← Quay lại trang sách

- 8 -

Thưa tiên sinh,

Mấy ngày trước đây tôi có cãi nhau với “Tiểu sư tử” một trận nên tâm tình cảm thấy rất nặng nề. Vả lại trong lúc quá kích động, không hiểu sao lỗ mũi tôi bị rách toạc, máu thấm xuống giấy viết. Bữa nay, đầu tôi hơi đau, tuy vậy cũng không ảnh hưởng lắm đến chuyện viết thư cho ngài. Viết kịch bản cần phải chọn những ngôn từ ngắn gọn nhưng súc tích, nhưng viết thư thì không đến nỗi phải quá chú ý đến ngôn từ. Chỉ cần biết vài trăm chữ là đã có thể muốn viết ra những gì đang suy nghĩ trong đầu. Vợ trước của tôi - Vương Nhân Mỹ khi viết thư cho tôi, gặp nhiều chữ cô ấy không biết viết thì dùng hình vẽ để thay thế. Chính vì điều này mà rất nhiều lần, cô ấy có vẻ tiếc nuối nói: “Tiểu Bão à, văn hóa của em thấp, chỉ biết vẽ mà thôi”. Tôi nói: “Trình độ văn hóa của em rất cao, những nét vẽ của em có thể biểu đạt được tâm tình. Thực ra em đang sáng tạo nên những chữ mới đấy!”. Cô ấy nói: “Em sẽ sáng tạo con cái cho anh, Tiểu Bão, chúng ta hợp tác để tạo ra con nhé...”

Thưa tiên sinh,

Nghe xong những lời kể của cậu thanh niên chống bè ấy, tôi đã có một phán đoán khiến đầu óc tôi cảm thấy vô cùng kinh sợ: “Tiểu sư tử” - bà vợ muốn có con đến phát điên phát cuồng của tôi đã lấy nòng nọc của tôi để bơm vào một cô gái nào đó đã bị lửa tàn phá dung nhan và thân thể. Trong đầu óc tôi là hình ảnh muôn ngàn con nòng nọc vây quanh một cái trứng và tôi liên tưởng đến một cảnh tượng đã chứng kiến thuở bé khi đang dạo chơi thơ thẩn bên bờ ao cuối thôn: Hàng nghìn hàng vạn con nòng nọc vây quanh một mẩu bánh bao nổi trên mặt nước. Mà người con gái mang thai cho tôi đâu có ai xa lạ: Đó chính là con bé Trần Mi, con gái của Trần Tị, bạn học của tôi ngày trước! Trong tử cung của nó đang mang thai đứa con của tôi.

Tôi vội vàng chạy đến trại nuôi ếch. Trên đường hình như có rất nhiều người gật đầu chào nhưng tôi không kịp gật đầu chào lại và cũng không hề nhận ra họ là những ai. Lách qua chiếc cổng điện mới hé mở, ánh mắt tôi lại bắt gặp bức phù điêu con ếch to tướng và đáng sợ. Tôi thấy run và cảm thấy ánh mắt con ếch đang nhìn tôi không mấy cảm tình. Trên một khoảng đất trống trước mấy căn biệt thự sơn màu trắng có sáu cô gái mặc quần áo rực rỡ sắc màu, tay cầm vòng hoa đang nhảy múa. Một gã đàn ông ngồi trên ghế ôm một chiếc phong cầm trước ngực say sưa với những nốt phím đàn. Hình như họ đang luyện tập một tiết mục múa. Thời thái bình, gió thuận mưa hòa, nơi nơi ca hát, không có bất cứ chuyện gì phát sinh cả và có lẽ, tôi bị ảo giác chăng? Tôi cần phải tìm một chỗ thật yên tĩnh, ngồi xuống và nghĩ đến vở kịch đang hình thành trong đầu mình thì tốt hơn.

Bố tôi đã từng dạy rằng, “vô sự thì gan nhỏ như gan chuột, có chuyện thì chí khí như hổ”, “là phúc chứ không phải là họa, đã là họa thì khó lòng trốn tránh”. Lời của người già thường vận dụng nhiều châm ngôn. Nhớ lại lời bố, tôi cảm thấy bụng mình đang đói. Tôi đã năm mươi lăm tuổi nhưng bố vẫn còn cho nên không được tự nhận là già. Nhưng tôi biết mình đã bước vào giai đoạn xế chiều, cũng giống như mặt trời càng nghiêng về phía tây thì bước đi của nó càng nhanh hơn. Một người đã bước vào tuổi xế chiều, một người đã về hưu trước tuổi để dưỡng lão thì còn có chuyện gì để mà phải sợ hãi nữa? Nghĩ đến đó, tôi mới thấy đói.

Tôi bước vào nhà hàng nhỏ có tên Don Quijote bên phải quảng trường miếu Nương Nương. Đây là nơi mà sau khi “Tiểu sư tử” vào làm việc trong trại nuôi ếch, tôi vẫn thường đến đây ăn. Tôi ngồi xuống một cái bàn đặt bên cửa sổ. Quán rất vắng, nhìn quanh cũng chỉ có một mình tôi. Một người phục vụ mập lùn bước đến. Thưa tiên sinh, mỗi lần ngồi một bên bàn và nhìn chiếc ghế trống trước mặt, tôi vẫn thường mơ tưởng rằng có một ngày nào đó, ngài ngồi trước mặt tôi và chúng ta cùng thảo luận về kịch bản vô cùng khó đẻ của tôi - Gương mặt của cậu phục vụ vẫn bình thường, vẫn sáng loáng và kính cẩn nhưng tôi nhận ra một điều gì đó kỳ lạ đằng sau nụ cười của cậu ta. Cũng có thể đây là những biểu hiện chung của những người làm công việc bồi bàn. Nó có vẻ không thật, thậm chí có vẻ gian xảo, vừa có vẻ trêu chọc người khác, vừa có vẻ bị người khác trêu chọc, không biết là đáng yêu hay đáng ghét. Chiếc bàn được đóng bằng loại gỗ của cây đoạn, rất dày, không sơn phết gì. Trên mặt bàn, những vân gỗ nổi lên rất rõ, có một vài vết nám do tàn thuốc dụi vào. Tôi vẫn thường ngồi viết tại chiếc bàn này. Sau này tôi mà thành công thì nó lại trở thành một di vật văn hóa. Ai ngồi tại đây để uống rượu phải nộp thêm tiền cho chủ quán. Nếu có ngài cùng ngồi đây với tôi thì nó còn nổi tiếng thêm nữa! Xin lỗi ngài, chắc ngài cũng hiểu là nhà văn thường dùng những ảo tưởng xa vời đại loại như vậy để tự động viên mình trong quá trình viết lách.

Thưa tiên sinh,

Cậu phục vụ có tên là Ngụy Tang Khâu chỉ biểu thị vẻ cúi người nhưng thực chất lưng của cậu ta không hề cúi chút nào. Cậu ta chỉ nói: “Chào ngài, rất hoan nghênh sự hạ cố của ngài, kẻ phục vụ trung thành này xin được tận tâm phục vụ!” - Vừa nói, cậu ta vừa đưa một tập thực đơn đến, mười mấy tờ được viết bằng mười mấy thứ văn tự khác nhau cho tôi.

“Cám ơn”. Tôi nói - “Vẫn là những món ăn cũ: Một đĩa rau xào, một bát thịt bò hầm và một cốc bia đen Đức!”

Cậu ta nhúc nhích cái mông nặng nề bỏ đi. Tôi ngồi đợi thức ăn, lơ đãng nhìn cách trang trí trong quán. Rất nhiều áo giáp và những mũi thương được treo trên tường cũng như những đôi găng tay cũ nát của các kỵ sĩ giác đấu. Ngoài ra còn có những huân chương, những giấy chứng nhận thành tích thi đấu và một chiếc đầu hươu với hai cái sừng láng bóng cùng với mấy tấm ảnh ố vàng. Rõ ràng, đây là một cách trang trí rất thời thượng, ngụy tạo lại một thời kỳ cổ điển ở phương tây nhưng nhìn cũng khá bắt mắt. Ngay bên cạnh cửa ra vào có một bức tượng phụ nữ khỏa thân bằng đồng, kích thước vừa khít với một người bình thường, đôi vú bị người ta sờ đến láng bóng - Thưa tiên sinh, tôi đã từng chứng kiến, bất kỳ đàn ông hay đàn bà, khi bước vào cái quán này đều đưa tay sờ sẫm đôi vú của bức tượng ấy - Ngoài quảng trường miếu Nương Nương, những âm thanh hỗn tạp vẫn tiếp tục vang lên, trong đó tiếng rao của Vương Can ngày càng trở nên điệu nghệ hơn. Gần đây, người ta lại sáng tạo nên một tiết mục mới có tên là “Kỳ lân đẻ con”, tuyên truyền là khôi phục một tiết mục truyền thống nhưng thực chất chỉ là xuất phát từ trí tưởng tượng của một vài ông làm công tác văn hóa ở thành phố - Tuy khó lòng phân định nó là loại hình nghệ thuật gì, cũng không phân biệt đó là sản phẩm văn hóa Trung Quốc hay phương tây nhưng lại giải quyết được công ăn việc làm cho mấy chục người đã là một điều đáng biểu dương. Vả lại, thưa tiên sinh, như ngài đã nói, truyền thống về thực chất mà nói cũng chỉ là một loại hình tiền nghệ thuật mà thôi. Tôi đã xem rất nhiều những tiết mục tương tự như thế này trên ti vi. Về cơ bản, chúng là một đống bùi nhùi giữa truyền thống - hiện đại - du lịch - văn hóa, vui đáo để và cũng lạ lùng đáo để. Cũng như ngài từng lo lắng, ở một vùng nào đó thì bom đạn ngất trời, thây người không kịp chôn vất ngoài đồng ruộng; một nơi nào đó thì ca múa tối ngày, rượu xanh đèn đỏ... Đây chính là thế giới mà chúng ta đang sống. Nếu quả có một bậc vĩ nhân chân chính, thân hình của vĩ nhân ấy tỉ lệ với trái đất này giống như tỉ lệ giữa chúng ta với trái bóng đá, vĩ nhân ấy ngồi tại đây nhưng lại có thể nhìn thấy trái đất đang quay chung quanh mình, một lát thì hòa bình, một lát thì chiến tranh..., không biết là vĩ nhân ấy sẽ nghĩ gì - Xin lỗi tiên sinh, tôi lại đi quá xa vấn đề rồi.

Cậu phục vụ bàn mang tới cho tôi một cốc nước mát, một đĩa bánh mì, mấy lát pho mát vàng vàng và một vài thứ linh tinh khác. Bánh mì ở đây nướng rất ngon. Những ai đã từng ăn bánh mỳ tây đều thừa nhận là bánh mỳ ở đây chẳng hề thua kém. Ăn bánh mì kẹp với pho mát đã là một món cao lương mỹ vị, huống hồ đây chỉ là những món khai vị, đằng sau là bao nhiêu món khác - Thưa tiên sinh, ngài nhất định phải đến đây để thử ăn một lần. Tôi đảm bảo là ngài sẽ thích tất cả những món ăn ở đây. Hơn nữa, nhà hàng này còn có một truyền thống - thực ra nói “truyền thống” không chính xác bằng “quy định” - là, mỗi đêm, khi công việc phục vụ ăn uống sắp sửa kết thúc, người ta sẽ mang những loại bánh mì, ngắn có dài có, trắng có vàng có... tất cả đều bỏ vào một sọt liễu đặt trên chiếc bàn ngoài cửa để thực khách tùy tiện muốn lấy bao nhiêu thì lấy về. Tuy không có dòng chữ nào quy định mỗi thực khách chỉ lấy một chiếc, nhưng theo quan sát của tôi thì hầu như mỗi người chỉ tự giác lấy một chiếc. Có người thì kẹp dưới nách, có người ôm trước ngực, có người cầm ở tay..., đủ các dạng bánh mì, nhưng chúng có điểm chung là tỏa ra mùi thơm của lúa mạch, của hạnh nhân, của men... Ôm trong tay một chiếc bánh mì nóng hổi và thả những bước chân thong dong trong quảng trường miếu Nương Nương, thưa tiên sinh, tôi bồi hồi cảm động. Đương nhiên, tôi cũng biết đó là một sự cảm động có phần ti tiện. Bởi tôi cũng biết, trong thế gian này còn có rất nhiều, rất nhiều người ăn không đủ no, mặc không đủ ấm và cũng biết là đang có bao nhiêu người đang giãy giụa giữa cái sống và cái chết...

Món rau xào mà tôi đã gọi có rau xanh, có quả hồng, có quả cự... mùi vị vô cùng hấp dẫn. Ngài biết ai đã nghĩ ra cách chế biến món rau kết hợp đông tây thế này không? Là bạn học thuở tiểu học với tôi, là con trai của cô giáo lớp một của tôi - Lý Thủ. Như trong những lá thư trước tôi đã giới thiệu với ngài, Lý Thủ là đứa tài hoa nhất trong số chúng tôi ngày ấy. Đáng ra cậu ta phải là một nhà văn nhưng thời thế lại xui khiến người làm công việc cao thượng ấy lại là tôi. Lý Thủ đã học xong y khoa, tiền đồ vô cùng xán lạn nhưng không hiểu sao lại từ chức về quê, mở cái quán ăn không ra tây không ra ta này, nói cách khác là kết hợp Âu - Á. Tại cái xứ sở hỗn tạp này, Lý Thủ lại mở cái quán ăn kỳ lạ, ngay cả cái tên Don Quijote cũng đã thấy lạ. Thân hình Lý Thủ đã bắt đầu phát phì. Cậu ta vốn thấp lùn, bây giờ phát phì nên trông càng ngắn hơn. Cậu ta thường ngồi trong một góc quán, đối diện với chỗ ngồi của tôi nhưng hầu như chưa bao giờ chúng tôi chào hỏi nhau. Tôi thì gần như nằm trên bàn vật vã với những con chữ để viết ra những trang hồi ức. Còn cậu ta thì ngả người ra sau ghế tựa, hai tay ôm lấy cằm, tư thế ấy trông có vẻ cổ quái nhưng cũng khá nhàn tản để có thể nhìn thời gian chầm chậm trôi đi.

Cậu phục vụ đã mang thịt bò hầm và bia đen Đức đến, như vậy là các món ăn của tôi đã đủ. Tôi uống một ngụm bia, gắp một miếng thịt, chầm chậm nhai để thưởng thức mùi vị của nó, mắt nhìn qua lớp kính dày để theo dõi tiết mục thần thoại mới đang diễn ra ngoài quảng trường miếu Nương Nương. Đội trống đội nhạc đi đầu, đội cờ đội phướng tiếp theo sau, xiêm y rực rỡ, âm nhạc rộn ràng. Người con gái ngồi trên chiếc kiệu hình kỳ lân mặt đẹp như ngọc, mắt sáng tựa sao, ôm một đứa trẻ con trong lòng - Mỗi lần trông thấy Nương nương sinh đẻ, một cách không tự giác, tôi lại liên tưởng đến cô tôi. Và lúc này, hình ảnh cô tôi với thân hình phì nộn nhét trong chiếc váy đen chật cứng, đầu rối như tổ quạ, giọng cười khùng khục, đôi mắt mờ đục, nói năng bạt mạng lại xuất hiện khiến những hình ảnh đẹp đẽ của ảo giác vụt biến mất trong đầu tôi.

Chiếc kiệu đưa Nương nương sinh đẻ đi một vòng quảng trường và tiến về phía trung ương, lập thành đội ngũ chỉnh tề. Tiếng trống tiếng nhạc dừng, một quan viên đầu đội mũ cao ngất, mình mặc áo bào màu đỏ tía, tay cầm phất trần - cách ăn mặc khiến người ta nghĩ đến những thái giám thời xưa, tay cầm một cuốn lụa màu vàng trông như thánh chỉ, cao giọng hô: Hoàng thiên hậu thổ đã sinh ra ngũ cốc; mặt trời mặt trăng cùng các vì tinh tú nuôi dưỡng muôn dân. Phụng mệnh Ngọc Hoàng thượng đế, Nương nương điện hạ đã giáng lâm xuống vùng Đông Bắc Cao Mật, nay tuyên bố đôi thiện nam tín nữ phu phụ Vương Lang đến nhận con - Đôi diễn viên đóng vai vợ chồng Vương Lang chưa kịp tới nhận con thì không biết một người đàn bà nào đó trong đám đông nhảy lên và cướp con của họ - một con búp bê - và bỏ chạy.

Thưa tiên sinh,

Cho dù tôi có viện muôn ngàn lý do để an ủi mình nhưng cuối cùng tôi cũng chỉ là một gã đàn ông gan nhỏ như gan chuột, chỉ biết suy tư lo lắng. Khi tôi biết được cô gái trẻ có tên Trần Mi đang mang trong tử cung đứa con của tôi, cảm giác mình đã phạm một trọng tội xâm chiếm toàn bộ ý thức tôi. Bởi Trần Mi là con gái của bạn tôi, bởi nó là đứa con mà cô tôi và “Tiểu sư tử” đã từng nuôi nấng. Trong những ngày ấy, tôi đã từng ôm nó và nhét đầu vú nhựa vào miệng cho nó bú. Nó vẫn còn nhỏ hơn con gái tôi. Rồi sẽ có một ngày, những người bạn thời niên thiếu như Trần Tị, Vương Can, Lý Thủ biết được chân tướng của chuyện này thì dù tôi có trét cứt chó đầy mặt cũng chẳng còn mặt mũi nào nhìn họ nữa.

Tôi nhớ lại hai lần gặp Trần Tị sau khi về hưu trở lại quê hương.

Lần thứ nhất là vào một buổi chiều tối cuối năm vừa qua, tuyết rơi bời bời, khi ấy “Tiểu sư tử” vẫn chưa đến làm việc ở trại nuôi ếch. Chúng tôi đang đi bộ ngắm tuyết bay dưới những ngọn đèn vàng rực trong quảng trường. Tiếng pháo đã nổ đì đùng đâu đó, không khí tết đã đến trên khắp các ngả đường. Con gái tôi đang ở Tây Ban Nha gọi điện thoại về, nói rằng đang đi dạo với chồng nó trên quê hương của Cervantes. Tôi và “Tiểu sư tử” dắt tay nhau đi vào nhà hàng Don Quijote, vừa báo cho con gái biết là chúng tôi cũng đang dắt nhau đi dạo trên quê hương mình và đang bước vào cổng một nhà hàng có tên trùng với một nhân vật nổi tiếng trong tác phẩm của Cervantes là Don Quijote( ). Sự trùng hợp ngẫu nhiên khiến nó cười vang trong điện thoại một cách thích thú.

“Trái đất này quá nhỏ bố nhỉ?” - Con gái tôi nói.

Nhưng thưa tiên sinh, văn hóa thì quá rộng lớn.

Lúc ấy, tuy chúng tôi chưa biết ông chủ của nhà hàng này là Lý Thủ. Nhưng tôi vẫn cảm nhận rằng đó là một con người không hề tầm thường. Vừa mới bước chân vào trong, chúng tôi đã rất thích cách bài trí trong nhà hàng. Trong số những điều tôi thích nhất là những chiếc bàn không hề được sơn quét gì. Nếu những mặt bàn được phủ một tấm khăn bàn trắng tinh thì nó sẽ mang dáng dấp châu Âu, nhưng sau đó tôi rất đồng tình với cách giải thích của Lý Thủ. Cậu ta nói, thời đại Don Quijote sống tại Tây Ban Nha, những nhà hàng ở nông thôn chưa có phong cách dùng khăn trải bàn. Rồi bằng một giọng có vẻ bông đùa, cậu ta nói rằng, nó cũng giống như phụ nữ Âu Châu thời đại ấy không dùng mạng che mặt vậy.

Thưa tiên sinh,

Tôi không giấu gì ngài khi thừa nhận rằng, bước vào nhà hàng ấy, ngay lập tức tôi đã bị bức tượng người con gái có đôi vú bị người ta sờ nắn đến độ láng bóng ấy hấp dẫn và… tôi cũng đưa tay sờ lên đôi vú ấy một cách vô thức. Hành động này chứng minh một cách rõ ràng, tôi chẳng phải là gã đàn ông trong sạch gì nhưng cũng có thể nói, đó là một bản năng. “Tiểu sư tử” hạ giọng chửi tôi là tên vô lại. Tôi nói: “Tại sao là vô lại, đây là nghệ thuật.” - “Tiểu sư tử” nghiêm giọng nói: “Rất nhiều những kẻ lưu manh văn hóa cũng nói giống như anh.” - Cậu phục vụ bàn, sau này tôi mới biết tên cậu ta là Ngụy Tang Khâu bước đến với một nụ cười, thái độ thì có vẻ rất cúc cung tận tụy với chức trách nhưng không hề cúi người xuống, nói: Hoan nghênh nhị vị đã đến, thưa tiên sinh và phu nhân!

Cậu ta tiếp lấy áo khoác, khăn quàng cổ, mũ len của tôi và “Tiểu sư tử” rồi đưa chúng tôi đến một chiếc bàn nằm ở vị trí trung tâm của nhà hàng. Trên bàn có một chiếc chậu thủy tinh chứa nước, chính giữa có một ngọn nến trắng đang cháy leo lét. Chúng tôi không thích vị trí này nên chọn một chiếc bàn gần cửa sổ vì chỗ này có thể quan sát được cảnh tuyết rơi dưới ánh đèn bên ngoài qua khung cửa kính, đồng thời cũng có thể quan sát được toàn bộ nhà hàng. Chúng tôi thấy, bên một chiếc bàn đặt trong góc nhà hàng - cũng là chỗ mà sau này tôi thường ngồi - có một người đàn ông và chung quanh anh ta, khói thuốc lá đang tuôn ra mù mịt.

Từ việc nhận ra trên bàn tay người đàn ông nọ mất một ngón út và cái lỗ mũi đỏ rực, tôi đã nhận ra anh ta là ai. Trần Tị, một thanh niên khá anh tuấn ngày nào lúc này đã hoàn toàn hói, chỉ còn mấy cọng tóc lơ thơ phía sau khiến tôi liên tưởng đến mái tóc của Cervantes. Mặt Trần Tị gầy nhom, hai gò má hõm xuống và hình như đã rụng hết răng hàm thì phải, chính vì vậy mà lỗ mũi càng được nhấn mạnh hơn. Cậu ta đang dùng ba ngón tay vò cái đầu thuốc lá bẹp dúm lại rồi đưa lên miệng cắn lấy, mặc dù đốm lửa ở đầu điếu thuốc đã cháy đến tận đầu đót màu vàng vàng, hai cuộn khói phun ra từ hai lỗ mũi. Ánh mắt Trần Tị có vẻ dài dại và tôi nghĩ, những người lãng đãng hồn phách đều có ánh mắt như vậy. Tôi không dám nhìn Trần Tị nhưng lại không thể ngăn cản được những cái nhìn gần như vô thức của mình. Tôi chợt nhớ đến bức ảnh Cervantes mà tôi đã từng trông thấy ở Đại học Bắc Kinh và nhận ra nguyên nhân khiến Trần Tị ngồi đây. Bộ quần áo trên người cậu ta lúc này trông rất cổ quái, nửa dài nửa ngắn, nửa tây nửa ta, trên cổ lại đính thêm một vòng hạt cườm. Tiếp theo, tôi còn trông thấy bên hông Trần Tị còn có một thanh kiếm trang sức và ngay sau đó tôi nhìn thấy trên tường cũng có một thanh kiếm tương tự. Tiếp theo nữa, tôi thấy anh ta đeo một đôi găng tay sắt và tất nhiên trên tường cũng có một đôi găng tay bằng sắt. Tôi nghĩ, chắc là anh ta phải có một chiếc thuẫn và sau đó lại phát hiện thêm không những anh ta có thuẫn mà còn có một thanh trường mâu. Tôi nghĩ tiếp, chắc là dưới chân anh ta phải có một con chó vừa bẩn vừa gầy và ngay lập tức, tôi nhận ra dưới chân anh ta đã có một con chó rất bẩn nhưng không gầy. Nghe nói, bàn tay phải của Cesvantes cũng mất một ngón, có điều Cesvantes nhất định không thể mang mâu và thuẫn đi theo bên mình mà chỉ có nhân vật của ông ta - Don Quijote là có thể mang theo, có điều diện mạo của Trần Tị lúc này giống Cesvantes hơn là Don Quijote. Nhưng dù sao tất cả bọn tôi chưa ai được thấy một Cesvantes chân chính, cũng chưa ai được nhìn thấy một Don Quijote vốn không tồn tại thực tế. Thế thì Trần Tị đang hóa trang thành Cesvantes hay là Don Quijote, tùy ý ngài phán đoán vậy. Tôi cảm thấy thương xót cho hoàn cảnh hiện tại của người bạn thuở thiếu thời này. Trước đây, tôi đã từng nghe nói tai họa thương tâm đã giáng xuống đầu hai đứa con gái xinh đẹp của cậu ấy. Trần Nhĩ và Trần Mi từng là hai đứa con gái đẹp nhất vùng Đông Bắc Cao Mật. Tuy lai lịch của Trần Tị có phần mờ ám nhưng một sự thật hiển nhiên là trong máu của cậu ta có một phần máu ngoại tộc nên gương mặt của hai chị em Trần Nhĩ và Trần Mi đều không phù hợp với bất kỳ những từ ngữ mà trong văn chương cổ điển, các nhà thơ nhà văn đã tưởng tượng ra để miêu tả sắc đẹp của phụ nữ Trung Quốc. Hai đứa nó là lạc đà giữa bầy cừu, là tiên hạc giữa bầy gà. Nếu hai chị em nó được sinh ra trong gia đình quý tộc hoặc ở một mảnh đất giàu có nào đó, nhất định chúng sẽ một bước lên trời, một giọng oanh vàng cất lên đã làm chấn động muôn triệu trái tim. Sau đó, hai chị em Trần Nhĩ và Trần Mi đã dắt nhau đi về phương nam, tha phương cầu thực có lẽ cũng là một cách để chúng tìm kiếm cơ hội ấy. Rồi tôi nghe nói hai đứa đã vào làm công trong xưởng chế tạo đồ chơi Đông Lệ Mao. Chủ xưởng là một người ngoại quốc. Có điều hắn ta có phải là người ngoại quốc không thì không ai dám khẳng định. Sắc đẹp và sự thông minh của hai chị em Trần Nhĩ và Trần Mi trong hoàn cảnh đảo điên này, muốn kiếm tiền, muốn hưởng thụ cũng chẳng phải là khó lắm, chỉ cần ban phát cho chúng sinh một chút sắc đẹp trời cho là đủ sống sung sướng rồi. Nhưng hai đứa nó vẫn bán sức lao động ở những gian nhà xưởng, chấp nhận chế độ lao động hà khắc bóc lột đến tận xương tủy và cuối cùng, trong trận hỏa hoạn làm kinh động toàn quốc ấy, một đứa biến thành tro tàn, đứa còn lại bị hủy hoại toàn bộ dung nhan. Đứa em gái may mắn còn sống sót là nhờ con chị dùng thân mình che lửa cho em. Đau quá! Thảm quá! Thương quá! Điều này chứng minh, cả hai chị em Trần Nhĩ và Trần Mi vẫn là hai đứa trẻ băng thanh ngọc khiết, chưa bị mùi vị của cuộc sống kim tiền làm cho sa ngã. - Xin lỗi tiên sinh, tôi lại quá xúc động mất rồi…

Đúng là suốt một đời Trần Tị chỉ tiếp xúc với những điều bi thảm nhất của cuộc đời. Tôi nghĩ, cậu ấy ngồi trong nhà hàng Don Quijote, hóa trang thành một danh nhân đã khuất (hoặc cũng có thể là một quái nhân được hư cấu), hoàn cảnh của cậu ấy không có gì khác biệt so với những người lùn đứng trước cửa nhà hát vũ kịch “Thiên Đường” rất nổi tiếng ở Bắc Kinh cũng như những người khổng lồ đứng trước cửa Trung tâm tắm hơi “Thủy Liêm Động” ở Quảng Châu là mấy. Họ đều là những người bán thân cả thôi! Người lùn bán cái thân hình lùn tịt của mình, người khổng lồ bán cái thân hình cao lớn của mình còn Trần Tị thì bán cái lỗ mũi to dị thường của cậu ấy. Họ đều có số phận bi thảm giống nhau.

Thưa tiên sinh,

Đêm ấy, tôi vừa nhìn đã nhận ra Trần Tị tuy hơn hai mươi năm không gặp mặt nhau. Nhưng nói công bằng hơn, cho dù có trăm năm không gặp nhau, cho dù ở nơi tha phương dị quốc, tôi cũng thừa sức nhận ra cậu ấy. Đương nhiên, tôi nghĩ, khi chúng tôi nhận ra cậu ấy, cậu ấy cũng nhận ra chúng tôi. Bạn bè một thuở với nhau, chẳng cần nhìn vào ánh mắt, chỉ cần dựa vào tai qua tiếng thở, tiếng hắt xì… đều có thể nhận ra nhau mà không sợ bị nhầm.

Có nên đến gặp mặt Trần Tị không? Hay là tìm cách nào đó để mời được cậu ấy đến cùng ăn cơm với chúng tôi… Cả tôi và “Tiểu sư tử” đều do dự. Từ cái nhìn có vẻ lãnh đạm đối với chung quanh, từ ánh mắt nhìn chăm chú vào cái đầu hươu treo trên tường, tôi cũng nhận ra rằng, Trần Tị đang do dự: Nên hay không nên gặp gỡ chúng tôi. Hình ảnh cậu ấy ôm Trần Nhĩ đến nhà tôi để nhận Trần Mi trong đêm trừ tịch năm ấy lại hiện về trong trí óc tôi. Lúc ấy, Trần Tị vẫn còn khôi ngô tráng kiện lắm, mặc chiếc áo khoác bằng da, cầm chiếc cối giã tỏi lên định ném vào nồi sủi cảo nhà tôi, thái độ hung hãn chẳng khác nào một con gấu bị dồn đến bước đường cùng. Từ đó về sau, chúng tôi không gặp lại cậu ấy nữa. Tôi nghĩ, trong khi tôi đang hồi tưởng quá khứ thì Trần Tị cũng hồi tưởng quá khứ. Khi chúng tôi xúc động bồi hồi thì Trần Tị cũng xúc động bồi hồi. Thực ra thì chúng tôi chưa bao giờ hận Trần Tị. Thậm chí chúng tôi còn vô cùng đồng cảm với những bất hạnh của cậu ấy. Sở dĩ chúng tôi chưa đến trước mặt cậu ta để nhận người quen, nguyên nhân chủ yếu là chúng tôi chưa tìm ra một tư cách thích hợp nào. Bởi vì, không nghi ngờ gì nữa, nói theo cách quen thuộc của chúng tôi thì, chúng tôi có cuộc sống tương đối đường hoàng, thậm chí là tốt. Một người có cuộc sống tương đối tốt như chúng tôi phải ứng xử như thế nào trước một người bạn cũ có quá nhiều bất hạnh? Quả là một vấn đề nan giải vô cùng.

Thưa tiên sinh,

Tôi có một thói quen rất xấu là hút thuốc quá nhiều. Thói quen này ở các nước châu Âu, châu Mỹ và ngay ở nước Nhật Bản của ngài đã được giảm thiểu khiến cho những người nghiện thuốc lá mỗi khi hút đều có một cảm giác, mình là kẻ thiếu văn hóa, thiếu giáo dục, thậm chí là một kẻ thô tục. Nhưng ở địa phương chúng tôi, trước mắt vẫn chưa có bất kỳ một chủ trương hạn chế hoặc cấm thuốc lá nào. Tôi lôi gói thuốc ra, rút lấy một điếu, đánh lửa. Tôi rất thích ngửi mùi diêm sinh khi đã cháy xong. Thưa tiên sinh, ngày ấy tôi dùng gói thuốc lá nhãn hiệu Kim Các, là một trong những loại thuốc lá đắt tiền nhất quê tôi cũng như trên toàn quốc lúc ấy, nghe đâu là mỗi gói có giá đến gần hai trăm đồng. Có nghĩa là, mỗi điếu đáng giá mười đồng. Mỗi cân lúa mạch người nông dân bán ra chỉ có tám hào, có nghĩa là mười hai cân lúa mạch mới đổi được một điếu thuốc lá Kim Các. Mười hai cân lúa mạch có thể chế biến thành mười lăm cân bánh mì, có thể đủ no cho một người bình thường trong mười ngày. Nhưng một điếu thuốc Kim Các chỉ phì phèo nhả khói trong một phút là xong. Vỏ bao thuốc lá này có màu vàng rực khiến tôi liên tưởng đến chùa Kim Các của quý quốc ở Tokyo. Không biết là khi làm cái vỏ thuốc lá này, người thiết kế có liên tưởng như tôi hay không? Tôi biết, bố tôi vẫn rất ghét khi thấy tôi hút loại thuốc này, nhưng ông chỉ buồn buồn nói ngắn gọn: Oan nghiệt! Oan nghiệt quá! Tôi đã từng giải thích với bố rằng, tôi không hề bỏ tiền ra để mua loại thuốc lá này, là do người khác biếu. Bố tôi càng buồn hơn, nói: Càng oan nghiệt hơn! Lúc ấy, tôi cảm thấy hối hận vì từng nói với ông về giá cả của loại thuốc này. Nhưng điều này cũng cho thấy, tôi cũng chỉ là một thằng người đua đòi hư vinh thô thiển. Về bản chất, tôi cũng chẳng khác những kẽ hãnh tiến bao gái, hám danh, hám tiền, hám thời thượng ngày nay là mấy. Nhưng…, một loại thuốc quý như vậy, tôi không thể vì một lời phê bình hoặc một lời than của bố mà vất đi. Nếu tôi vất nó thì hóa ra tôi lại tạo ra nghiệp chướng của nghiệp chướng hay sao? Trong loại thuốc này người ta có thêm một thứ hương vị đặc biệt, khi đốt lên nó có một thứ mùi mà người ta cảm thấy mê ly…

Thưa tiên sinh,

Tôi trông thấy rõ ràng thân hình Trần Tị hình như không giữ được trạng thái ổn định nữa, liên tục hắt xì hơi. Ánh mắt cậu ấy đã rời khỏi chiếc đầu hươu, ban đầu còn do dự, xấu hổ, dao động…, sau đó là thèm thuồng, khát khao, thậm chí có phần hung dữ… Rất nhiều trạng thái tinh thần cùng hỗn tạp trong cái nhìn chiếu thẳng về phía tôi.

Thưa tiên sinh,

Cuối cùng Trần Tị cũng đã đứng dậy, xách lấy cây kiếm, nhìn kỹ giống một chiếc gậy hơn, quay người một vòng rồi bước đến. Đèn trong nhà hàng không sáng lắm nhưng cũng đủ để tôi nhìn rõ gương mặt cậu ấy. Mắt mũi miệng… và những thớ thịt trên mặt Trần Tị kết hợp hình thành nên một dung mạo khó lòng dùng ngôn ngữ để miêu tả một cách chính xác là trạng thái tính cảm nào. Ánh mắt cậu ấy đang nhìn vào mặt tôi hay là nhìn vào điếu thuốc trên miệng tôi? Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi này. Tôi hoang mang đứng dậy, chiếc ghế sau lưng tôi dao động rồi ngã kềnh ra. “Tiểu sư tử” cũng đứng dậy.

Trần Tị đứng trước hai chúng tôi. Tôi ngại ngùng đưa tay ra, cố tình làm ra vẻ như vừa phát hiện người thân: “Trần Tị?” - Nhưng cậu ta không trả lời câu hỏi của tôi, cũng không bắt tay tôi, giữ một cự ly lễ độ vừa phải, cúi người chào tôi. Sau đó, hai tay cậu ta chống vào cây kiếm, dùng giọng điệu của một diễn viên kịch nói, nói: “Thưa phu nhân tôn quý, thưa tiên sinh tôn quý! Tôi là Don Quijote, kỵ sĩ Romance của đất nước Tây Ban Nha. Xin được bày tỏ lòng kính ngưỡng đến tiên sinh và phu nhân, xin được phục vụ một cách chân thành…”.

“Cậu làm trò quái quỷ gì thế, Trần Tị! Cậu vờ vịt làm gì, tôi là Vạn Túc còn cô ấy là “Tiểu sư tử””…

“Tiên sinh và phu nhân tôn kính! Đối với một kỵ sĩ trung thành mà nói, không có gì có thể so sánh được với việc dùng thanh kiếm để bảo vệ sự hòa bình, tuyên dương sự nghiệp chính nghĩa thần thánh…”.

“Này ông bạn, đừng có diễn kịch nữa!”

“Cả thế giới này là một sân khấu. Mỗi ngày đều có một vở kịch lên sân khấu nhưng tất cả đều giống nhau. Tiên sinh, nếu ngài có thể cho tôi một điếu thuốc trong túi áo của ngài, tôi có thể biểu diễn kiếm thuật tuyệt luân của tôi để ngài và phu nhân thưởng thức!”.

Tôi hoang mang rút một điếu thuốc đưa cho Trần Tị, đồng thời cũng ân cần đánh lửa cho cậu ta. Trần Tị rít một hơi thuốc thật sâu, sâu đến độ đầu điếu thuốc chưa kịp cháy. Đôi mắt cậu ta mơ màng, những nếp nhăn trên mặt chụm vào nhau rồi bắt đầu giãn ra, hai luồng khói đậm đặc tuôn ra từ hai lỗ mũi. Nhận ra một điếu thuốc có thể làm cho con người có thể tìm thấy cảm giác an bằng đến như vậy, trong lòng tôi bồi hồi cảm động. Tuy tôi hút thuốc đã nhiều năm nhưng chưa thể được coi là một kẻ nghiện thuốc. Do vậy tôi không thể nào cảm nhận hết được cảm giác của một kẻ nghiện đang đứng trước mặt mình. Trần Tị tiếp tục rít một hơi thật sâu nữa và gần như nuốt hết tất cả khói thuốc vào bụng, chỉ còn một vài sợi khói nhạt chui qua mép cậu ta tuôn ra ngoài. Chỉ cần ba lần hút, điếu thuốc đã cháy đến tận đầu lọc. Một cách vô thức, tôi rút cả gói thuốc trong túi ra đưa cho Trần Tị. Cậu ta có vẻ sợ hãi nhìn một lượt chung quanh rồi giật lấy, nhét vội vào ống tay áo. Cậu ta đã quên mất chuyện sẽ biểu diễn kiếm thuật mà lại lôi thanh kiếm xềnh xệch trên đất chạy thẳng ra cửa. Đến cửa, Trần Tị vẫn không quên thò tay vào chiếc sọt lấy một chiếc bánh mì một cách hợp pháp.

“Don Quijote! Ông lại lấy tài sản của khách nữa rồi!” - Cậu phục vụ mập ú có tên Ngụy Tang Khâu đang bê hai cốc bia đen sủi bọt đi về phía chúng tôi nhưng mặt lại hướng về phía Trần Tị đang bỏ chạy, quát to. Qua lớp cửa kính, chúng tôi thấy con người đáng thương ấy lôi thanh kiếm xềnh xệch trên đất, với đôi chân tàn tật và cái bóng dài dài chạy ngang qua quảng trường. Con chó có vẻ khỏe mạnh ấy hộc lên một tiếng và đuổi theo chủ. Một hình ảnh thương tâm hiện ra trước mắt tôi: Chủ xiêu vẹo tàn khuyết, chó khỏe mạnh hiên ngang! Cuối cùng, cả chủ lẫn chó đều biến mất trong bóng đêm trên quảng trường.

“Một kẻ đáng ghét!” - Giọng Ngụy Tang Khâu vừa có vẻ bực tức vừa có vẻ thông cảm - “Lúc nào cũng bám đuôi chúng tôi làm những chuyện mất mặt. Tôi thay mặt cho ông chủ biểu thị sự xin lỗi với tiên sinh và phu nhân. Nhưng… tôi nghĩ, bố thí cho một kỵ sĩ điên rồ như vậy mấy điếu thuốc hoặc một vài đồng bạc lẻ, có lẽ tiên sinh cũng chẳng cảm thấy phiền lòng lắm…”.

“Cậu đang nói gì thế?” - Tôi cảm thấy khó chịu trước cách nói năng của cậu phục vụ mập ú này - “Nơi đây không phải là sân khấu, chúng ta cũng chẳng phải là diễn viên, sao lại có những lời không hợp thực tế như thế? Có phải anh ta được các người thuê để làm việc ở đây?”.

“Thưa tiên sinh, đây là những lời nói thực để ngài nghe” - Cậu phục vụ nói - “Khi nhà hàng mới khai trương, ông chủ chúng tôi thương hại ông ta nên mới cho phép ông ta hóa trang thành hình hài như vậy và bảo đứng ở cửa để chào mời khách. Nhưng ông ta có quá nhiều tật xấu, nghiện rượu, nghiện thuốc… Mỗi khi cơn nghiện nổi lên thì làm không được việc gì cả, lại thêm lúc nào cũng kè kè một con chó ghẻ bên mình không lúc nào rời, thêm vào đó là ăn ở không có một chút vệ sinh. Như tôi đây, mỗi ngày tắm rửa hai lần, tuy tướng mạo của tôi chẳng lấy gì làm dễ coi, nhưng mùi thơm từ thân thể tôi tỏa ra khiến khách hàng cảm thấy thư thái tinh thần. Đây chính là đạo đức nghề nghiệp của những người phục vụ trong một nhà hàng cao cấp. Nhưng ông ấy, ngoài việc bị mưa làm cho ướt mấy lần, hầu như không hề tắm. Mùi vị từ thân thể ông ta toát ra khiến khách hàng phải nhăn mày khịt mũi ghê tởm. Hơn thế nữa, ông ta liên tục vi phạm những điều cấm kỵ do ông chủ đặt ra: Không được nhận quà của khách hàng. Đối với một kẻ vô lại như vậy, nếu tôi là ông chủ, tôi đã tống cổ ông ta ra khỏi nhà hàng từ lâu rồi. Có điều, ông chủ chúng tôi là người thiện lương, đã cho ông ta rất nhiều cơ hội, hy vọng ông ta có thể sửa đổi tính tình. Nhưng loại người như vậy làm sao thay đổi được. Chó làm sao bỏ được thói quen ăn cứt? Ông chủ chúng tôi đã cho ông ta một số tiền và hy vọng ông ta không đến đây nữa, nhưng rồi tiêu hết tiền, ông ta lại đến. Nếu tôi là ông chủ, tôi đã báo cảnh sát từ lâu rồi. Nhưng ông chủ tôi là người ăn ở có hậu, thà là công việc làm ăn có ảnh hưởng nhưng quyết không hại ông ta…” - Cậu ta hạ thấp giọng nói tiếp - “Sau đó tôi mới nghe người ta nói, ông ta là bạn học của ông chủ. Nhưng cho dù là bạn học đi chăng nữa cũng không cần phải độ lượng đến như vậy. Đã có người từng cằn nhằn với ông chủ rằng, họ không chịu nổi mùi vị tỏa ra trên người của Don Quijote và cũng không thể chịu nổi rận bò ra lổn ngổn từ trên thân thể con chó. Ông chủ tôi đã thuê người cưỡng chế ông ta cùng con chó đến nhà tắm công cộng tắm táp thật kỹ và sau đó đã trở thành một quy định, mỗi tháng bắt ông ta và con chó đi tắm một lần. Lão điên ấy không những không cảm tạ thịnh tình của ông chủ mà lại kêu gào chửi bới khi bị bắt đi tắm, khi nằm trong bồn nước vẫn còn chửi: Lý Thủ, mày là đồ trứng thối! Mày đã hủy diệt sự tôn nghiêm của một kỵ sĩ chân chính!”

Thưa tiên sinh,

Sau bữa cơm tối ấy, tâm trạng của tôi và “Tiểu sư tử” vô cùng nặng nề khi đi men theo con đường dọc bờ sông quay về nhà. Cuộc tái ngộ với Trần Tị khỉến chúng tôi cảm khái vô cùng. Đừng quay đầu lại nhìn những gì đã vùi lấp trong quá khứ. Thời gian đã mấy mươi năm, bãi bể đã hóa nương dâu. Rất nhiều những việc mà ngày ấy chúng tôi có mơ mộng cũng không dám nghĩ đến cuối cùng cũng đã thành hiện thực. Nhiều chuyện ngày ấy là những việc cực kỳ nghiêm túc nay lại biến thành trò cười. Tôi và “Tiểu sư tử” không hề trao đổi gì với nhau nhưng tôi nghĩ, cô ấy cũng đang có suy nghĩ giống tôi.

Thưa tiên sinh,

Lần thứ hai tôi trông thấy Trần Tị là ngay trong bệnh viện của khu kinh tế mở. Cùng đến đó với chúng tôi ngày ấy còn có Lý Thủ và Vương Can. Trần Tị bị một chiếc xe của một đồn cảnh sát địa phương đâm phải. Căn cứ vào lời khai của viên cảnh sát lái xe - kể cả những người chứng kiến tại hiện trường vụ tai nạn thì, đang lúc chiếc xe cảnh sát chạy một cách bình thường thì Trần Tị nhảy vọt ra từ bên vệ đường - có lẽ là cố tình tìm cái chết - con chó cũng nhảy ào theo. Chiếc xe hất Trần Tị văng vào hàng cây bên đường, còn con chó bị bánh xe nghiến nát. Đôi chân Trần Tị gãy nát, vai và lưng cũng bị thương nhưng không đến nỗi chết.

Tin Trần Tị bị tai nạn là do Lý Thủ báo với chúng tôi. Lý Thủ nói, về phía cảnh sát họ không chịu trách nhiệm gì trong chuyện này nhưng căn cứ vào hoàn cảnh hiện tại của cậu ấy, họ đồng ý bồi thường mười nghìn đồng. Rõ ràng mười nghìn đồng không thấm vào đâu trong việc trang trải điều trị thương tích rất nặng của Trần Tị. Tôi hiểu, mục đích của Lý Thủ trong việc thông tin và triệu tập bạn học ngày xưa đến bệnh viện là muốn chúng tôi cũng chung tay giúp đỡ Trần Tị.

Trần Tị nằm trong một phòng bệnh hai mươi giường, giường số 9, gần cửa sổ. Lúc ấy là đầu tháng năm, ngoài cửa sổ có một cây ngọc lan đang trở hoa màu đỏ, hương thơm nực nồng. Cho dù nhiều giường bệnh nhưng nói chung là công tác vệ sinh ở đây khá đảm bảo. Và dù điều kiện trị liệu ở bệnh viện này không thể so sánh với các bệnh viện ở Thượng Hải, Bắc Kinh, nhưng nếu so với trạm xá công xã hơn hai mươi năm trước lại là một trời một vực. Thưa tiên sinh, thuở ấy tôi đã đưa mẹ tôi vào trạm xá công xã nằm hơn một tuần, rận trên giường bò thành từng đàn, tường vôi toàn là những vệt máu, ruồi nhặng bay giữa ban ngày như ong vỡ tổ. Nghĩ lại tình cảnh ấy, ai ai cũng không rét mà run. Đôi chân, vai phải Trần Tị đã được bó bột thạch cao, nằm ngửa mặt lên trời, chỉ còn tay trái là có thể động đậy.

Trông thấy chúng tôi xuất hiện, cậu ấy ngoảnh mặt đi.

Vương Can phá vỡ không khí nặng nề bằng những tiếng cười hi hí kèm theo là câu hỏi chẳng khác nào như tiếng chửi người ta: “Hiệp sĩ vĩ đại! Sao lại thế này? Đánh nhau với cối xay gió hay là quyết đấu với tình địch?”

Lý Thủ nói: “Không muốn sống nữa thì nói với tôi một lời, việc quái gì mà phải đâm vào xe cảnh sát!”

Hình như Trần Tị vẫn gắng gượng để giữ lấy phong độ hiệp sĩ, không thèm nói chuyện với chúng tôi. “Tiểu sư tử” nói: “Chuyện này nên trách Lý Thủ. Cậu ấy đã bị Lý Thủ làm cho trở nên điên điên khùng khùng”.

Lý Thủ nói: “Làm gì có chuyện cậu ấy điên điên khùng khùng! Cậu ta chỉ giả làm một hiệp sĩ điên khùng thôi”.

Đột nhiên Trần Tị khóc nấc lên, cái mặt đang nghiêng về một bên càng cúi thấp hơn nữa, tay trái bíu lấy bức tường.

Một y tá cao lêu nghêu đi vào phòng bệnh, đôi mắt rất sắc nhìn khắp chúng tôi một lượt như thăm dò rồi đập đập tay vào giường sắt, nghiêm giọng nói: “Số chín! Không được làm ồn!”

Ngay lập tức, tiếng khóc ngưng bặt. Mặt của Trần Tị cũng không ngoảnh về một bên nữa, đôi mắt đục ngầu nhìn thẳng vào chúng tôi.

Cô y tá cao kều nhìn những bó hoa tươi chúng tôi đang đặt trên đầu giường, chun mũi hít hít đầy vẻ ác cảm, nói: “Quy định của bệnh viện là không cho phép mang hoa vào phòng bệnh nhân”.

“Tiểu sư tử” cao giọng đầy vẻ bất mãn: “Đây là quy định gì? Ngay cả những bệnh viện lớn ở Bắc Kinh cũng không có quy định này!”

Đương nhiên là cô y tá không thèm tranh luận với “Tiểu sư tử”, nói với Trần Tị: “Mau bảo người nhà của ông xuống thanh toán viện phí, bữa nay là hạn cuối cùng rồi!”

Tôi bực tức nói: “Thái độ phục vụ của nhân viên trong bệnh viện này là như cô cả hay sao?”

Cô y tá khịt khịt mũi: “Đó là thái độ công tác”.

“Các người còn có chút tinh thần nhân đạo nào không?” - Vương Can nói.

Y tá nói: “Tôi chỉ là người thông báo lại ý kiến của lãnh đạo. Các vị có tinh thần nhân đạo thì hãy giúp ông ấy nộp tiền viện phí đi. Tôi nghĩ, viện trưởng của chúng tôi nhất định sẽ tặng thưởng cho mỗi vị một giấy khen, trên đó ghi mấy chữ: Gương nhân đạo điển hình!”

Vương Can định lên tiếng tranh luận thì bị Lý Thủ ngăn lại.

Cô y tá dương dương tự đắc bỏ đi.

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau và tự trong lòng, ai cũng có những toan tính riêng. Trần Tị bị thương nghiêm trọng như vậy, viện phí nhất định sẽ là một con số vô cùng kinh hoàng.

“Tại sao mọi người lại đưa tôi đến đây?” - Giọng Trần Tị đầy vẻ oán hận - “Tôi chết là việc của tôi, liên quan đếch gì đến mọi người? Các người không mang tôi đến đây, tôi đã được toại nguyện rồi, lại khỏi phải nằm đây để nghe những lời phỉ báng của người khác”.

“Không phải chúng tôi đưa cậu mà là chiếc xe cảnh sát bị cậu đâm vào đã gọi xe cấp cứu.” - Vương Can nói.

“Không phải các người mang tôi đến đây sao? Thế các người đến đây làm gì? Các người thương hại tôi? Các người đồng tình với tôi? Tôi không dám nhận đâu. Các người cút đi! Nhớ mang theo những bó hoa đầy chất độc kia đi theo… Mùi thơm của nó làm tôi đau đầu… Các người muốn giúp tôi thanh toán viện phí? Cũng không cần đâu! Tôi đường đường là một hiệp sĩ. Quốc vương là bạn tôi, hoàng hậu cũng là bạn tôi, chút viện phí này sẽ chi từ ngân sách nhà nước. Ngay cả việc nếu quốc vương và hoàng hậu không lo cho tôi, tôi cũng không cần các người phải bố thí. Hai đưa con gái tôi đẹp như tiên trên trời, phúc như Đông hải, nếu không là quốc mẫu cũng sẽ là vương phi. Những đồng bạc rơi ra từ kẽ tay của chúng cũng đủ để trang trải viện phí rồi!”

Thưa tiên sinh,

Đương nhiên là chúng tôi nhận ra ý tứ trong những lời lẽ vừa rồi của Trần Tị. Rõ ràng là cậu ta đang cố giả điên giả khùng. Giả điên giả khùng cũng là một quán tính, thực hiện mãi rồi cũng sẽ đến lúc nào đó điên thật. Nói thật lòng, khi theo chân Lý Thủ vào bệnh viện, tâm trạng chúng tôi đều có một chút bất an. Nếu chỉ đến để tặng vài bông hoa, nói vài câu thăm hỏi, thậm chí có thể chi ra một vài trăm đồng cũng chẳng có vấn đề gì phải bận tâm. Nhưng nếu bảo chúng tôi phải trả số tiền viện phí khổng lồ như vậy, rõ ràng là… Bởi vì, suy cho cùng, Trần Tị và chúng tôi cũng chẳng phải ruột rà máu thịt gì, hơn nữa tình trạng của cậu ta lúc này hoàn toàn không bình thường. Nếu cậu ta là một người bình thường thì mọi việc đã khác… Nói tóm lại, thưa tiên sinh, cho dù chúng tôi không hề thiếu tinh thần chính nghĩa, không thiếu lòng thương xót nhưng suy cho cùng, chúng tôi cũng chỉ là kẻ phàm phu tục tử, không có đủ trình độ để hy sinh quá lớn cho xã hội và một cá nhân nào đó. Do vậy, những lời điên điên cuồng cuồng của Trần Tị chính là cái cớ để chúng tôi nhân đó mà thoái thác trách nhiệm không đáng có ấy. Chúng tôi nhìn Lý Thủ - người triệu tập chúng tôi đến đây. Lý Thủ lắc đầu nói: “Ông bạn, cứ yên tâm mà dưỡng thương nhé. Xe cảnh sát đã đâm cậu, ắt họ sẽ có trách nhiệm… Bây giờ chưa có cách nào khác, chúng tôi sẽ bàn bạc thêm…”

“Cút!” - Trần Tị gào lớn - “Nếu tay tôi mà còn cử động được tôi sẽ dùng trường mâu của mình gõ vào những cái đầu ngu xuẩn của các người!”

Lúc này mà không thoát thân thì còn đợi đến lúc nào? Chúng tôi ôm mấy bó hoa đang ngậm hương lên, đúng vào lúc định đi nhưng chưa kịp đi thì cô y tá cao kều đã đưa một người đàn ông mặc áo blouse trắng bước vào phòng. Cô ta giới thiệu với chúng tôi, ông ta là phó viện trưởng phụ trách tài vụ của bệnh viện. Xong, cô ta còn giới thiệu chúng tôi với ông ta rằng, chúng tôi là thân nhân của giường số 9. Phó viện trưởng đi thẳng vào vấn đề, nói rằng phí tổn cấp cứu, tiền thuốc men và cả tiền viện phí hết hơn hai mươi nghìn đồng. Nói xong, ông ta còn nhấn mạnh: Đây là tính toán trên cơ sở thực tế của bệnh nhân. Còn nếu tính toán theo một cách khác thì hai mươi nghìn đồng ấy là không thấm vào đâu cả. Trong suốt quá trình phó viện trưởng tính toán với chúng tôi, Trần Tị liên tục gào: “Cút! Chúng mày đều là bọn gian thương mua gian bán lận, chúng mày đều là loài giòi bọ chuyên đục khoét tử thi, lão đây không hề quen biết chúng mày…” - Cánh tay còn có thể cử động được của cậu ta vung loạn xạ, đập mạnh vào tường rồi mò mẫm lên đầu giường tóm được một chiếc lọ thuốc rỗng, ném mạnh về phía trước, trúng vào một bệnh nhân đang truyền đạm ở giường bệnh đối diện - “Cút! Đây là bệnh viện của con gái ta, chúng mày đều là một lũ con gái ta thuê đến đây làm công. Ta chỉ cần nói với nó một tiếng, bát cơm trên miệng của chúng mày không còn nữa…”

Đúng là rối rắm, đúng là náo loạn. Thưa tiên sinh, lúc ấy có một người phụ nữ mặc toàn màu đen, đeo mạng che mặt bước vào phòng. Thưa tiên sinh, tôi không nói thì chắc ngài cũng đoán ra cô ta là ai. Đúng vậy, cô ta là đứa con gái nhỏ của Trần Tị, là đứa con gái được cứu ra từ trong đống lửa, tuy không chết nhưng dung nhan đã hoàn toàn bị hủy hoại - Trần Mi.

Như một bóng ma, Trần Mi xuất hiện trong phòng bệnh. Bộ quần áo màu đen và chiệc mạng che mặt đã khiến nó trở nên thần bí, đồng thời cũng toát lên cái khí lạnh nơi âm ty địa ngục. Tiếng huyên náo lập tức ngừng bặt chẳng khác nào một chiếc máy cát xét đang phát những tạp âm đột ngột bị ngắt điện. Ngay cả cái không khí nóng bức lúc ấy cũng đột nhiên biến thành lạnh lẽo. Trên cây ngọc lan bên ngoài cửa sổ có một con chim đang cất tiếng hót, tiếng hót của nó nghe sao mà thê lương.

Chúng tôi không nhìn được mặt Trần Mi, cũng không nhìn thấy bất kỳ một chút da thịt nào trên thân thể nó. Chúng tôi chỉ nhận ra là thân hình nó rất cao, tay chân thon thả và dài, một thân hình của người mẫu thời trang. Tất nhiên là chúng tôi nhận ra nó chính là Trần Mi. Tôi và “Tiểu sư tử” cùng nhớ lại hình bóng con bé xinh đẹp mũm mĩm hơn hai mươi năm trước. Nó nhẹ gật đầu chào chúng tôi rồi nói với phó viện trưởng: “Tôi là con gái bệnh nhân. Tôi chịu trách nhiệm trả những món nợ cho bố tôi”.

Thưa tiên sinh,

Ở Bắc Kinh tôi có một người bạn là chuyên gia nghiên cứu về bỏng ở bệnh viện 304, trình độ cậu ta thuộc cấp viện sĩ. Cậu ta đã từng nói với tôi, đối với người bị bỏng, những đau đớn về tinh thần còn lớn hơn những cơn đau về thể xác rất nhiều lần. Khi lần đầu tiên nhìn vào gương và nhận ra dung mạo bị hủy hoại của mình, khó ai có thể chịu đựng được kinh hoàng về mặt tinh thần. Họ cần phải có một dũng khí, một nghị lực phi thường mới có thể tiếp tục sống.

Thưa tiên sinh,

Con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Trong những hoàn cảnh đặc thù, kẻ nhu nhược cũng có thể trở thành dũng sĩ, kẻ cường đạo cũng có thể là người thiện lương, thậm chí có kẻ vốn không chịu mất một sợi lông chân để cho thiên hạ có lợi( ) cũng có thể quẳng ra nghìn vàng. Sự xuất hiện của Trần Mi và sự dũng cảm của nó đã khiến chúng tôi tự thấy xấu hổ và nỗi xấu hổ ấy đã chuyển hóa thành một tinh thần hiệp nghĩa. Đầu tiên là Lý Thủ, sau đó là đến chúng tôi cùng nói với Trần Mi: Cháu Mi à, viện phí của bố cháu để các chú thanh toán.

Trần Mi lạnh lùng nói: “Cảm ơn hảo tâm của các chú. Nhưng cả nhà cháu đã nợ người ta nhiều quá rồi, cháu không gánh thêm nổi nữa đâu”.

Trần Tị gào lớn: “Mày cút đi! Mày là một con yêu tinh dùng vải đen che mặt đến đây mạo nhận là con gái ta! Con gái ta, một đứa đang đi du học ở Tây Ban Nha và đang được vương tử ở đấy yêu thương, đang tính chuyện hôn nhân. Một đứa nữa đang du học ở Ý, đã mua được một xưởng rượu lâu đời nhất nước Ý để làm ra những chai rượu vang danh thiên hạ. Một xe rượu đầy đang chạy về hướng Trung Quốc…”