← Quay lại trang sách

- 8 -

Mưa liên tục mấy ngày liền, nước sông dâng cao, đường sá ngập chìm trong nước, giao thông hầu như đình trệ hoàn toàn. Hai chiếc xe từ tỉnh lân cận đến quê tôi để mua đào chỉ có một chiếc đến, một chiếc bị kẹt ở đâu đó.

Nhà nhà đua nhau hái đào. Có nhà thì còn đựng đào trong những chiếc sọt trúc chất thành núi, bên trên kéo vải bạt che kín. Cũng có nhà vất ngổn ngang ngoài sân thành từng đống mặc cho gió táp mưa vùi. Loại đào mật này không được để lâu. Vào những dịp cuối năm, những chiếc xe từ ngoại tỉnh vừa xuất hiện và chạy thẳng đến những vườn đào, bà con đua nhau hái đào cả ngày lẫn đêm và chất liền lên xe. Lái xe cũng đánh xe chạy suốt ngày đêm không kể mệt nhọc để trong ngày hôm sau, đào đã có mặt trong các quầy hoa quả tại các thành phố cách xa hàng nghìn cây số. Hình như ông trời có ý trừng phạt những người nông dân đã từng liên tục được mùa trong những năm trước nên năm nay, kể từ khi đào bắt đầu chín, trời không có lấy một ngày nắng ráo, hết mưa lớn lại đến mưa nhỏ, ngay cả những quả đào không kịp hái còn nằm trên cây cũng chín rục và tự rụng. Người quê tôi chỉ còn một chút hy vọng và cầu mong, hễ những cơn mưa tạm ngừng là có xe tải xuất hiện, chất lên và chạy, may ra còn vớt vát được đôi đồng. Nhưng ngày ấy chẳng có một dấu hiệu nào là trời sẽ tạm ngừng những cơn mưa.

Nhà tôi chỉ có ba mươi gốc đào và bố tôi đã già nên việc chăm sóc cũng không được chu đáo lắm, do vậy mà sản lượng quả không cao. Có điều, vơ vét hết cũng được khoảng sáu tấn. Số giỏ đựng đào của nhà tôi cũng không nhiều, chất đầy mười sáu giỏ đặt ở dưới thềm nhà, số còn lại được chất thành một đống trong sân và phủ bạt lên. Thi thoảng, bố tôi đội mưa ra sân, vén mép bạt lên để thăm dò tình hình đào và mỗi khi ông làm việc này, từ trong nhà chúng tôi vẫn ngửi thấy mùi đào thối rữa.

Tôi mới cưới “Tiểu sư tử” nên tôi giao con gái cho bố chăm sóc. Khi ông chạy ra sân thì nó cũng chạy ào theo, tay cầm một chiếc ô giương lên cao cao, có rất nhiều hình thù những loài động vật in trên ô.

Con gái tôi có vẻ lãnh đạm với tôi và “Tiểu sư tử” nhưng vẫn giữ được sự lễ độ cần thiết. “Tiểu sư tử” cho kẹo, hai tay nó quặt ra sau lưng không nhận, nhưng miệng vẫn nói: “Cháu cám ơn dì”.

Tôi nhắc: “Gọi là mẹ!”

Con gái trợn mắt nhìn tôi. Tôi biết nó đang kinh ngạc.

“Tiểu sư tử” nói: “Không cần gọi mẹ, cũng không cần gọi gì hết. Mọi người đều gọi tôi là “Tiểu sư tử” - Vừa nói cô ấy vừa chỉ vào hình con sư tử trên chiếc ô - “Cháu cứ gọi là Đại sư tử vậy!”

“Đại sư tử sẽ không ăn thịt trẻ con chứ?”

“Đại sư tử không ăn thịt trẻ con, ngược lại còn bảo vệ trẻ con”.

Bố bê vào một thúng đào đã thối gần nửa, dùng dao gọt những chỗ thối, vừa gọt vừa thở dài.

“Còn ăn được thì nên ăn. Bỏ phí lắm.” - Tôi nói.

“Nhưng đây lại là tiền! Bữa nay ông trời lại tiếp tục hại người nghèo nữa rồi.” - Bố nói.

“Bố...” - “Tiểu sư tử” vừa mới đổi cách xưng hô nên có vẻ còn ngượng nghịu lắm và tôi nhận ra sự ngượng nghịu ấy - “Nhà nước không thể không quan tâm đến chuyện này. Nhất định họ đang nghĩ cách để tích cực giúp dân”.

“Nhà nước chỉ biết có sinh đẻ có kế hoạch, không quan tâm đến dân tình sống chết thế nào đâu.” - Bố nói.

Đúng lúc ấy, tiếng loa phóng thanh ngoài đầu đường vang lên. Bố tôi sợ nghe không rõ lên vội vàng chạy ra sân, nghiêng tai nghe ngóng.

Trên loa phóng thanh người ta thông báo rằng, công xã đã liên hệ với Thanh Đảo, Yên Đài và các thành phố khác để phái đến đây một đội xe, hiện đang tập trung ở bến đò Ngô Gia Kiều cách thôn khoảng năm mươi cây số, chờ mua đào của Đông Bắc Cao Mật. Công xã yêu cầu nhân dân, dùng bất cứ phương tiện gì, kể cả đường bộ lẫn đường sông chuyển đào đến Ngô Gia Kiều. Giá cả đương nhiên là sẽ giảm hơn năm ngoái một tí nhưng vẫn còn hơn là để cho đào thối.

Loa phóng thanh vừa dứt, sức sống hình như đã trở lại ở thôn tôi. Tôi biết, sức sống không chỉ trở lại trong thôn tôi mà trên tất cả thôn làng của vùng Đông Bắc Cao Mật.

Ở quê tôi tuy có một con sông lớn, nhưng số lượng thuyền thì lại rất ít. Ban đầu mỗi đội sản xuất cũng có vài ba chiếc thuyền, nhưng trải qua thời kỳ bao cấp, không biết những chiếc thuyền ấy đã biến đi đằng nào.

Trong quần chúng nhân dân luôn luôn có một sức sáng tạo tiềm tàng, câu nói này không hề sai. Bố tôi chạy vào thềm nhà, leo lên xà nhà lấy xuống bốn quả bầu khô rất to, bốn tấm gỗ cũng thật to và dây thừng rồi đưa tất cả ra sân hì hục kết bè. Tôi cũng vội vàng cởi quần áo ngoài, chỉ mặc quần áo lót giúp bố tôi làm việc. “Tiểu sư tử” cầm ô che mưa cho tôi. Tôi đưa mắt nhìn cô ấy ngầm ý bảo hãy che mưa cho bố, nhưng bố lại nói là không cần. Con gái tôi cầm ô chạy loanh quanh trong sân. Vai bố đang khoác một tấm ni lông, đầu để trần. Trên mặt ông nước mưa và mồ hôi khó lòng phân định. Những nông dân thâm căn cố đế như bố tôi, mỗi khi bắt tay vào việc gì thì toàn tâm toàn ý, những động tác vô cùng dứt khoát và chính xác và chiếc bè đã thành hình trong một khoảng thời gian cực ngắn.

Khi chúng tôi khiêng chiếc bè ra đến bờ đê thì trên sông đã vô cùng nhộn nhịp. Mấy chiếc thuyền của đội vốn đã biến mất đột nhiên xuất hiện trở lại. Cùng lúc hạ thủy với những chiếc thuyền là mấy chục chiếc bè kết vội bằng những quả bầu, những chiếc săm xe ô tô, xe ba bánh... Nói chung là những gì có thể chứa được không khí bên trong, kể cả những chiếc thau nhựa cực lớn. Lại còn có cả một tấm phản gỗ khá lớn, không biết là của nhà ai. Thuyền bè đều được buộc chặt vào gốc liễu. Trên đường làng, kẻ vác người khiêng sọt, tấp nập vô cùng.

Những gia đình có nuôi lừa nuôi la thì đã chất lên lưng chúng những sọt đào cao ngất ngưởng. Mấy chục con cả lừa lẫn la đang đứng thành hàng trên bờ đê.

Một cán bộ công xã mặc áo đi mưa, quần xắn đến gối, hai giếc giày xách trên hai tay đang đứng trên đê cao giọng nói gì đó.

Trước mặt chiếc bè nhà tôi là một chiếc bè được kết trông rất chắc chắn và hoa mỹ với bốn thân cây gỗ sam to tướng được kết lại thành hình chữ “tỉnh”(井) bằng những sợi dây thừng rất chắc chắn, khoảng chính giữa được kết bởi những thanh gỗ rất dày và rộng. Bên dưới các thanh gỗ ấy là bốn chiếc săm ô tô vận tải to đùng đầy căng không khí. Tuy đã được chất mười mấy sọt đào lên trên nhưng hình như vẫn chưa thấm tháp gì so với sức chở của chiếc bè. Bốn góc và chính giữa chiếc bè còn dựng năm cây cọc rất to để căng vải bạt làm mái che mưa và tất nhiên là còn có thể che nắng. Với một chiếc bè như vậy, nhất định là không thể được kết trong một thời gian ngắn.

Vương Cước mặc áo đi mưa, đội một chiếc nón là rộng vành sùm sụp đứng ở đầu bè. Trông ông ta chẳng khác nào một ông già câu cá.

Chỉ mới đặt được sáu sọt đào mà chiếc bè nhà tôi đã sắp chìm xuống khỏi mặt nước. Nhưng bố tôi vẫn có ý định chất thêm hai sọt nữa. Tôi nói: “Có thể thêm hai sọt nữa nhưng bố không được đi, chỉ mình con thôi”.

Có lẽ bố nghĩ đến chuyện tôi mới cưới “Tiểu sư tử” có hai ngày nên bảo để một mình ông đi. Tôi nói: “Bố đừng tranh với con nữa. Bố xem, tất cả những người đang có mặt trên sông này, có ai nhiều tuổi như bố mà còn chống bè nữa không?”

Bố nói: “Thôi thì con hãy cẩn thận vậy”.

“Bố yên tâm, con làm việc gì cũng tồi nhưng bơi thì khỏi chê”.

“Nếu có sóng to gió lớn thì cứ quẳng đào xuống sông”.

“Bố yên tâm”.

Tôi vẫy vẫy tay chào “Tiểu sư tử”. Lúc này cô ấy đang đứng trên bờ đê dắt con gái tôi trong tay.

“Tiểu sư tử” cũng vẫy tay với tôi.

Bố mở dây thừng buộc trên gốc liễu ra quẳng cho tôi. Tôi nhặt lấy rồi quấn lại, chống sào vào bờ đê, dùng sức đẩy mạnh. Chiếc bè nặng nề chậm chạp chuyển động.

“Cẩn thận nhé!”

Tôi chống bè cho chạy chầm chậm men theo bờ đê.

Trên bờ, đoàn lừa và la cũng bắt đầu di chuyển theo thuyền và bè. Vì mang quá nặng nên chúng cũng đi rất chậm. Có mấy nhà còn làm ra vẻ, đeo mấy chiếc lục lạc vào cổ bọn chúng, những tiếng leng keng vang lên nghe cũng vui tai. Những người già và trẻ con cũng chậm rãi đi theo bọn la và lừa cho đến đầu thôn thì dừng lại và quay về.

Dòng sông chảy đến đầu thôn thì có một chỗ quanh rất gấp khúc, thuyền và bè đến chỗ này là sẽ gặp một dòng nước chảy xiết. Chiếc bè do Vương Cước điều khiển trước mặt tôi không thèm trôi thuận dòng mà băng ngang vào dòng nước chảy xiết nhất, gần sát bờ. Trên bờ đê đoạn sông này có rất nhiều loài cây rậm rạp cành lá nghiêng hẳn ra ngoài sông, trên đó ve đang kêu râm ran. Kể từ khi trông thấy chiếc bè to sụ và rất hoa mỹ của nhà Vương Cước, tôi dự cảm rằng sẽ có một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Quả nhiên, Vương Cước đã vất mấy chiếc sọt xuống sông và chúng đang nổi phập phù trôi theo dòng nước, chứng tỏ bên trong không có chứa đào. Tiếp theo, Vương Cước dùng sào chống bè đi thẳng vào những lùm cây cối um tùm và tôi thấy, thân hình cao to của Trần Tị ôm gọn Vương Đảm trong tay nhảy từ trên bờ xuống bè. Tiếp sau lưng Trần Tị là Vương Can bồng Trần Nhĩ cũng nhảy xuống bè.

Sau khi xuống bè, Trần Tị và Vương Can mở tấm bạt che mưa ra và hạ thấp xuống, biến tấm bạt trở thành một chiếc lều. Trên tay Vương Cước vẫn là chiếc sào chống bè. Và nhìn ông ta lúc này, tôi nhớ lại tư thế hùng dũng ngày xưa của ông ta khi ngồi trên càng xe vung roi điều khiển con ngựa. Thân thể ông ta thẳng đứng, hiên ngang và khỏe mạnh. Quả là cô tôi có mắt tinh đời khi nhận xét rằng, ông ta cúi gập lưng ra vẻ gù hoàn toàn là giả vờ để đánh lừa mọi người. Còn chuyện ông ta tung tin rằng, ông ta đã tuyệt giao với Vương Can cũng chỉ là vì cáu giận mà nói, đến thời điểm quan trọng nhất thì tình cha con lại phục hồi. Nhưng nói gì thì nói, trong thâm tâm tôi vẫn chúc mừng cho gia đình họ, thầm cầu mong cho họ đưa được Vương Đảm đến nơi cần phải đến. Đương nhiên, khi nghĩ đến việc cô tôi đã hao phí không biết bao nhiêu tâm sức cho chuyện này, tôi cảm thấy có một nỗi tiếc nuối mơ hồ.

Chiếc bè của Vương Cước chở khá nhẹ, nổi dềnh trên mặt nước nên tốc độ trôi rất nhanh, chẳng mấy chốc mà tách khỏi nhóm, dẫn đầu băng băng xuôi dòng.

Người ở những thôn khác hai bên bờ sông vẫn đang tiếp tục cho thuyền bè hạ thủy. Khi đoàn của chúng tôi đến thôn Đông Phong, nơi đã khiến cho cô tôi phải đổ máu thì không hẹn mà mấy trăm thuyền bè của chúng tôi bỗng dưng kết lại thành một khối, uốn lượn trải dài trên sông theo dòng trôi xuôi.

Ánh mắt tôi vẫn luôn theo dõi chiếc bè của nhà họ Vương. Tuy nó đã vượt lên trước nhưng vẫn chưa biến mất khỏi tầm mắt tôi.

Không còn nghi ngờ gì nữa, chiếc bè nhà họ Vương là to nhất, đẹp nhất trong tổng số những chiếc bè trôi trên sông ngày ấy. Nếu dùng cách so sánh của người thành phố thì nó chẳng khác nào một chiếc BMW lẫn giữa những chiếc Santana, Peugeot... cũ mèm và lạc hậu.

Chiếc bè ấy không những ngạo nghễ mà còn có chút thần bí. Những người đứng trên bờ nhìn theo đoàn thuyền bè xuôi theo khúc quanh, người ta sẽ dễ dàng chú ý đến tấm vải bạt phủ trên chiếc bè nhà họ Vương vì nó khác lạ. Nó ẩn chứa những gì bí mật vì ai cũng dễ dàng nhận ra, những chiếc sọt đứng chung quanh tấm vải bạt ấy rõ ràng là không hề chứa đào.

Lúc này nhớ lại, khi chiếc thuyền chuyên dụng của tổ sinh đẻ có kế hoạch mở hết tốc lực vượt qua đám thuyền bè của chúng tôi, không hiểu vì sao tâm trí tôi lại bị kích động một cách khó hiểu. Chiếc thuyền ấy không còn là chiếc thuyền bằng gỗ đen sì của những năm bảy mươi nữa mà nó là một chiếc thuyền cao tốc có màu nhũ bạc. Đầu thuyền là buồng lái lắp kính sáng loáng, người lái chiếc thuyền ấy vẫn cứ là Tần Hà nhưng khác một điểm là mái tóc anh ta đã bạc phơ. Cô tôi và người vợ mới cưới của tôi - “Tiểu sư tử” đang đứng sau buồng lái, tốc độ rất nhanh của chiếc thuyền khiến quần áo hai người bay phần phật về phía sau. Tôi hình dung ra khuôn ngực căng tròn như hai quả bóng da của “Tiểu sư tử” mà cảm thấy tâm trạng mình rối bời. Phía sau họ là bốn người đàn ông ngồi ở hàng ghế hai bên mạn thuyền. Thuyền của tổ sinh đẻ có kế hoạch tung nước trắng xóa vào cả bè của chúng tôi, làm dậy lên những con sóng khiến bè của chúng tôi chao đảo. Khẳng định là “Tiểu sư tử” có nhìn thấy tôi khi thuyền vượt qua chiếc bè nhỏ bé của tôi. Nhưng hầu như cô ấy không hề liếc nhìn, đừng nói là một cái gật đầu chào. Hình như người vợ mới cưới của tôi đã biến thành một người hoàn toàn xa lạ khiến tôi có cảm giác rằng, những gì từng phát sinh trong những ngày gần đây chỉ là mộng ảo. Sự lãnh đạm của “Tiểu sư tử” khiến tình cảm của tôi lại tập trung vào cho kẻ đang chạy trốn - Vương Đảm! Chạy nhanh lên! Vương Cước, chèo mạnh nữa vào!

Chiếc thuyền của tổ sinh đẻ có kế hoạch đã vượt qua đoàn thuyền bè của chúng tôi, hướng thẳng về chiếc bè đơn độc ở phía trước. Nó không nhanh chóng tiếp cận chiếc bè mà gần như giữ khoảng cách rất đều. Tiếng động cơ gần như tắt hẳn. Khoảng cách giữa thuyền và bè lúc này độ ba trăm mét và khoảng cách này từ từ thu hẹp lại. Hình như cô tôi rất thong dong trong chuyến truy bắt này và muốn để cho gia đình họ Vương sợ hãi và tự nguyện cho bè vào bờ. Khi chiếc thuyền đến gần, Vương Cước chống chiếc sào vào mạn thuyền và đẩy thật mạnh. Ý đồ của ông ta là dùng điểm tựa của chiếc thuyền để đẩy chiếc bè của mình bắn ra xa, nhưng không ngờ được rằng chính lực đẩy ấy lại khiến chiếc bè rời khỏi dòng chảy giữa sông.

Một người đàn ông trên thuyền cầm một chiếc sào dài, mũi sào đã gắn sẵn một chiếc móc bằng sắt chọc thẳng vào tấm vải bạt giữa chiếc bè. Tấm vải rách toạc một góc. Chỉ cần mấy lần như vậy, toàn bộ những gì che đậy dưới tấm vải bạt đã hiện ra trước mắt mọi người.

Vương Cước dùng sào chống bè chọt loạn xạ vào người đàn ông đang cầm sào có chiếc móc trên thuyền, gã này cũng vung sào đánh lại. Lúc ấy, Trần Tị và Vương Can, mỗi người cầm một mái chèo ngồi hai bên bè, ra sức khoát nước. Ngồi giữa hai người chính là Vương Đảm, tay phải đang che chắn cho chiếc đầu của Trần Nhĩ đang giấu dưới nách cô ấy, tay trái ôm chiếc bụng tròn vo. Trong tiếng va chạm của hai cây sào vào nhau, trong tiếng sóng táp vào mạn thuyền, tiếng Vương Đảm vang lên, yếu ớt đến độ đáng thương: “Cô ơi! Hãy mở lượng hải hà tha cho cháu một phen...”

Khi chiếc bè vừa nhích ra khỏi chiếc thuyền một quãng, “Tiểu sư tử” liều mạng tung người nhảy xuống bè, nhưng khoảng cách đã quá sức nên chỉ kịp kêu lên một tiếng và rơi tõm xuống sông. Cô ấy không biết bơi nên ngoi ngóp vẫy vùng tuyệt vọng trong dòng nước lũ. Cô tôi quát: Cứu người! Lợi dụng cơ hội ấy, Trần Tị và Vương Can ra sức chèo và một lát sau, chiếc bè đã ra giữa sông.

Phải mất thời gian khá lâu mới lôi được “Tiểu sư tử” lên thuyền. Khi một người đàn ông đưa chiếc sào cho cô ấy nắm lấy và kéo lên đến mạn thuyền thì cô ta chụp lấy chân người ấy và cuối cùng là cả hai lại rơi tõm xuống sông. Lại là một người không biết bơi nữa! Mấy người đàn ông còn lại trên thuyền chỉ còn một cách là nhảy xuống nước để cứu họ. Còn Tần Hà thì thần hồn nát thần tính thế nào mà lại điều khiển chiếc thuyền xoay vòng tròn, chao đảo dữ dội. Cô tôi cáu tiết dậm chân vung tay chửi mắng. Lúc này, đoàn thuyền bè của chúng tôi đã đến nơi nhưng không ai ra tay giúp đỡ. Nhưng với tôi thì dù sao “Tiểu sư tử” cũng là vợ tôi nên tôi ra sức lái chiếc bè đến chỗ cô ấy. Có điều chiếc bè phía sau đã trờ tới và đâm thẳng vào đuôi chiếc bè của tôi khiến nó chao đảo suýt lật chìm. Trước mắt tôi, cái đầu của “Tiểu sư tử” mỗi lúc một chìm. Tôi không còn do dự gì nữa, không còn quan tâm đến bè cũng như đào nữa, tung người nhảy xuống sông, sải tay bơi nhanh về phía vợ tôi.

Trong khi “Tiểu sư tử” tung người định nhảy xuống chiếc bè, trong thâm tâm tôi đã có một chút nghi vấn. Khi mọi chuyện xong xuôi, “Tiểu sư tử” nói với tôi bằng giọng điệu “báo công” rằng, cô ấy đã ngửi thấy một mùi vị, một thứ mùi đặc biệt tanh nhưng cũng đặc biệt thanh khiết chỉ có ở những sản phụ. Đồng thời cô ấy cũng đã thấy máu chảy ra từ hai chân Vương Đảm và cô ấy đã chủ động nhảy xuống sông - Đương nhiên cũng có thể giải thích hành động này theo cách khác - cố tình kéo dài thời gian, lấy sự nguy hiểm tính mạng mình có thể xảy ra để kéo dài thời gian. Cô ấy nói với tôi, trong dòng nước, cô ấy đã lầm rầm khấn nguyện thần linh độ trì cho Vương Đảm: Vương Đảm, hãy tranh thủ thời gian mà đẻ con đi! Đẻ nhanh lên! Chỉ cần đứa bé chui ra khỏi chỗ ấy thì đã là một sinh mệnh, là công dân của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sẽ được pháp luật bảo hộ. Trẻ em là hoa của tổ quốc, là tương lai của đất nước. Đương nhiên, cô ấy nói, những gì mà cô ấy cho là mình đã xử trí một cách thông minh không thể đánh lừa được cô tôi. Vì bình thường, chỉ cần cô ấy vừa cử động cái mông là cô tôi đã biết rắm của cô ấy thối hay không thối!

Khi chúng tôi đưa được “Tiểu sư tử” và tay nhân viên của tổ sinh đẻ có kế hoạch lên thuyền thì chiếc bè của nhà họ Vương đã chạy được khoảng ba cây số. Đúng lúc ấy, máy nổ trên thuyền cũng câm lặng một cách đột ngột. Tần Hà cật lực khởi động lại máy, mồ hôi đầm đìa trên mặt. Sự nóng nảy của cô tôi đã được phát tiết đến cực điểm. Còn “Tiểu sư tử” và tay nhân viên nọ đang nằm bẹp trên thuyền nôn nước từ trong bụng ra ngoài.

Sau khi nhảy chồm chồm cho hả tức, cô tôi đã trở lại với thái độ điềm tĩnh hàng ngày và trên mặt cô có một nét cười thảm hại. Một tia nắng yếu ớt vươn ra khỏi đám mây dày chiếu xuống mặt cô, chiếu xuống mặt nước sông cuồn cuộn đục ngầu khiến tôi liên tưởng rằng, lúc này cô tôi là một anh hùng đang ở bước đường cùng. Cô ngồi trước mũi thuyền, hạ giọng nói với Tần Hà: “Đừng có giả vờ nữa, mọi người cũng đừng có giả vờ nữa!”

Tần Hà thoáng lặng người và ngay sau đó, động cơ đã nổ ầm ầm. Chiếc thuyền như một mũi tên tiếp tục truy đuổi chiếc bè của nhà họ Vương.

Tôi đập đập vào lưng “Tiểu sư tử” vừa lén liếc nhìn cô. Lúc ấy, cô vừa cau mày vừa cười nhẹ. Cô ấy đang nghĩ gì nhỉ? Đột nhiên tôi sự nhớ ra rằng, cô tôi đã bốn mươi bảy tuổi. Thời thanh xuân của cô đã kết thúc lâu lắm rồi và lúc này, cô đang đi một mình đi trên đoạn đường cuối của cuộc đời. Trên mặt cô đã hằn những vết tàn tạ và sự mệt mỏi. Tôi nhớ lại, lúc còn sống không dưới một lần, mẹ tôi đã nói rằng, đàn bà sinh ra để làm gì? Suy cho cùng, đàn bà tồn tại cũng chỉ là để đẻ con. Địa vị của đàn bà được khẳng định ở chỗ đẻ con. Sự tôn nghiêm mà đàn bà có được cũng bắt đầu từ chỗ sinh con đẻ cái. Nỗi đau lớn nhất của người đàn bà là không thể có con. Một người đàn bà mà không có con thì chưa xứng đáng được xem là đàn bà đúng nghĩa. Và tất nhiên, hạnh phúc và vinh quang của đàn bà cũng đặt cả vào con cái. Không có con, đàn bà sẽ trở nên sắt đá. Đàn bà không sinh con thì sẽ già trước tuổi… Những lời của mẹ tôi là nhằm vào cô. Có điều mẹ tôi chưa bao giờ nói với cô những lời này. Sự già nua của cô tôi lúc này liệu có liên quan gì đến việc cô ấy không có con? Cô đã bốn mươi bảy tuổi. Nếu tranh thủ thời gian để kiếm một người chồng, liệu cô còn có khả năng sinh nở nữa không? Nhưng để tìm ra một người có thể làm chồng cô tôi, liệu biết tìm ở đâu?

… Chiếc thuyền của tổ sinh đẻ có kế hoạch rất nhanh chóng đuổi kịp chiếc bè của nhà họ Vương. Khi đến gần chiếc bè, Tần Hà giảm ga và cẩn thận áp sát thuyền vào chiếc bè.

Vương Cước đang đứng ở cuối chiếc bè, lăm lăm chiếc sào trong tay, ánh mắt như có lửa, tư thế sẵn sàng liều mạng với những ai dám động vào chiếc bè của ông ta.

Vương Can ôm chặt Trần Nhĩ ngồi ở đầu chiếc bè.

Trần Tị đang ôm Vương Đảm ngồi ở giữa bè, vừa khóc vừa cười: “Vương Đảm, em đẻ nhanh lên! Đẻ ra đã là một sinh mạng! Đẻ ra được là em và con đều sống, bọn họ sẽ không động đến em nữa! Vạn Tâm! “Tiểu sư tử”! Hai người thất bại rồi! Ha ha!!! Các người thua cuộc rồi!”

Nước mắt chảy dài trên má và thấm vào bộ râu rất rậm của Trần Tị, tiếp tục rơi xuống ngực cậu ta.

Đúng lúc ấy, Vương Đảm thét lên một tiếng khiến mọi người ai nấy đều sởn gai ốc.

Khi chiếc thuyền đã áp sát chiếc bè, cô tôi đứng lên và đưa một tay ra phía trước.

Dưới bè, Trần Tị lôi từ bụng ra một con dao, hét lên như một hung thần: “Hãy thu móng vuốt ma quỷ của bà vào!”

Cô tôi rất bình tĩnh nói: “Không phải là móng vuốt của ma quỷ mà là bàn tay của một bác sĩ phụ sản!”

Sống mũi tôi cay cay và tôi chợt tỉnh ngộ, gào to: “Trần Tị! Mau đón cô xuống bè! Hãy để cô đỡ đẻ cho Vương Đảm!”

Tôi chộp lấy chiếc sào có móc sắt đưa qua, kéo chiếc bè lại. Cô tôi nhúc nhích thân hình đã nặng nề, bước xuống chiếc bè.

“Tiểu sư tử” xách hòm thuốc nhảy một bước thật dài, đứng vững trên bè.

Khi “Tiểu sư tử” dùng kéo cắt chiếc váy thấm đẫm máu của Vương Đảm, tôi quay mặt đi. Nhưng bàn tay tôi vẫn nắm chặt lấy chiếc sào không cho chiếc thuyền và chiếc bè tách rời nhau ra.

Trong đầu óc tôi hình dung cảnh tượng của Vương Đảm lúc ấy: Nằm dài trên bè, phần dưới thân người tắm trong máu, cơ thể bé tí nhưng cái bụng thì cao vổng. Trông cô ta lúc ấy chẳng khác nào một con hải cẩu!

Sông vẫn cuồn cuộn chảy về đông, ngày đêm không ngừng nghỉ. Ở trên cao, mây đen đã cùng nhau kéo đi đâu cả để cho ánh mặt trời chiếu rọi… Đoàn thuyền bè chở đào vẫn nối đuôi nhau xuôi dòng. Chiếc bè của tôi, tuy không có ai lèo lái nhưng vẫn êm đềm trôi giữa quần thể ấy.

Tôi hy vọng. Trong tiếng kêu xé ruột của Vương Đảm, trong tiếng réo của dòng nước lũ, trong tiếng kêu tiếng hí của la và lừa trên bờ, tôi hy vọng…

Từ chiếc bè, tiếng khóc sơ sinh vang lên!

Không kềm lòng được nữa, tôi quay người lại. Tôi nhận ra trên tay cô tôi là một hình hài đỏ hỏn và “Tiểu sư tử” đang dùng một dải băng trắng muốt quấn chung quanh bụng nó.

“Lại là một đứa con gái!” - Đó là tiếng của cô tôi.

Trần Tị cúi đầu ủ rũ, hai nắm đấm vung lên đấm bồm bộp vào ngực: “Trời diệt tôi! Trời hại tôi rồi!…

Họ Trần năm đời độc đinh, không ngờ đến đời tôi thì tuyệt tự!”

Cô tôi chửi: “Mày đúng là đồ súc sinh!”

Cho dù chiếc thuyền của đội sinh đẻ có kế hoạch đã kéo chiếc bè của nhà họ Vương chạy như điên cuồng quay về trạm xá công xã nhưng cuối cùng cũng không cứu được tính mạng của Vương Đảm.

Theo lời “Tiểu sư tử” nói thì trước khi chết, Vương Đảm bỗng tỉnh táo lạ thường. Máu trong người cô ấy không còn nữa, toàn thân trở nên trắng bệch. Vương Đảm nhìn cô tôi mỉm cười, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó. Cô tôi cúi xuống thật thấp để nghe Vương Đảm thầm thì. “Tiểu sư tử” nói, cô ấy không thể nghe được những gì mà Vương Đảm đã nói với cô tôi, nhưng chắc chắn là cô tôi đã nghe thấy rất rõ. Sau đó thì mặt Vương Đảm từ trắng chuyển sang tím tái, đôi mắt vẫn mở trừng trừng nhưng rõ ràng là không còn thấy được gì nữa. Cô tôi ngồi cúi đầu lặng lẽ bên thi hài Vương Đảm. Lâu lắm, cô mới đứng lên, trút một hơi thở vô cùng nặng nhọc và buồn thảm, hỏi “Tiểu sư tử” mà như tự hỏi chính mình: “Sao mọi chuyện lại như thế này?”

Trần Mi, con gái sinh không đủ ngày đủ tháng của Vương Đảm được sự chăm sóc vô cùng chu đáo của cô tôi và “Tiểu sư tử” đã vượt qua cơn nguy hiểm và đã sống.