như có dịp, thì con hãy cố gắng tìm hiểu thêm về tôn giáo của Atala và con nên nhớ rằng, con đã từng hứa với nàng là, con sẽ luôn luôn là một tín đồ Thiên Chúa giáo xứng đáng và đức hạnh. Riêng về phần ta, ở nơi đây, la sẽ chăm sóc phần mộ của nàng. Hãy lên đường thôi, con trai của ta ơi, Thượng Đế, linh hồn của em gái con và tâm tư của người bạn già này sẽ luôn luôn dõi theo con.»

« Đó là những lời của con người sinh sống tại vùng đá tảng. Trước quyền uy quá lớn lao của ông, trước tình thân minh triết quá thâm trâm của ông, ta đã không thể không vâng lời ông được. Sáng hôm sau, ta giã biệt vị chủ nhân đáng kính ấy, ông đã ôm ta sát vào lòng ngực, cung dưỡng cho ta những lời khuyên cáo, những lời chúc phúc và những giọt lệ cuối cùng của ông. Lúc ta đi tới phần mộ của Atala, ta đã vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy, một cây thập tự giá nhỏ bé đã được dựng lên ở trên đó, chẳng khác gì lúc người ta bất chợt trông thấy chiếc cột buồm của con tàu, đã bị chìm đắm ở dưới đáy biển sâu! Ta đoán rằng trong đêm vừa qua, nhà ẩn tu đã tới đây để cầu nguyện, dấu hiệu của đạo giáo và của tình thân hữu ấy, đã làm cho ta đổ lệ ròng ròng. Ta toan tính khai quật mộ phần của nàng lên để được nhìn mặt người mà ta yêu dấu một lần nữa nhưng dường như đã có một sức mạnh tôn giáo thầm kín ngăn giữ hành động của ta lại. Ta ngồi sụp xuống bên cạnh nấm đất đang khởi sự chuyển động (1). Một khuỷu tay của ta chồng lên gối, đầu của ta đặt ở trong lòng bàn tay, tâm hồn ta chìm đắm vào một cơn mộng mị đắng cay chua chát. René hỡi, chính tại nơi đó, lần đầu tiên, ta đã âm thầm suy nghiệm về tình trạng hư ảo của ngày tháng sinh tồn và tình trạng hão huyền của mọi dự liệu ở đời. Này, con của ta ơi, trên đời này có ai lại chưa từng kinh qua những giờ phút suy nghiệm đó. Ta đã giống như một con hươu trắng bạc vì những mùa đông lạnh giá. Ngày tháng của ta đã đủ sức tranh thắng cùng với ngày tháng của loài quạ: Thế nhưng, dù là xiết bao ngày tháng đã chồng chất lên trên mái đầu của ta, dù là ta đã có biết bao nhiêu kinh nghiệm về cuộc đời chăng nữa, ta vẫn chưa hề gặp được một con người nào chưa từng bị những cơn mộng mị toàn phúc dối gạt, chưa hề thấy một con tim nào lại chỉ duy trì có mỗi một vết thương thầm kín. Một con tim với vẻ dạng bên ngoài thật là bình ổn thanh tịnh, ấy thế nhưng, nó đã giống y hệt như loài giếng nước thiên nhiên, ở vùng đồng cỏ Alachua: Loại giếng có vẻ mặt êm ả và trong lành, nhưng khi chúng ta nhìn kỹ xuống đáy sâu, chúng ta sẽ trông thấy ngay một con sấu khổng lồ, đã được giếng dưỡng nuôi ở trong lòng nước.

« Ta cứ im lìm bất động như vậy, từ khi vầng dương mới ló dạng, cho tới khi ánh sáng mặt trời đã tắt ngấm ở trên địa khu thê lương tang tóc đó. Sáng hôm sau ta chuẩn bị rời khỏi vùng phần mộ thiêng liêng vào lúc có những tiếng kêu réo đầu tiên của bầy chim bồ nông, với định kiến là sẽ tiến bước trên con đường đạo hạnh, mà ta đã hằng ao ước dấn thân. Ba lần ta khấn mời linh hồn của Atala, là ba lần ta nghe thấy tiếng nói của thần linh ở dưới nhịp cầu tang tóc trong vùng hoang tịch cô liêu nhại đáp lại lời ta. Sau đó, ta đã quay về hướng Đông để làm lễ bái biệt và đã phát giác được sinh hoạt của nhà ẩn tu, ở xa xa, trên những con đường mòn của rặng núi trong lúc ông đang đưa dẫn một vài kẻ khốn cùng về phía lều trại. Ta vừa xụp quỳ xuống, vừa giang rộng vòng tay ra, ôm chầm lấy nấm mộ. Vừa kêu lớn lên rằng: « Hỡi người thiếu nữ khổ hạnh, em hãy yên ngủ trong lòng đất xa lạ này! Cái trị giá về cuộc tình của em, về quyết định xa xứ của em, về cái chết của em, đã được đền đáp bằng sự buông bỏ của ngay cả tên Chactas nữa đó! ». Thế rồi, ta tuôn đổ hàng hàng lệ thảm. Và chia biệt với cô gái con của Lopez. Ta rời bỏ nơi chốn ấy, để lại phía sau một công trình tôn nghiêm - mộ phần của cô gái đạo hạnh khiêm nhường - nép mình ở phía dưới một công trình của tạo hóa.

Chú thích:

1) Câu này tác giả có ý nói tới bầy côn trùng lúc này khởi sự chui rúc xuống phía di hài của Atala để tranh giật lấy phần mồi của chúng. Cũng vì thế, cho nên đống đất mộ phần đã chuyển động theo sự xê dịch của chung.