- 12 -
Mùa thu năm 1962, hơn ba mươi nghìn mẫu đất trồng củ đậu cả huyện Đông Bắc Cao Mật được mùa chưa từng thấy. Những khoảnh đất hầu như không cho chúng tôi bất kỳ một sự sống nào trước đó dường như đã hồi sinh, khôi phục lại chức năng nuôi sống con người. Năm ấy, mỗi mẫu củ đậu đều đạt sản lượng bình quân mười tấn. Nhớ lại cảnh tượng thu hoạch củ đậu lúc ấy, cho đến bây giờ tôi vẫn cảm thấy mình bị kích động, hưng phấn như thế nào. Hầu như mỗi con giống trồng xuống đều cho con người một lợi nhuận đến hàng trăm lần. Thôn tôi có một củ đậu nặng đến mười chín ký lô. Bí thư huyện ủy Dương Lâm đã ôm lấy củ đậu này mà chụp ảnh và được đăng ngay trang đầu của tờ nhật báo Đại chúng.
Năm ấy, sản lượng củ đậu không những cao mà lượng bột cũng khá nhiều, chỉ cần luộc qua là nở bung ra, lại phảng phất có mùi thơm của hạt dẻ, ăn rất ngon mà lại có hàm lượng dinh dưỡng cao. Mọi khu vườn của toàn huyện Đông Bắc Cao Mật đều trồng. Hàng rào nhà nào cũng có dây đậu bám đầy và lủng lẳng đầy củ. Cuối cùng chúng tôi cũng đã được ăn no. Những ngày ăn rễ cỏ và vỏ cây cuối cùng cũng đã trở thành quá khứ, những ngày đói đã một đi không trở lại. Chân cẳng của chúng tôi không còn bị phù thủng nữa. Da bụng của chúng tôi cũng đã dày lên, bụng chúng tôi cũng đã thon lại. Dưới làn da bụng chúng tôi đã thấy phảng phất một lớp mỡ. Ánh mắt chúng tôi không còn vật vờ ảm đạm nữa. Chúng tôi đi học mà đôi chân không còn quýnh quáng nữa. Thân thể của chúng tôi cũng đã bắt đầu phát triển trông thấy. Những người đàn bà được no nê với củ đậu nên đôi vú cũng đã bắt đầu to lên, săn chắc hơn, chu kỳ kinh nguyệt của họ quay lại bình thường. Những chiếc eo lưng của đàn ông cũng đã thẳng hơn, trên mép cũng đã xuất hiện những bộ ria đậm đen, tính dục cũng dần dần khôi phục, không còn là thái giám nữa. Sau hai tháng được ăn no, hầu như những bà vợ trẻ trong thôn đều đã mang thai. Đầu mùa đông năm 1963, toàn vùng Đông Bắc Cao Mật hừng hực cao trào sinh đẻ đầu tiên kể từ ngày nước Trung Quốc mới ra đời. Chỉ tính riêng trong công xã của tôi thôi, toàn bộ năm mươi hai thôn đã có hai nghìn tám trăm sau mươi sáu đứa trẻ ra đời trong năm ấy. Toàn bộ số trẻ con ấy được cô tôi gọi là “trẻ con củ đậu”. Trạm trưởng trạm y tế là một người có lương tâm, là người tốt. Khi cô tôi tự sát không thành được cho về nhà nghỉ dưỡng sức, ông ta từng đến nhà để thăm cô. Ông ta là cháu xa của dòng họ bà nội tôi, là một người thân của gia đình tôi. Ông ta phê bình cô tôi hồ đồ, hy vọng cô tôi vượt qua những khủng hoảng tinh thần để tiếp tục công tác. Ông ta nói, đôi mắt của Đảng và nhân dân lúc nào cũng sáng, quyết không gây oan uổng cho người tốt nhưng cũng không bỏ qua cho một kẻ xấu nào. Ông ta bảo cô tôi hãy tin tưởng vào tổ chức, dùng hành động thực tế để chứng minh cho sự trong sạch của mình, tranh thủ khôi phục đảng tịch càng nhanh càng tốt. Ông ta nói nhỏ với cô: “Cô và Hoàng Thu Nhã không giống nhau. Bản chất của mụ ấy là xấu, còn cô thì gốc đỏ mầm thẳng, tuy đã có một bước thụt lùi nhưng chỉ cần nỗ lực, tương lai của cô vẫn sáng ngời ngời”.
Lời trạm trưởng khiến cô tôi bật khóc.
Lời trạm trưởng cũng khiến tôi bật khóc.
Từ một cái xác không hồn, cô tôi đã đứng dậy được và lao vào công việc một cách nhiệt tình. Lúc ấy, tuy các thôn đều đã có cử người đi học nghiệp vụ đỡ đẻ mới nhưng rất nhiều sản phụ lại nằng nặc đòi đến trạm y tế để sinh con. Cô tôi đã vất bỏ hiềm khích với Hoàng Thu Nhã, hợp tác một cách tự nguyện với bà ta, vừa làm bác sĩ vừa làm hộ lý, có lúc không hề nhắm mắt mấy ngày mấy đêm liền, cứu được không biết bao nhiêu sinh mạng mẹ và con ngay trước “Quỷ môn quan”. Trong vòng năm tháng, hai người đã đỡ đẻ cho tám trăm tám mươi sản phụ, trong đó có mười tám ca phải can thiệp bằng cách mổ. Lúc ấy, mổ là một kỹ thuật vẫn còn rất phức tạp, một trạm xá công xã chỉ có hai bác sĩ sản phụ nhỏ nhoi mà lại dám làm việc này đã gây chấn động toàn huyện. Ngay cả cô tôi là người vẫn tin vào chính mình, thậm chí là có chút tự mãn mà vẫn phải bái phục trước tay nghề cực kỳ điêu luyện của Hoàng Thu Nhã. Sau này, cô trở thành một bác sĩ danh tiếng về đông tây y kết hợp, cô vẫn cứ phải cúi đầu cảm tạ trước bà bác sĩ trước đó vốn là oan gia của mình.
Hoàng Thu Nhã là một cô gái già. Suốt cuộc đời bà ta hầu như chưa bao giờ biết đến thế nào là tình yêu nam nữ nên có thể thông cảm cho sự cổ quái về tính khí của bà ta. Khi đã bước sang tuổi xế chiều, cô tôi vẫn nói với chúng tôi rất nhiều về người đàn bà này. Hoàng Thu Nhã là thiên kim tiểu thư của một nhà đại tư sản ở Thượng Hải, tốt nghiệp một học viện Y học danh tiếng và bị đẩy đến tận vùng Đông Bắc Cao Mật chúng tôi, đúng là “thất thế thì phượng hoàng không bằng gà mái”. Ai là gà mái? Cô tôi tự trào giải thích: “Ta chính là con gà mái ấy, một con gà mái tranh vinh quang của phượng hoàng. Sau chuyện ấy, bà ta đâm ra sợ ta, trông thấy ta là run, chẳng khác nào một con rắn gặp phải khói lửa!”. Giọng cô tôi rất cảm khái: “Lúc ấy hình như tất cả mọi người đều đã điên loạn, nhớ lại chẳng khác nào một cơn ác mộng. Nhưng Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí là buổi sáng bị đánh cho vỡ đầu sứt trán thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng bên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh thần. Cho dẫu lúc ấy ở bên ngoài cửa sổ có bom rơi đạn nổ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến con dao mổ trên tay bà ta. Đôi tay Hoàng Thu Nhã sao mà linh! Bà ta có thể thêu cả một đóa hoa trên da bụng của sản phụ…”. Mỗi khi nói đến chuyện này, cô tôi thường cười rất thoải mái nhưng càng cười thì nước mắt của cô trào ra càng nhiều.