- 15 -
Vì số người tham dự đại hội đấu tố bí thư huyện ủy Dương Lâm quá đông, không có chỗ nào có thể chứa hết nên Tiêu Thượng Thần, đương kim Chủ nhiệm Ủy ban cách mạng công xã mới nghĩ ra cách là đem hội trường bố trí tại khu Đới Hồng bên bờ bắc sông Giảo Hà. Đúng vào giữa đông, băng kết một lớp dày trên mặt sông, trong tầm mắt chỉ là một màu trắng lấp lóa như thủy tinh. Tôi là người đầu tiên trong thôn biết là đại hội sẽ được tổ chức tại địa điểm này, bởi tôi thường trốn học để bỏ ra đây chơi. Ngày ấy, tôi đang lật băng lên để câu cá dưới mặt sông, gần bên cống Đới Hồng thì nghe thấy trên bờ có tiếng người nói lao xao. Tôi nghe rõ nhất là tiếng nói của Tiêu Thượng Thần. Giọng của ông ta, tôi có thể nhận ra trong hàng nghìn người. Tôi nghe ông ta nói: “Đ. mẹ! Đúng là phong cảnh đặc trưng của miền Bắc! Tốt rồi, đại hội đấu tố sẽ được tổ chức tại đây, khán đài sẽ được dựng ngay trên cống Đới Hồng này!”
Nơi đây vốn là một vùng trũng. Sau đó, để bảo đảm cho sự an toàn dưới vùng hạ lưu, người ta xây cống chắn nước Đới Hồng trên đê Giảo Hà. Mùa hạ và mùa thu, người ta đóng cống Đới Hồng khiến nơi đây từ một vũng trũng biến thành hồ. Lúc ấy, người dân Đông Bắc Cao Mật chúng tôi vô cùng bất mãn. Vì dù là vùng trũng thì vẫn cứ là đất canh tác, trồng loại cây khác thì không được nhưng trồng cao lương thì vẫn có thể. Nhưng nhà nước đã muốn làm, bọn thảo dân như chúng tôi dựa vào đâu mà phản đối. Tôi đã trốn học rất nhiều lần ra đây đứng ngắm dòng nước tuôn ra từ mười hai lỗ cống chảy ào ào về xuôi. Qua một trận lụt là vùng này biến thành một chiếc hồ mênh mông có chu vi đến ba chục cây số. Trong hồ tôm cá rất nhiều. Những người đi bắt cá chia thành từng nhóm, cá bắt được ăn không hết nên phải bán. Chợ cá ban đầu họp ngay trên cống Đới Hồng nhưng sau đó chỗ này cũng trở nên chật chội nên chuyển đến bên bờ sông, dưới rặng liễu dài đến khoảng hai cây số. Những lúc buôn bán tấp nập nhất có cả những người bán rau, bán trứng, bán đậu... cũng tranh thủ ra đây kiếm vài đồng. Những kẻ du thủ du thực, lưu manh, ăn mày kiếm chác dựa vào chợ búa ở các vùng lân cận cũng đã dần dần kéo đến. Dân binh của tổ chức vũ trang công xã đến đuổi thì chúng lại chạy, vừa quay về thì chúng cũng xuất hiện trở lại. Cái chợ này tồn tại một cách bán hợp pháp, nói khác đi thì là bán phi pháp. Tôi rất thích xem các loại cá. Có đủ các loại cá ở đây: Cá lễ có thân hình giống quả chuối, cá mè, cá nheo, cá quả, lươn, cua.... Loại cá nào tôi cũng thích. Ở đây tôi đã trông thấy một con cá rất to, to nhất cho đến lúc ấy đối với tôi, e nặng đến cả năm chục ký lô, da trắng nhợt, thoạt trông giống như một người đàn bà đang mang thai. Thái độ của ông già bán con cá này trông có vẻ cung cung kính kính, giữ lấy con cá mà chẳng khác nào giữ một vật thiêng trong tay, đôi mắt rất cảnh giác. Tôi nhập vào dòng người mua bán nhộn nhịp, nhập vào với đám lục lâm đang lừa lọc và nhận ra rằng, họ vừa trao đổi vừa dỏng tai lắng nghe những âm thanh lạ, mắt vẫn nhìn láo liêng chung quanh. Vì sao họ lại có hành vi kỳ lạ ấy? Bởi một lẽ đơn giản là nhân viên thuế vụ của Phòng thuế vụ công xã có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào và thu giữ cá của họ. Đã từng có chuyện một số nhân viên công xã nhàn rỗi đã giả danh là nhân viên thuế vụ ập đến và mặc sức lấy cá của họ. Ngày ấy, con cá năm chục ký của ông già ấy suýt chút nữa đã bị hai người mặc sắc phục màu lam, miệng ngậm thuốc lá phì phèo, tay đặt lên bao súng bên hông thu giữ. Nếu không có con gái ông ta vừa kêu vừa khóc vừa kêu inh ỏi, nếu không có Tần Hà vạch trần thân phận của hai gã ấy thì e rằng chúng đã vác con cá ấy về nhà mà đánh chén với nhau.
Tần Hà chính là gã thanh niên có mái tóc rẽ đường ngôi thẳng tắp, mặc đồng phục học sinh màu lam, trên túi áo có giắt một chiếc bút bi hiệu “Tiến Sĩ”, một cây bút chì hiệu “Tân Hoa”, bộ dạng rất giống với một sinh viên đại học thời kỳ Ngũ Tứ( ). Sắc mặt anh ta trắng bệch, thần thái có vẻ u uất, đôi mắt lúc nào cũng ươn ướt như có thể khóc thành tiếng bất kỳ lúc nào. Miệng lưỡi anh ta rất lưu loát, nói toàn tiếng phổ thông. Mỗi câu nói của anh ta chẳng khác nào những lời đối thoại trong một vở kịch nói hiện đại. - Sau này tôi viết kịch bản sân khấu có ảnh hưởng một phần từ anh ta - Lúc nào Tần Hà cũng ôm trên tay một bát sắt tráng men màu trắng, bên ngoài dùng sơn đỏ vẽ một ngôi sao năm cánh cùng với một chữ “Thưởng”. Anh ta thường đứng giữa người bán cá bán tôm, nói bằng một giọng hết sức bi thương: “Đồng chí, tôi là một kẻ hoàn toàn mất sức lao động. Anh có thể nói, nhìn kìa, cậu trẻ thế, có giống với người mất sức lao động tí nào đâu? Đồng chí à, tôi nói có thể trông thấy vẻ bên ngoài của tôi, kỳ thực là tôi bị bệnh tim cực kỳ nghiêm trọng. Tim tôi đã bị người ta dùng dao đâm xuyên qua. Chỉ cần làm một việc nhẹ, vết thương trong tim sẽ vỡ ra. Thế là tôi sẽ hộc máu mà chết. Đồng chí, anh hãy cho tôi một con cá. Tôi không dám xin anh con cá to, tôi chỉ cần con cá nhỏ thôi...”. Cứ thế, lúc nào Tần Hà cũng có được một vài con cá con tôm. Và ngay lập tức, anh ta chạy xuống bờ sông, dùng một con dao nhỏ mổ bụng rửa ráy sạch sẽ, tiếp theo là tìm một chỗ khuất gió, nhặt một ít cành khô và hai cục đá, đặt chiếc bát lên trên, đốt lửa luộc chín... Tôi thường đứng sau lưng quan sát mọi công việc của anh ta. Mùi vị thơm phức tươi rói từ chiếc bát bốc lên khiến tôi thèm chảy nước miếng và trong thâm tâm, tôi hâm mộ cuộc sống của anh ta...
Tần Hà là em ruột của bí thư đảng ủy công xã Tần Sơn, từng là học sinh trường trung học số 1 của huyện. Em trai của bí thư công xã đi xin ăn ở chợ, tất nhiên trong chuyện này có nhiều nguyên nhân rất phức tạp. Có người nói, anh ta là kẻ ái mộ cô tôi đến độ điên cuồng nhưng rồi trong một lúc điên loạn, anh ta đã dùng súng của anh trai tự sát nhưng bất thành, sau khi chữa trị vết thương thì biến thành bộ dạng như thế. Ban đầu vẫn có người cười cợt chế nhạo. Nhưng kể từ khi anh ta giúp ông già giữ được con cá năm mươi ký, những người bán cá đã có vẻ kính nể và thông cảm cho anh ta hơn. Tôi cảm thấy người này có một sức hấp dẫn kỳ lạ, tôi muốn hiểu anh ta. Mỗi khi nhìn thấy đôi mắt dâm dấp ướt của anh ta là tôi cảm thấy đồng tình. Một buổi chiều hoàng hôn, chợ cá đã tan, một mình anh ta đứng dưới những tia nắng cuối cùng, kéo lê chiếc bóng dài ngoằng phía sau đi về phía tây. Tôi lặng lẽ đi theo anh ta. Tôi muốn biết bí mật của con người này. Anh ta phát hiện tôi theo dõi phía sau thì dừng lại, quay người cung kính cúi sát đất vái tôi một cái, nói: “Anh bạn thân mến, tôi là thằng người chẳng ra gì, đúng không?” - Giọng nói và cử chỉ anh ta trông thật tội nghiệp: “Ý tôi là, xin anh đừng đi theo sau lưng tôi”. Tôi nói: “Anh đi thì tôi cũng đi, tôi có đi theo anh đâu”. Anh ta lắc đầu, thì thầm van nài: “Anh bạn, hãy thương lấy kẻ bất hạnh này”. Nói xong thì quay người tiếp tục đi về phía trước. Tôi vẫn cứ đi theo. Bước chân anh ta rất dài, chân co lên rất cao khi bước, thân thể lắc la lắc lư trông chẳng khác nào được cắt ra từ một tờ giấy. Tôi chỉ dùng năm phần sức lực cũng đủ để theo kịp anh ta. Anh ta dừng lại, thở hồng hộc, sắc mặt trắng bệch, nước mắt đã chảy ra ràn rụa, lắp bắp: “Anh bạn... Anh hãy tha cho tôi... Tôi là một phế nhân, là một kẻ đã từng bị trọng thương...”
Thái độ của anh ta khiến quyết tâm của tôi không còn nữa, đứng lại, nhìn theo bóng dáng anh ta và bên tai tôi vẫn thoang thoảng những tiếng nấc nghẹn. Thực ra thì tôi không hề ác ý. Tôi chỉ muốn biết anh ta sống thế nào, chẳng hạn như đêm xuống, anh ta ngủ ở đâu mà thôi.
Lúc ấy, đôi chân tôi đã dài lắm, bắp vế rất to, mới chỉ là một đứa trẻ nhưng tôi lại mang giày số bốn mươi. Mẹ tôi vẫn rất buồn về chuyện này. Thầy Trần dạy thể dục ở trường, vốn là vận động viên điền kinh cấp tỉnh, là một kiện tướng thể dục đúng nghĩa nhưng lại thuộc phái hữu đã từng đo bắp chân, đo chiều cao đôi chân tôi và cho rằng tôi có khả năng về thể dục nên rất chú ý bồi dưỡng tôi. Thầy dạy tôi cách điều chỉnh bước chân khi chạy, điều hòa hơi thở để phân bổ sức lực. Trong hội thao giành cho học sinh trung và tiểu học toàn huyện, tôi đã đoạt giải ba về môn chạy cự ly ba nghìn mét. Do vậy chuyện tôi trốn học chạy đến chợ cá chơi trở thành một chuyện bình thường, không ai thèm để ý nữa.
Sau lần theo dõi ấy, tôi trở thành bạn của Tần Hà. Mỗi lần gặp mặt, anh ta luôn luôn gật đầu chào tôi rất thân thiện. Anh ta lớn hơn tôi đến mười mấy tuổi, nhưng tình bạn giữa tôi và anh ta có thể nói là tình bạn vong niên. Ngoài anh ta ra, chợ cá còn có hai người ăn xin nữa. Một người tên là Cao Môn có đôi vai rộng, thoạt nhìn cũng biết ngay là người rất khỏe. Người còn lại tên là Lỗ Hoa Hoa, là một người đàn ông mắc chứng vàng da do bị viêm gan nhưng không hiểu sao lại mang một cái tên rất đàn bà. Có một ngày, hai gã ăn mày này liên thủ tấn công Tần Hà. Một gã dùng chiếc gậy bằng thân cây liễu, một gã cầm chiếc giày rách đánh tới tấp vào Tần Hà. Anh ta không trả đòn mà chỉ kêu van:
“Các đại ca ơi! Các đại ca đánh chết được tôi, tôi vô cùng cám ơn… Nhưng các đại ca đừng nên ăn ếch… Ếch là bạn của con người, không nên ăn chúng… Trong thịt ếch có ký sinh trùng… Người ăn thịt ếch sẽ biến thành kẻ đần độn…”
Tôi đã trông thấy dưới bóng cây liễu có một đống lửa, khói xanh vẫn còn đang cuồn cuộn bốc lên, trong đống lửa ấy có những con ếch đang sắp bị nướng chín. Bên cạnh đống lửa là da ếch, xương ếch đang bốc lên mùi tanh tanh khiến tôi muốn lộn mửa. Tôi hiểu, thì ra Tần Hà ngăn cản hai gã ăn mày này bắt ếch nướng ăn nên mới bị đánh. Nhìn thấy Tần Hà bị đánh, nước mắt tôi trào ra. Thời kỳ đói kém, người ta ăn thịt ếch là chuyện bình thường. Nhưng người trong gia tộc chúng tôi không bao giờ ăn thịt ếch. Và tôi tin rằng, tất cả những người thuộc gia tộc tôi thà chết đói chứ không bao giờ ăn thịt ếch. Xét về phương diện này, Tần Hà là đồng chí của tôi. Tôi nhặt một que củi đang cháy dở đập mạnh vào mông Cao Môn rồi thuận tay điểm mạnh vào cổ Lỗ Hoa Hoa rồi vất que củi, chạy thục mạng về phía bờ sông. Cả hai gã đuổi theo tôi. Tôi giữ cự ly an toàn nhưng đủ để dụ chúng rời xa Tần Hà. Khi cả hai dừng lại thì tôi lại cao giọng chửi hoặc nhặt một vài hòn đá rơi vãi trên bờ sông ném về phía chúng.
Ngày ấy, người của bốn mươi tám thôn thuộc công xã đều vác cờ đỏ, có người còn mang theo cả trống và phèng la, người đi theo đường bộ, kẻ đi theo đường sông áp giải những kẻ xấu thuộc thôn mình theo đến tập trung tại khu Đới Hồng. Họ tập trung về đây để phê đấu Dương Lâm, vốn là bí thư huyện ủy nhưng đã theo tư sản. Những kẻ xấu ở các cơ quan, các xã trực thuộc và các thôn cũng bị điệu về đây để tham dự cuộc phê đấu. Chúng tôi đi theo đường sông lúc này đang đóng băng. Có người còn trượt băng trên những tấm ván trượt tự chế. Thầy giáo Trần, người từng chú ý bồi dưỡng tôi, đầu đội một chiếc mũ giấy cao ngất ngưởng, đôi ống chân để trần, đôi bàn chân xỏ một đôi giày cỏ rách nát, gương mặt tươi rói đi sau thầy hiệu trưởng cũng đang đội chiếc mũ cao ngất ngưởng nhưng gương mặt vô cùng buồn thảm. Áp giải họ là con trai Tiêu Thượng Thần - Tiêu Hạ Thần tay cầm cờ đỏ. Tiêu Thượng Thần đã trở thành chủ nhiệm Ủy ban cách mạng công xã và con trai ông ta, Tiêu Hạ Thần đã là đại đội trưởng Hồng vệ binh trường tôi. Đôi giày thể thao mà nó đang mang trong chân là lột từ đôi chân của thầy giáo Trần dạy thể dục. Còn khẩu súng bắn được hai phát hiệu lệnh - vốn là vật tôi mơ ước được cầm thử một lần - lúc này đang giắt bên hông của Tiêu Hạ Thần lại là tài sản công của trường tôi. Thi thoảng, nó lấy khẩu súng ra, nhét thuốc súng vào rồi chĩa lên trời bắn đoàng đoàng. Tiếng súng nổ cộng với làn khói xanh nhạt tỏa ra từ đầu mũi súng khiến không khí càng trở nên hùng tráng hơn.
Khi cách mạng mới bắt đầu, tôi cũng muốn tham gia Hồng vệ binh nhưng thằng Tiêu Hạ Thần lại không nhận tôi. Nó nói, tôi thuộc phái hữu vì là học sinh được thầy Trần đặc biệt bồi dưỡng. Nó còn nói, ông nội tôi là Hán gian, là liệt sĩ giả danh, cô tôi là đặc vụ của Quốc dân đảng, là vợ chưa cưới của kẻ phản bội tổ quốc, là kẻ đi theo phái tư bản. Để báo thù nó, tôi nhặt phân chó, dùng lá cây gói lại cẩn thận, giấu trong tay. Đi đến trước mặt nó, tôi cố ý nói: “Tiêu Hạ Thần, đầu lưỡi của mày sao lại đen thế?”. Thằng này đâu có biết tôi lừa, lập tức há miệng ra, tôi nhét nắm phân chó vào miệng nó và quay người bỏ chạy. Nó làm sao đuổi kịp tôi! Trong trường, ngoài thầy giáo Trần ra, không ai có khả năng chạy thi với tôi cả.
Nhìn thấy nó mang giày của thầy Trần, cầm cờ đỏ, mang súng phát hiệu lệnh cùng với cái mặt tiểu nhân đắc ý cố tình diệu võ dương oai của nó, tôi vừa căm ghét vừa đố kỵ nên mới quyết định cho nó một vố nữa. Tôi biết nó vốn rất sợ rắn nhưng lúc ấy đã là cuối thu, khó lòng bắt được con rắn nào. Nên ngay sau đó, tôi đi tìm một khúc dây thừng, khoanh tròn lại và giấu sau lưng, lặng lẽ đến bên cạnh rồi bất ngờ quàng dây thừng vào cổ nó, đồng thời hét lên: Rắn độc!
Tiêu Hạ Thần thét lên một tiếng kinh hoàng, vất cờ lệnh, hai tay quáng quàng bấu lấy chiếc dây thừng trên cổ. Khi nhận ra vật trên cổ chỉ là một chiếc dây thừng, nó mới bình tĩnh lại, nhặt cờ lệnh lên, nhe răng tím mặt hét lớn: “Vạn Tiểu Bão, mày là một thằng phản cách mạng! Giết”. Vừa nói, nó vừa đâm thẳng cán cờ lệnh vào tôi trông chẳng khác nào đang sử dụng một thanh kiếm.
Tôi chạy.
Nó đuổi theo.
Chạy trên băng nên rất khó cho tôi phát triển sở trường của mình. Tôi cảm thấy có một luồng khí lạnh đang áp sát sau lưng mình, hoảng sợ khi nghĩ là cán cờ có bịt đầu bằng sắt ấy sẽ xuyên qua thân thể mình vì biết Tiêu Hạ Thần đã từng dùng đá để mài cái mũi sắt ấy rất sắc nhọn. Tôi cùng biết là thằng này tâm địa rất thâm độc, trong tay nó lại đang có vũ khí lợi hại nên ý thức giết người càng thêm hăng. Nó vẫn thường dùng cái cán cờ ấy đâm thẳng vào thân cây, đâm vào những con bù nhìn trên ruộng, trước đấy không lâu đã đâm chết một con lợn đực của hàng xóm vì con lợn đực này đang chồm lên lưng con lợn cái nhà nó. Vừa chạy tôi vừa quay lại nhìn, trông thấy đầu tóc nó dựng ngược, hai con mắt trợn tròn xoe. Tôi nghĩ thầm, nếu để nó đuổi kịp thì cái mạng nhỏ của tôi ba phần tư là không còn tồn tại nữa.
Tôi chạy. Tôi len lỏi giữa những hàng người mà chạy, ngã xuống rồi lại đứng dậy chạy tiếp nhưng vẫn có cảm giác là cán cờ của Tiêu Hạ Thần đang gí sát lưng mình. Nhưng may thay, băng trơn, tôi ngã thì nó cũng ngã. Tôi bò dậy thì nó cũng bò dậy, tôi tiếp tục chạy và nó tiếp tục đuổi. Thi thoảng tôi đâm sầm vào một ai đó. Đàn ông? Hay đàn bà? A! Thằng oắt này! A! Cứu! Cứu mạng!… Có kẻ muốn giết người! Một đoàn người đầy đủ chiêng trống đang diễu hành trên băng bị tôi đâm thẳng vào, tiếng chiêng tiếng trống có phần lỗi nhịp, trong đó có mũ của mấy kẻ xấu rơi xuống đất - Tôi chạy qua trước mặt Trần Ngạch, bố Trần Tị; tôi chạy sau lưng Ngãi Liên, mẹ Trần Tị. Tôi chạy bên hông Viên Liễm, bố Viên Tai… Họ đã biến thành những kẻ “theo đuôi phái tư sản”. Tôi chạy ngang qua bên mình Vương Cước - Tôi trông thấy mặt mẹ tôi, nghe thấy bà kêu lên kinh sợ - Tôi thấy Vương Can, bạn thân của tôi - Tôi nghe thấy một tiếng ngã nặng nề sau lưng mình và sau đó là tiếng rú thảm thiết của Tiêu Hạ Thần - Sau đó tôi mới biết, Vương Can đã nhẹ nhàng đưa một chân ra khiến Tiêu Hạ Thần ngã sấp, mặt đập rất mạnh xuống băng khiến môi tóe máu, may mà còn giữ được hai hàm răng. Tiêu Hạ Thần bò dậy định xông vào hành hung Vương Can nhưng đôi bàn tay to lớn của Vương Cước đã túm chặt lấy vai nó. Vương Cước nói: “Tiêu Hạ Thần mày là đồ tạp chủng. Mày mà dám động đến một sợi tóc của Vương Can là tao móc đôi mắt mày ra! Nhà tao ba đời cố nông - Vương Cước nói - Người khác thì sợ mày chứ ông nội mày đây chẳng có gì phải sợ!”.
Người đã đông như kiến trên mặt nước hồ đã đóng băng dày. Còn trên cống Đới Hồng, một sân khấu bằng ván và chiếu lau rất hoành tráng đã được dựng lên. Đầu năm nay công xã đã điều động một số người khỏe mạnh, có tay nghề cao tập hợp thành một đội chuyên đi dựng sân khấu, khán đài để tổ chức đấu tố. Trên sân khấu cắm mấy chục là cờ đỏ và rất nhiều những câu khẩu hiệu trắng viết trên nền vải đỏ. Hai chiếc trụ to tướng dựng trước sân khấu có mắc bốn chiếc loa phóng thanh cực to. Khi chúng tôi đi đến vị trí quy định, trên loa đang phát bài hát “Ngữ lục ca”: Chân lý của chủ nghĩa Mác, trăm vạn điều hay. Quy về một mối, chỉ cần một câu: Tạo phản có lý của tạo phản…
Đúng là quá vui, quá náo nhiệt. Tôi chen lấn giữa biển người để tiến về phía trước, muốn đến gần khán đài. Những người bị tôi xô đẩy vung chân đá vào mông tôi, vung nắm đấm đập vào vai tôi, dùng cùi chỏ thúc vào mặt tôi chẳng hề khách khí chút nào. Tốn rất nhiều thời gian và sức lực nhưng rốt cuộc không những tôi không tiến được lên phía trước mà dần dần còn bị đẩy ra ngoài. Tôi nghe thấy tiếng nước chảy róc rách và dự cảm là có điều gì đó không may chuẩn bị xảy ra. Đúng lúc ấy, tiếng một người đàn ông khàn khàn như vịt đực vang lên trên loa: “Đại hội đấu tố sắp sửa bắt đầu, xin mới quý vị bần hạ trung nông giữ trật tự. Những người ở phía trước ngồi xuống!”
Tôi lần đến phía tây của cống Đới Hồng. Ở đó một dãy nhà trệt ba phòng thấp lè tè dùng để chứa những thiết bị dự phòng cho cống. Chân tôi đạp vào đống gạch vụn, tay tôi bám vào gỗ lợp mái, như một con mèo nhẹ nhàng leo lên mái nhà, bò trên ngói, leo lên đến tận nóc. Đưa mắt nhìn về bên phải, hàng vạn quần chúng, hàng vạn cờ đỏ khỏa lấp màu trắng của băng. Phía góc tây của sân khấu có mấy chục người đang ngồi bệt dưới đất, cúi đầu ủ rủ. Tôi biết đó là những kẻ “đầu trâu mặt ngựa” thuộc công xã đang chờ lên trên sân khấu để quần chúng phê đấu. Tiêu Thượng Thần đang hét vào micro. Cái lão coi kho chẳng ra gì trước đây có nằm mơ cũng không thể nghĩ là mình lại trở thành quan lớn như vậy. Khi Cách mạng văn hóa vừa bắt đầu, lão ta đã cầm đầu tạo phản, thành lập “Phong Ba tạo phản binh đoàn” và tự phong mình là tư lệnh!
Lão đang mặc trên người bộ quân trang cũ rích, bạc thếch, trên cánh tay có đeo một vuông lụa màu đỏ, đầu chỉ còn vài sợi tóc lơ thơ. Cái đầu hói sáng lấp lóa dưới nắng. Lão đang bắt chước những nhân vật quan trọng mà chúng tôi vẫn thường thấy trên phim mỗi khi diễn thuyết: Vươn cổ về phía trước, một tay chống nạnh, một tay chém vun vút trong không khí, lúc thì phạt ngang, lúc thì chém xuống trông như một lưỡi kiếm, rất hùng hổ và dứt khoát. Giọng của lão được khuyếch đại hàng nghìn lần khiến người ta phải điếc tai. Tiếng huyên náo từ phía quần chúng bên dưới đột nhiên vang lên chẳng khác nào sóng biển đánh vào bờ đá, ầm ầm ì ì. Hình như có ai đó đang làm loạn giữa đám đông, bởi trước đó tôi thấy quần chúng vẫn rất trật tự và yên lặng. Tôi thoáng có một cảm giác bất an khi nghĩ về mẹ tôi và những người già cả trong thôn. Tôi muốn tìm thấy họ trong đám đông nhưng ánh phản quang từ băng hắt lên khiến mắt tôi lóa đi. Gió lạnh từ phía sau thổi xộc tới xuyên vào tấm áo bông rách nát khiến tôi run rẩy.
Trên sân khấu, Tiêu Thượng Thần chém mạnh tay xuống. Ngay lập tức mười mấy người đàn ông to lớn cầm gậy, trên tay có đeo phù hiệu “Trật tự viên” xuất hiện phía sau sân khấu, nhảy xuống sân khấu và chen về phía chỗ đang xảy ra ồn ào, vung gậy lên tiến hành đàn áp. Đầu mỗi chiếc gậy đều có đính một dải lụa đỏ nên khi vung lên, nó chẳng khác một vòng tròn lửa, trông thật kiêu hùng. Một thanh niên bị gậy đập trúng đầu, tức giận chộp lấy chiếc gậy và lớn tiếng tranh luận với trật tự viên và ngay lập tức nhận lấy một cú đấm vào giữa mặt. Trật tự viên vốn thiết diện vô tư, hạ thủ vô tình nên gậy đi đến đâu là người người ngã rạp hoặc dạt về hai bên đến đấy. Tiếng Tiêu Thượng Thần vẫn ầm ầm vang vọng trên loa: “Ngồi xuống! Ngồi xuống! Bắt những kẻ làm loạn!”. Gã thanh niên vừa nhận một cú đấm ấy bị chộp lấy đầu tóc, lôi ra khỏi đám đông… Cuối cùng thì đám đông cũng đã trở nên yên lặng, có người quỳ, có người ngồi và hình như không còn ai dám đứng nữa. Những trật tự viên vẫn cầm chắc gậy trong tay chia nhau đứng giữa quần chúng, trông chẳng khác nào những con bù nhìn đứng giữa ruộng lúa mạch nhấp nhô.
“Dắt bọn đầu trâu mặt ngựa lên sân khấu!” - Theo mệnh lệnh của Tiêu Thượng Thần, một đám đông trật tự viên tự nãy giờ vẫn đứng nghiêm trang chờ lệnh, cứ hai gã kẹp một người đưa lên sân khấu. Những “đầu trâu mặt ngựa” ấy chân không chấm đất!
Tôi trông thấy cô!
Cô tôi không thuần phục. Khi trật tự viên nắm lấy đầu tóc ấn đầu cô xuống thì buộc lòng cô phải cúi mặt. Nhưng khi gã vừa thả tay ra là cô lại ngẩng mặt lên. Sự phản kháng của cô nhận được sự áp chế rất mạnh mẽ. Cuối cùng, cô bị đánh đến độ bò lăn trên sân khấu. Một gã trật tự viên đá một cú thật mạnh vào lưng cô. Có ai đó nhảy lên sân khấu hô vang khẩu hiệu nhưng tiếng hưởng ứng ở dưới sân khấu chỉ lèo tèo vài ba tiếng. Kẻ hô khẩu hiệu mất hứng, tiu nghỉu rời khỏi sân khấu. Đúng lúc ấy, một tiếng khóc rất nhọn sắc vang lên giữa đám đông. Đó là tiếng khóc của mẹ tôi: “Khổ thân em tôi… Chúng mày là một lũ súc sinh táng tận lương tâm…”
Tiêu Thượng Thần ra lệnh đưa tất cả “đầu trâu mặt ngựa” xuống khỏi sân khấu, chỉ để lại có một mình cô tôi trên ấy. Gã trật tự viên ấy lại tiếp tục đá một cú nữa vào lưng cô - Tư thế đá của hắn sao mà oai phong, sao mà hùng dũng! Tất đúng với tinh thần câu khẩu hiệu lúc ấy: “Đánh cho giai cấp đối kháng phải nằm sát đất!”. Hắn đá tiếp một cú nữa. Cô tôi đã nằm im bất động, tôi lo là cô đã chết. Tiếng khóc của mẹ tôi dưới sân khấu cũng không còn nữa, tôi cũng lo là mẹ đã chết.
Những “đầu trâu mặt ngựa” được đưa xuống khỏi sân khấu đang tập trung dưới gốc dương liễu bên cạnh dãy nhà tôi đang nằm trên nóc dưới sự cai quản của mấy trật tự viên tay cầm súng. Họ ngồi bệt dưới đất, đầu cúi gằm bất động. Trông họ lúc này chẳng khác nào những cục đất sét. Hoàng Thu Nhã ngồi tựa đầu và lưng vào tường, mái tóc bị cắt bên dài bên ngắn, thần thái có vẻ sợ hãi tột độ. Tôi từng nghe nói rằng khi Cách mạng văn hóa bắt đầu, cô tôi là một trong những người phát động “Đội chiến đấu Bạch Cầu Ân” trong hệ thống các Phòng Y tế. Cô tham gia một cách cuồng nhiệt, hầu như không hề khách khí gì với những người chung quanh, ngay cả trạm trưởng - người đã từng cưu mang cô và Hoàng Thu Nhã - người cô rất kính trọng vẫn chẳng có một chút lưu tình. Tôi hiểu, thực chất là cô tôi muốn dùng cách ấy để tự bảo vệ mình mà thôi. Tâm trạng cô lúc ấy cũng giống như người đi một mình trong đêm tối mà vẫn cất cao tiếng hát, kỳ thực là để che giấu nỗi sợ hãi trong lòng. Ông trạm trưởng là người có khí cốt, không chịu được sự nhục mạ nên đã nhảy giếng tự tử. Còn Hoàng Thu Nhã cũng không chịu được sự xúc phạm và bức hiếp nên đã nói toạc ra mối quan hệ bí mật giữa cô với Vương Tiểu Thích và chuyện tờ truyền đơn ngày ấy. Hoàng Thu Nhã còn nói: “Vạn Tâm đêm nào cũng nằm mơ và gọi tên Vương Tiểu Thích!”. Bà ta còn nói, một đêm nọ bà ta trực ban, quay về ký túc xá để lấy đồ thì phát hiện cô tôi không có mặt trong ký túc xá. Bà ta nghĩ, một người đàn bà không chồng không con, giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này còn chạy đi đâu? Bà ta nói, đang lúc bà ta suy nghĩ thì phát hiện ra trên bãi dương liễu bên bờ sông Giảo Hà có ba viên đạn tín hiệu đỏ bắn lên và sau đó thì nghe thấy tiếng máy bay trên không trung. Sau một lát, một bóng đen nhẹ nhàng đi vào ký túc xá, căn cứ vào bóng dáng, bà ta biết đó là cô tôi. Bà ta nói, bà ta đã ngay lập tức đem chuyện này báo cáo với trạm trưởng. Nhưng ông ta là người theo tư sản, lại là người cùng một phái với cô tôi nên đã ém nhẹm chuyện này đi. Cuối cùng bà ta khẳng định: “Vạn Tâm là đặc vụ của Quốc dân đảng”. Chỉ riêng chuyện này thôi, bà ta đã đủ sức để lấy đi tính mệnh của cô tôi nhưng chưa hết, bà ta còn nói thêm chuyện thứ hai. Bà ta nói, cô tôi đã không biết bao nhiêu lần lên huyện sống chung với kẻ đã theo tư bản Dương Lâm, không những thế mà còn có thai với ông này. Chính bà ta là người nạo thai cho cô tôi. Nói chung là quần chúng có sức sáng tạo rất mạnh mẽ nhưng từ quần chúng cũng ẩn chứa những tư tưởng tà ác. Hoàng Thu Nhã vạch trần hai tội trạng của cô tôi phần nào đã làm thỏa mãn những nhu cầu tâm lý của mọi người. Lại thêm cô tôi khăng khăng không nhận tội khiến cho mỗi cuộc đấu tố đều được thêm màu thêm sắc để biến chúng thành những ngày hội ngày lễ đầy ma quái ở vùng Đông Bắc Cao Mật chúng tôi.
Tôi nhìn gương mặt đầy vẻ sợ hãi của Hoàng Thu Nhã lúc này mà thấy vừa hận bà ta ghê gớm nhưng đồng thời lại có chút đồng cảm, vừa sợ vừa thương. Tôi nhè nhẹ gỡ một miếng ngói để nhìn Hoàng Thu Nhã được rõ hơn. Tôi nghĩ, tôi chỉ cần hất nhẹ một cái là viên ngói trên tay tôi sẽ rơi trúng đầu bà ta. Nhưng rồi tôi do dự và cuối cùng thì không làm thế - Nhiều năm sau, tôi đem chuyện này nói lại với cô tôi. Cô nói, may mà cháu không làm chuyện ấy, nếu không tội trạng của cô lại tăng thêm mấy phần nữa. Khi đã về già, cô tôi vẫn cứ nghĩ rằng mình có tội, không những có tội mà thậm chí là tội tày trời, không thể rửa được. Tôi cho rằng cô đã tự trách mình quá nặng. Thời đại ấy, nếu có một ai đó đứng vào vị trí cô thì chắc rằng người ấy sẽ làm tốt hơn cô nhiều. Nghe những lời tôi, cô buồn bã nói: “Cháu không hiểu được đâu…”
Sau khi Dương Lâm bị đưa lên sân khấu, cái chân của gã trật tự viên đang đè lên cánh tay cô tôi mới động đậy. Chúng dựng cô tôi dậy, đặt ngồi bên cạnh Dương Lâm, đầu vẫn cúi nhưng hai vai thì vươn về phía sau, dáng điệu trông giống với tư thế của Vương Tiểu Thích khi ngồi trong buồng lái của chiếc “Tiêm kích - 5”. Tôi nhìn cái đầu trọc lóc của Dương Lâm. Ông này, nửa năm về trước vẫn là một tượng đài uy nghiêm chẳng khác nào thần thánh mà dân đen chúng tôi không được phép nhìn thẳng. Và trong thâm tâm, chúng tôi vẫn mơ ước cô tôi và ông ta kết mối lương duyên, dù ông ta có lớn hơn cô tôi đến hai mươi tuổi. Cho dù cô tôi có lấy ông ta chẳng qua cũng là trám vào cái vị trí của bà vợ ông ta đã chết. Nhưng dù gì thì ông ta cũng là bí thư huyện ủy, là cán bộ cao cấp, mỗi tháng nhận được lương hơn một trăm đồng, đi đâu cũng ngồi xe Jeep trông rất oai, sau lưng lại có thư ký, có cảnh vệ đi kèm! Nhiều năm sau, cô tôi nói: “Kỳ thực là cô cũng chỉ gặp ông ta có một lần. Cho dù cô không thích cái bụng trông chẳng khác nào phụ nữ có mang đến tháng thứ tám, cho dù cô không chịu nổi cái mồm luôn luôn phả ra mùi tỏi thum thủm của ông ta - nhưng trong thâm tâm cô vẫn xác định là có thể thành vợ ông ta. Vì dòng họ ta, vì các cháu, cô vẫn có thể lấy ông ta” - Cô tôi nói, sau khi cô lên huyện để gặp Dương Lâm thì ngày hôm sau, bí thư công xã Tần Sơn về trạm xá công xã để thị sát tình hình. Trạm trưởng đưa ông ta đến Khoa sản phụ với vẻ mặt cầu tài, bộ điệu khúm núm trông chẳng khác một kẻ nô tài ngày xưa. Cô nói: “Trước đó, Tần Sơn là một kẻ rất hống hách, luôn luôn quát nạt, coi thường tất cả mọi người, chỉ cần một cái nháy mắt lại biến thành một kẻ nô tài khiến cô cảm thấy chuyện đời sao mà đáng nực cười. Vì những kẻ tiểu nhân ấy mà cô quyết tâm lấy cho được Dương Lâm - Cô nói - Nếu không có Cách mạng văn hóa…”
Một nữ Hồng vệ binh thấp đậm bước lên sân khấu, tay cầm hai chiếc giày rách, một chiếc tròng qua cổ Dương Lâm, một chiếc tròng qua cổ cô tôi. Sau này cô tôi nói: “Tội phản cách mạng, tội đặc vụ… cô có thể nhận. Nhưng cô tuyệt đối không chịu nổi cái biệt danh “giày rách”. Đây là một nỗi nhục lớn!”. Tôi thấy cô tôi giật phăng chiếc giày trên cổ vất xuống đi với sức mạnh đột ngột. Và chiếc giày ấy như có mắt, bay thẳng xuống sân khấu và rơi xuống trước mặt Hoàng Thu Nhã!
Cô Hồng vệ binh nhảy dựng lên và chộp lấy đầu tóc cô, ấn xuống. Cô tôi giãy giụa và mặt vẫn ngước thẳng lên trời. Cô ơi! Hãy cúi đầu xuống đi! Nếu cô không chịu cúi đầu thì e rằng da đầu của cô sẽ bị bóc ra mất thôi! Ả Hồng vệ binh này e rằng cũng nặng đến năm mươi ký lô. Ả sẽ nắm lấy tóc cô mà treo cô lên giữa không trung mất thôi! Tôi kêu thầm trong bụng như vậy. Bỗng nhiên đầu cô tôi giật thật mạnh trông chẳng khác nào một con tuấn mã dựng vó trước chuẩn bị phi nước đại - Trong tay ả Hồng vệ binh lúc này là hai lọn tóc và máu đang túa ra dầm dề xuống mặt, xuống tai, xuống cổ cô - Trên da đầu cô tôi cho đến bây giờ vẫn còn hai vết sẹo tròn xoe như hai đồng tiền - Nhưng cô tôi vẫn đứng sững, lưng không hề cúi. Phía dưới sân khấu im lặng như tờ, chỉ có một con lừa đang kéo chiếc xe phía sau là ngửa cổ lên trời phát ra một tràng tiếng kêu bi thương và uất nghẹn. Không nghe thấy tiếng khóc của mẹ tôi. Tôi cảm thấy đầu óc mình bỗng nhiên rỗng tuếch!
Lúc ấy, Hoàng Thu Nhã đã nhặt chiếc giày rách cầm ở tay rồi nhảy vọt lên sân khấu. Tôi đoán là bà ta vẫn không biết chuyện gì đang diễn ra trên ấy. Nếu biết được, bà ta tuyệt đối không hành động như vậy. Vừa đến trước sân khấu, bà ta đã đứng lặng, vất chiếc giày xuống đất và cái miệng mấp máy không biết đang nói những gì rồi bắt đầu đi lùi đi lùi từng bước. Tiêu Thượng Thần sải bước lên sân khấu, nghiêm giọng quát: “Vạn Tâm! Cô quá ngông cuồng!”. Rồi lão ta vung tay lên, tự mình hô khẩu hiệu như muốn hâm nóng không khí, nhưng quần chúng không ai hô theo lão cả. Cô Hồng vệ binh vất hai lọn tóc xuống khán đài như thể đang vất hai con rắn đang nắm trong tay, bật khóc rồi ôm mặt chạy xuống khỏi sân khấu.
“Hoàng Thu Nhã! Đứng lại!” - Tiêu Thượng Thần quát lớn, đưa tay chỉ vào chiếc giày đang nằm dưới đất, nói - “Bà, chính bà hãy tròng nó vào cổ Vạn Tâm!”
Máu vẫn đang chảy ròng ròng men theo vành tai rồi xuống cổ cô tôi, lại bò qua lông mày, lông mi rồi chui vào hốc mắt cô tôi. Cô đưa tay lên chùi mặt.
Hoàng Thu Nhã nhặt chiếc giày lên, xiêu xiêu vẹo vẹo đi đến trước mặt cô tôi. Bà ta ngước đầu lên nhìn vào mặt cô tôi, kêu lên một tiếng thất thanh rồi sùi bọ mép, ngã vật ra phía sau.
Mấy gã Hồng vệ binh nhảy vội lên sân khấu, khiêng bà ta lúc này đã như một con chó chết xuống.
Tiêu Thượng Thần chộp cổ áo Dương Lâm kéo mạnh lên khiến lưng ông ta thẳng lên một tí. Hai tay Dương Lâm vẫn buông thõng, hai chân mềm như hai cọng miến. Chỉ cần Tiêu Thượng Thần buông tay là ông ta sẽ ngã huỵch xuống sân khấu mà thôi.
“Vạn Tâm ngoan cố cứng đầu, chỉ có một đường là chết!” - Tiêu Thượng Thần nói - “Nó không nhận tội thì ông nhận tội, thành khẩn thì được khoan hồng, phản kháng sẽ bị nghiêm trị! Ông nói đi, ông và Vạn Tâm đã ăn nằm với nhau chưa?”
Dương Lâm không hé răng.
Tiêu Thượng Thần phất tay, một gã đại hán chạy vọt lên sân khấu, dạng chân tát mạnh mấy chục cái vào mặt Dương Lâm. Những tiếng chát chát vang lên khô khốc đến tận đầu ngọn cây. Có mấy vật màu trắng rơi xuống mặt sân khấu, tôi nghĩ đó là răng của Dương Lâm. Thân thể Dương Lâm lắc lư, e rằng sắp sửa gục xuống, gã đại hán chộp lấy cổ áo ông ta dựng lên.
“Nói! Đã có chuyện ấy chưa?”
“Đã…”
“Mấy lần?”
“Một lần…”
“Khai cho thật!”
“Hai lần…”
“Ông vẫn không thành thật!”
“Ba lần… bốn lần… năm lần… nhiều lần… không nhớ được…”
Cô tôi đột nhiên kêu rống lên rồi như một con sư tử cái vồ mồi, lao thẳng vào Dương Lâm khiến ông ta ngã kềnh ra sân khấu. Hai tay cô chộp lấy mặt ông ta… Mấy tay trật tự viên to như hộ pháp phải chật vật lắm mới gỡ được cô tôi ra khỏi Dương Lâm.
Đúng lúc ấy, tôi nghe thấy một tiếng “Rắc” quái dị thật to vang lên, kèm theo đó là tiếng lào xào. Mặt băng nứt toát! Rất nhiều người đang rơi xuống nước.