Chương 12 BA VỊ KHÁCH KHÔNG MỜI
1
Một ngày sau khi Mike Hanlon gọi điện thoại, Henry Bowers bắt đầu nghe thấy tiếng nói. Các tiếng nói cứ rủ rỉ rù rì nói chuyện với hắn cả ngày. Suốt một thời gian, Henry đinh ninh những tiếng nói ấy đến từ Mặt Trăng. Vào chiều muộn, đứng cuốc đất trong vườn và ngước nhìn bầu trời, hắn có thể trông thấy Mặt Trăng giữa bầu trời xanh, nhạt nhòa nhỏ xíu. Mặt Trăng tựa bóng ma.
Đó chính là lý do tại sao hắn chắc cú rằng thứ nói chuyện với hắn là Mặt Trăng. Chỉ Mặt Trăng mới rì rầm bằng giọng nói ma quỷ ấy - giọng của những người bạn cũ và giọng của những đứa trẻ từng chơi ở Vùng Đất Cằn năm xưa. Ngoài những giọng nói ấy ra, còn một giọng khác nữa… mà hắn không dám gọi tên.
Victor Criss là kẻ đầu tiên bắt chuyện với hắn từ Mặt Trăng. Chúng đang quay lại, Henry. Tất cả bọn chúng mày ơi. Chúng đang quay lại Derry.
Và rồi đến lượt Huggins Ợ Hơi nói từ cung trăng, có lẽ từ bề tối của Mặt Trăng. Mày là kẻ duy nhất còn sót lại, Henry ạ. Kẻ duy nhất trong cả đám chúng mình còn sót lại. Mày phải hạ chúng nó vì tao và Vic. Không đứa oắt con nào có thể chơi chúng ta một vố như thế. Chứ còn sao nữa, tao là kẻ đã đánh quả bóng xuất sắc trong sân nhà Tracker, Tony Tracker còn bảo quả đấy xứng tầm sân vận động Yankee kia mà.
Hắn cuốc đất, đầu ngẩng lên nhìn Mặt Trăng ma mị trên bầu trời, hồi sau, Fogarty bước đến, quất cho hắn một cú vào gáy khiến hắn ngã bổ nhào xuống đất.
“Mày xới cả đậu với cỏ dại lên rồi kìa, đồ đần độn.”
Henry đứng dậy, phủi đất dính trên mặt và trên tóc. Fogarty sừng sững đứng trước mặt hắn, một người đàn ông cao to mặc áo khoác trắng và quần trắng, bụng bệu ra trước. Bảo vệ (ở đồi Juniper, họ được gọi với cái tên “cố vấn”) mang theo dùi cui là một hành vi phạm pháp, do vậy, rất nhiều tay bảo vệ mang theo những cọc gồm bốn mươi đồng hai mươi lăm xu nhét vào ống thay cho vũ khí, trong số đó, Fogarty, Adler và Koontz là những kẻ tàn bạo nhất. Lúc nào cũng vậy, chúng luôn dùng cọc xu nặng trịch kia phang vào sau gáy bệnh nhân. Luật lệ không cấm mang theo xu. Đồng hai mươi lăm xu không bị xem là thứ vũ khí chết người ở đồi Juniper, một cơ sở cho bệnh nhân tâm thần tọa lạc ở vùng ngoại ô Augusta, nằm gần địa giới thị trấn Sidney.
“Tôi xin lỗi, thưa ông Fogarty,” Henry nói và toét miệng nở nụ cười khoe hết hàm răng vàng khè lởm chởm. Chúng trông như cột hàng rào của căn nhà ma. Từ năm mười bốn tuổi, Henry đã bắt đầu rụng răng.
“Ừ, biết điều là tốt,” Fogarty hằm hè. “Nhưng nếu tao bắt gặp mày làm như thế một lần nữa thì cứ liệu thần hồn.”
“Vâng, thưa ông Fogarty.”
Fogarty bỏ đi, đôi giày màu đen của hắn để lại những dấu giày màu nâu trên đất của vườn Tây. Thấy Fogarty quay lưng đi, Henry len lén đưa mắt nhìn quanh. Tất cả các bệnh nhân ở khu Xanh dương được lùa ra ngoài ngay khi trời quang mây tạnh, đây là nơi họ giữ các bệnh nhân có tiền sử vô cùng nguy hiểm nhưng hiện tại được đánh giá nguy hiểm ở mức độ vừa phải. Thật ra, mọi bệnh nhân ở đồi Juniper đều được xếp vào loại nguy hiểm ở mức độ vừa phải, bởi đây là cơ sở giam những tên tội phạm bị tâm thần. Henry Bowers được đưa vào vì hắn bị kết tội giết bố mình vào cuối thu năm 1958 - quả thật, năm ấy nổi bật với xét xử án mạng; nhắc tới xét xử các vụ án mạng thì 1958 chẳng khác nào điểm đen.
Nhưng tất nhiên, họ không cho rằng bố hắn là nạn nhân duy nhất chết dưới tay hắn, nếu chỉ có mình ông ta, Henry sẽ không phải bóc lịch trong Bệnh viện Tâm thần Bang Augusta suốt hai chục năm trời, phần lớn thời gian dưới sự kìm hãm thể xác và hóa chất. Không, không phải chỉ có bố hắn; nhà chức trách đánh giá hắn đã hạ sát tất cả, hoặc chí ít là phần lớn các nạn nhân.
Sau khi tòa tuyên án, tờ News đăng một bài trên trang nhất với tựa đề “Hồi kết cho đêm trường của Derry”. Trong đó, họ tóm tắt những điểm chính yếu như sau: thắt lưng trong tủ com-mốt của Henry vốn là của cậu bé Patrick Hockstetter mất tích; tủ quần áo của Henry để cả đống sách giáo khoa, trong đó vài cuốn đề tên Huggins Ợ Hơi và vài cuốn đề tên Victor Criss, cả hai đều mất tích và được biết, đây là bạn thân của Bowers; khủng khiếp nhất là chi tiết qua xác định mác giặt ủi, người ta phát hiện những chiếc quần con nhét giữa khe nệm của Henry vốn thuộc về cô bé Veronica Grogan đã chết.
Tờ News thẳng thừng kết luận Henry Bowers là con quái vật đã khiến Derry mất ăn mất ngủ suốt mùa xuân và mùa hè năm 1958.
Nhưng rồi tờ báo tuyên bố trên trang nhất ấn bản ngày mùng 6 tháng 12 rằng đêm trường dằng dặc của Derry đã đến hồi kết thúc, nhưng ngay cả một kẻ đần độn như Henry cũng thừa biết đêm trường ở Derry chẳng bao giờ chấm dứt.
Họ tra hỏi hắn dồn dập, vây quanh hắn thành vòng tròn, chĩa tay vào hắn. Cảnh sát trưởng tát hắn hai lần, và một viên thanh tra tên Lottman có lần đã thụi vào bụng hắn, bắt hắn phải mau chóng khai báo.
“Người dân ngoài kia sắp nổi sùng lên rồi, Henry,” gã Lottman này nói. “Bấy lâu nay, ở Derry luôn xét xử rồi mới hành quyết, nhưng cứ thế này thì có khi mày sẽ lên đoạn đầu đài sớm thôi.”
Hắn đoán họ sẽ tiếp tục quá trình điều tra ròng rã suốt thời gian dài, không phải vì họ cho rằng những người dân thường hiền lành của Derry sẽ manh động đến độ tràn vào đồn cảnh sát, bắt Henry rồi treo cổ hắn lên cây táo xanh, mà là vì họ chỉ muốn sớm khép lại mùa hè máu me và kinh hoàng năm ấy, lý ra, họ sẽ tiếp tục điều tra, nhưng Henry không để họ làm thế. Sau một hồi, hắn ngộ ra họ muốn hắn thú nhận tất cả. Thú nhận thì thú nhận, Henry chẳng màng. Sau biến cố kinh hoàng trong cống thoát nước, sau những gì xảy ra với Ợ Hơi và Victor, hắn chẳng màng gì nữa. Phải, hắn thừa nhận hắn giết bố mình. Điều này đúng. Phải, hắn giết cả Victor Criss và Huggins Ợ Hơi. Điều này cũng đúng nốt, chí ít là bởi chính hắn dẫn hai người bọn họ vào đường cống khiến họ phải bỏ mạng. Phải, hắn giết Patrick. Phải, cả Veronica nữa. Phải, tất tần tật. Điều này không đúng, nhưng chẳng quan trọng. Tội phải đổ lên đầu ai đó. Có lẽ đó là lý do hắn toàn mạng. Và nếu hắn từ chối…
Hắn biết thắt lưng của Patrick ở đâu mà ra. Một ngày tháng Tư, hắn đánh bài thắng Patrick nên lấy được chiếc thắt lưng ấy, nhưng rồi hắn phát hiện nó chẳng vừa với mình nên vứt luôn vào tủ. Hắn biết đống sách ở đâu ra – mẹ kiếp, ba đứa bọn hắn lêu lổng với nhau, bình thường, sách giáo khoa chúng còn chẳng buồn quan tâm chứ nói gì đến sách học hè, giống như chuột chũi không thèm biết nhảy nhót là cái quái gì. Có thể trong tủ của hai cậu bạn cũng có đầy sách của hắn, và có thể cảnh sát cũng thừa biết điều đó.
Song những chiếc quần con thì khác… hắn không biết làm thế nào mà quần con của Veronica Grogan lại xuất hiện bên dưới nệm của hắn.
Nhưng hắn nghĩ hắn biết ai – hay cái gì – là kẻ đứng đằng sau.
Tốt nhất không nên xớ rớ nhắc đến những chuyện này.
Tốt nhất cứ giả ngu.
Vì thế, họ đưa hắn đến Augusta, rồi năm 1979, họ chuyển hắn đến đồi Juniper, và ở đây, hắn chỉ gây chuyện đúng một lần, lý do là bởi ban đầu, mọi người chưa biết tính hắn. Một kẻ đã tìm cách tắt đèn ngủ của Henry. Đèn ngủ có hình Vịt Donald đang ngả mũ thủy thủ con con. Cửa khóa và lưới thép còn lâu mới cản được chúng. Chúng đến như sương như khói. Những thứ đó. Chúng nói, cười… thỉnh thoảng chúng siết. Những thứ lông lá, những thứ trơn nhẵn, những thứ có mắt. Đó chính là thứ đã giết chết Vic và Ợ Hơi vào cái ngày mà ba người bọn chúng đuổi đám trẻ kia vào cống ngầm bên dưới Derry hồi tháng Tám năm 1958.
Nhìn xung quanh, hắn thấy những thành viên khác trong khu Xanh dương. Có George Deville, kẻ đã sát hại vợ và bốn đứa con của mình vào một đêm đông năm 1962. Đầu của hắn ngoẹo xuống vặn vẹo, mái tóc bạc trắng phất phơ trong gió, mũi dãi chảy lòng thòng, cây thập giá bằng gỗ to vật nảy tới nảy lui theo từng nhịp cày xới. Có Jimmy Donlin, tất cả những gì báo chí đăng tải về Jimmy là hắn đã giết mẹ mình ở Portland vào mùa hè năm 1965, nhưng họ không nhắc tới việc Jimmy thử phương thức phi tang xác chết mới mẻ: lúc cảnh sát đến, Jimmy đã ăn hơn một nửa thân thể của bà, kể cả não. “Ăn xong tao thông minh hơn gấp đôi,” Jimmy tin tưởng kể cho Henry vào một đêm khuya nọ.
Ở luống phía bên kia Jimmy, vừa xới điên cuồng vừa hát đi hát lại một câu hát (chuyện thường ngày ở huyện) là gã người Pháp nhỏ con có tên là Benny Beaulieu. Benny phạm tội đốt nhà, hắn là kẻ cuồng phóng hỏa. Đứng xới đất mà hắn lải nhải đúng một câu trong bài hát của The Doors: “Khiến cả đêm phừng phừng lửa, khiến cả đêm phừng phừng lửa, khiến cả đêm phừng phừng lửa, khiến cả…”
Nghe đi nghe lại mãi một câu hát mà không nổi sùng mới lạ.
Từ Benny nhìn qua là Franklin D’Cruz, thủ phạm đã hãm hiếp hơn năm mươi phụ nữ trước khi bị bắt trong lúc đang thủ ác ở công viên Terrace tại Bangor. Tuổi của nạn nhân dao động từ ba đến tám mươi mốt. Frank D’Cruz không làm hành động gì dị hợm. Cách hắn một khoảng khá xa là Arlen Weston, xới đất thì ít mà ngây người ra ngắm cuốc thì nhiều. Fogarty, Adler và John Koontz từng dùng cọc xu phang vào Weston để cố ép hắn nhanh tay nhanh chân hơn, và ngày nọ, có lẽ Koontz đánh hơi mạnh vì máu không chỉ chảy ra từ mũi của Arlen Weston mà còn rỉ ra từ tai, kết cục là tối hôm ấy, hắn ta bị co giật. Không quá nặng; chỉ hơi hơi mà thôi. Nhưng kể từ đó, Arlen chìm sâu hơn vào màn đêm tăm tối bên trong bản thân hắn, và giờ hắn hết thuốc chữa rồi, sống mà hoàn toàn chẳng còn kết nối gì với thế giới. Cách Arlen một đoạn là…
“Mày có muốn nhấc cuốc lên không, hay để tao giúp mày hả Henry?” Fogarty ầm ĩ mắng chửi, Henry bèn xới tiếp. Hắn không muốn bị co giật. Hắn không muốn đời hắn tạch như Arlen Weston.
Và rồi chốc sau, những tiếng nói lại vang lên. Nhưng lần này là giọng của kẻ khác, giọng của những đứa đã đẩy hẳn sa chân vào chốn này, những giọng nói ấy thì thầm từ Mặt Trăng ma.
Đến một thằng béo mà mày còn chẳng bắt được, Bowers, một giọng nói thì thầm. Giờ tao giàu rồi, còn mày thì đi xới đậu. Để tao cười vào mặt mày, đồ khốn!
B-B-Bowers, mày đ-đúng là c-c-cái đồ ăn h-h-hại! Từ lúc v-vào đ-đó có đ-đọc đ-đ-được c-c-cuốn s-s-sách nào chưa? Tao v-v-viết cả m-mớ rồi đây! Tao gi-gi-giàu rồi, còn m-mày thì ch-chết dí trong đồi J-J-Juniper! Đáng đời mày chưa, đồ vừa khốn vừa ngu!
“Im đi,” Henry thì thầm với những giọng nói ma mị ấy, hắn cuốc nhanh hơn, với cả những cây đậu mới trồng đi chung với cỏ dại. Mồ hôi chảy ròng ròng xuống trán hắn như nước mắt. “Suýt chút nữa bọn tao đã thịt được chúng mày. Suýt chút nữa .”
Bọn tao đã làm mày mắc kẹt, đồ khốn, một giọng nói khác cười ha hả. Mày đuổi tao nhưng có bắt được đâu, giờ tao giàu rồi! Đúng là đồ kém cỏi, đồ trượt vỏ chuối!
“Im đi,” Henry lầm bầm, cuống cuồng xới. “Chúng mày im đi!”
Mày có muốn lên giường với tao không, Henry? Một giọng nói khác đùa bỡn. Tiếc ghê cơ! Tao đã trao thân cho cả đám này rồi, tao chẳng là gì ngoài một con điếm, nhưng giờ tao giàu có, và bọn tao đã tụ họp lại rồi đây, mà bọn tao sắp làm tiếp đây, nhưng ngay cả khi tao đồng ý trao thân cho mày thì ngữ như mày còn lâu mới làm nổi, vì mày có cứng được đâu, nên là để tao cười vào mặt mày, Henry, để tao cười ha hả vào mày…
Hắn điên cuồng cày xới, nào cỏ dại, nào đất cát, nào cây đậu cứ thế bay lên rào rào; những giọng nói ma mị từ Mặt Trăng ma oang oang, vang vọng, quay cuồng trong đầu hắn, và Fogarty vừa gầm rống vừa chạy đến chỗ hắn, song Henry chẳng nghe thấy. Vì những giọng nói choán hết cả rồi.
Đến một thằng mọi đen mà mày cũng không thộp cổ nổi hả? Một giọng nói ma mị nhạo báng gã. Bọn tao đã giết chúng mày trong trận đánh nhau ấy! Bọn tao đã kết liễu chúng mày! Ha ha, đồ khốn! Ha ha, đáng đời mày!
Và rồi tất cả bọn chúng léo nha léo nhéo, cười cợt hắn, gọi hắn là đồ trượt vỏ chuối, hỏi hắn có thích những liệu pháp sốc mà họ thực hiện khi hắn chuyển đến đây và được đưa tới khu Đỏ hay không, hỏi hắn có thích sống ở đồi J-J-Juniper hay không, vừa hỏi, chúng vừa ré lên cười, vừa ré lên cười, chúng vừa hỏi, và rồi Henry vứt cuốc, ngước mặt nhìn Mặt Trăng ma trên bầu trời xanh rồi thét lên chửi bới, ban đầu hắn điên tiết hét ầm lên, nhưng rồi Mặt Trăng biến dạng thành khuôn mặt của một gã hề, khuôn mặt ấy trắng hếu, thối rữa, lỗ chỗ, hai mắt là hai hố đen ngòm, nụ cười đỏ như máu nhoẻn lên ngây thơ vô số tội, gớm guốc đến khôn tả, khiến Henry hét lên vì kinh hoàng, và rồi giọng của gã hề vang vọng từ Mặt Trăng ma, ra lệnh Mày phải trở về, Henry. Mày phải trở về và hoàn thành nhiệm vụ. Mày phải trở về Derry và giết sạch chúng nó. Vì Tao. Vì…
Từ nãy đến giờ, Fogarty đứng bên cạnh và thét vào mặt Henry gần hai phút nhưng không ăn thua (trong lúc những tên bạn tù khác đứng ở luống của mình, nắm chặt cuốc trong tay, nét mặt không hẳn là quan tâm mà gần như, phải, gần như là trầm tư , tựa hồ bọn chúng hiểu đây là một phần bí ẩn đưa đẩy chúng vào đây, rằng hành động đột nhiên lên cơn hoảng loạn mà la hét ầm ĩ của Henry Bowers ở vườn Tây là một hành vi thú vị không chỉ ở mặt kỹ thuật), chán la hét, gã phang cọc xu nặng trịch thật mạnh vào Henry khiến hắn đổ rạp xuống, giọng nói của gã hề theo hắn vào vực xoáy đen hun hút ấy, eo ẻo lải nhải: Giết hết chúng đi, Henry, giết hết chúng đi, giết hết chúng, giết hết đi.
2Henry Bowers mở mắt thao láo.
Mặt Trăng đã lặn và hắn cảm thấy biết ơn vì điều đó. Đêm xuống, Mặt Trăng bớt vẻ ma mị, nó thật hơn, và hắn thầm nhủ nếu một lần nữa hắn trông thấy gương mặt gớm ghiếc của gã hề trên bầu trời, vằng vặc qua ngọn đồi, qua cánh đồng, qua rừng cây, chắc hắn sẽ chết vì hãi hùng.
Hắn nằm nghiêng người, nhìn chằm chằm vào đèn ngủ. Sau khi Vịt Donald cháy, hắn được đổi đèn Chuột Mickey và Minnie nhảy điệu polka; chiếc đèn này lại được đổi bằng cây đèn với khuôn mặt màu xanh của Oscar Cáu kỉnh trong chương trình Phố Vừng , và cuối năm ngoái, Oscar đã được thay thế bởi khuôn mặt của Gấu Fozzie. Henry đếm số năm mình bóc lịch bằng số đèn ngủ bị cháy thay vì muỗng cà phê.
Vào đúng 2 giờ 4 phút sáng ngày 30 tháng 5, đèn ngủ của hắn bị cháy. Hắn khe khẽ rên lên – nhưng chỉ một chút. Đêm nay, Koontz là người trực ngoài cửa khu Xanh dương - hắn là kẻ đáng sợ nhất. Hắn còn kinh khủng hơn Fogarty, kẻ mà vào buổi chiều đã phang vào đầu hắn mạnh đến độ Henry không thể xoay đầu.
Say giấc nồng xung quanh hắn là các bạn tù khác trong khu Xanh dương. Benny Beaulieu ngủ và bị cố định bằng dây cao su. Sau khi xới đất xong, hắn được cho phép xem chương trình Cấp cứu chiếu lại trên ti vi, đến khoảng 6 giờ, hắn bắt đầu thủ dâm liên tục và la hét như điên câu “Khiến cả đêm phừng phừng lửa ! Khiến cả đêm phừng phừng lửa ! Khiến cả đêm phừng phừng lửa !” Hắn được cho dùng thuốc an thần, và tình hình ổn thỏa chừng bốn tiếng thì đến 11 giờ, khi thuốc Elavil hết tác dụng, hắn lại tiếp tục trò điên của mình, hắn vừa giật của quý của mình mạnh đến độ máu chảy qua kẽ tay, vừa rít ré “Khiến cả đêm phừng phừng lửa !” Và họ một lần nữa cho hắn uống thuốc an thần rồi trói gô hắn lại. Giờ thì hắn đã ngủ, khuôn mặt nhỏ thó của hắn trang nghiêm dưới ánh đèn mờ như mặt của Aristotle.
Xung quanh giường mình, Henry có thể nghe thấy tiếng ngáy to có, nhỏ có, tiếng lầm bầm, thỉnh thoảng còn có cả tiếng đánh rắm. Hắn có thể nghe thấy tiếng Jimmy Donlin thở; tiếng thở không nhầm vào đâu được dù Jimmy ngủ cách hắn năm giường. Tiếng thở như tiếng huýt sáo khe khẽ và nhanh, vì lý do nào đó, âm thanh ấy luôn gợi cho Henry nhớ đến tiếng máy may. Từ bên kia cánh cửa dẫn ra sảnh, hắn lờ mờ nghe thấy tiếng ti vi của Koontz. Hắn biết Koontz đang xem những bộ phim chiếu khuya trên Kênh 38, uống Texas Driver và dùng bữa. Koontz thích ăn bánh mì kẹp phết đầy bơ đậu phộng kẹp hành tây Bermuda. Khi nghe kể điều này, Henry rùng mình thầm nghĩ: Thế mà người ta bảo kẻ nào điên đều bị tống giam.
Và rồi lần này, giọng nói không phát ra từ Mặt Trăng.
Mà phát ra ngay dưới giường của hắn.
Henry nhận ra giọng nói này ngay lập tức. Là giọng của Victor Criss, hai mươi bảy năm về trước, đầu cậu ta đứt lìa dưới lòng đất Derry. Thủ phạm giật phăng đầu cậu ta là con quái vật Frankenstein. Henry đã tận mắt chứng kiến điều này xảy ra, sau đó, hắn trông thấy con quái vật đưa mắt đi chỗ khác và cảm nhận được ánh nhìn vàng vọt ướt nước của nó đang chĩa thẳng vào mình. Phải, con quái vật Frankenstein ấy đã kết liễu Victor, rồi tiếp đến là Ợ Hơi, nhưng giờ Vic lại có mặt ở đây, như chương trình chiếu lại các bộ phim trắng đen ma mị từ Nifty Fifties, khi tổng thống còn hói và xe Buick còn gắn cửa gió.
Nhưng giờ đây, khi việc này xảy ra, khi giọng nói vang lên, Henry thấy bản thân mình bình tĩnh, không chút sợ hãi. Thậm chí, hắn có phần nhẹ nhõm.
“Henry,” Victor nói.
“Vic!” Henry hét lên. “Mày làm gì dưới đó vậy?”
Benny Beaulieu khụt khịt nói mơ. Nhịp hít vào thở ra đều như vắt tranh từ cái máy may qua đường mũi của Jimmy dừng lại trong thoáng chốc. Ngoài sảnh, âm lượng trên chiếc ti vi Sony nhỏ của Koontz được hạ xuống, và Henry Bowers có thể cảm thấy gã ta đang nghiêng đầu sang một bên, một tay đặt trên nút âm lượng ti vi, tay kia chạm vào thỏi hình trụ phình lên trong túi áo trắng bên phải của mình – thỏi đựng xu nặng trịch ấy.
“Mày đừng bô bô cái mồm như thế, Henry,” Vic nói. “Mày chỉ cần nghĩ trong đầu là tao nghe được rồi. Những kẻ khác không nghe thấy tao đâu.”
“Mày muốn gì hả Vic?” Henry hỏi.
Suốt một lúc lâu không có lời nào đáp lại. Henry tưởng Vic đã biến mất. Ngoài cửa, âm lượng ti vi của Koontz đã to trở lại. Có một tiếng cào vang lên bên dưới giường, lò xo khẽ cọt kẹt khi một bóng đen thò ra từ bên dưới. Vic ngước nhìn hắn và nhe răng cười. Henry cười lại dù hơi khó chịu. Sao bây giờ Vic lại hao hao con quái vật Frankenstein thế nhỉ? Quanh cổ hắn là một vết sẹo trông chẳng khác nào hình xăm thòng lọng. Henry nghĩ có lẽ đó là vết đầu của thằng bạn mình được khâu lại. Mắt nó mang thứ màu xanh xám kỳ cục, giác mạc dường như lềnh phềnh trong một hợp chất lầy nhầy.
Vic vẫn ở tuổi mười hai.
“Tao cũng muốn điều mà mày muốn,” Vic lên tiếng. “Tao muốn trả thù bọn chúng.”
“Trả thù bọn chúng,” Henry Bowers mơ màng lặp lại.
“Nhưng để làm được điều đó, mày phải ra khỏi đây đã,” Vic nói. “Mày phải trở về Derry. Tao cần mày, Henry. Bọn tao cần mày.”
“Chúng nó không làm hại được Mày,” Henry nói, hắn hiểu hắn không chỉ đang trò chuyện với Vic.
“Bọn chúng không làm hại được tao nếu chúng chỉ tin nửa vời,” Vic nói. “Nhưng đã có vài dấu hiệu đáng lo, Henry ạ. Ngày ấy, bọn mình cũng không nghĩ chúng có thể đánh bại bọn mình. Nhưng thằng béo đã thoát khỏi tay mày cái đợt ở Vùng Đất Cằn. Thằng béo, thằng ba hoa và con khốn đã trốn khỏi chúng ta cái ngày xem phim xong. Còn trận chọi đá, chúng nó đã cứu được thằng mọi đen…”
Đừng nhắc tới chuyện đó nữa! Henry hét vào mặt Vic, trong phút chốc, bao nhiêu sự hống hách và ác nghiệt một thời khi hắn làm thủ lĩnh cả nhóm quay trở lại trong giọng hắn. Đoạn hắn rụt người, sợ Vic sẽ làm hại hắn – chắc chắn Vic thừa sức làm bất cứ thứ gì nó muốn, vì nó là một con ma – song Vic chỉ toét miệng cười.
“Tao có thể xử chúng nếu chúng tin nửa mùa,” nó nói, “nhưng mày vẫn còn sống, Henry. Mày có thể xử bọn nó, bất kể bọn nó tin hoàn toàn, tin nửa mùa hay chẳng tin chút nào. Mày có thể xử từng đứa một hoặc xử tất cả bọn chúng một lúc. Mày có thể trả thù bọn chúng.”
Trả thù bọn chúng, Henrg lặp lại. Đoạn hắn ngờ vực nhìn Vic. Nhưng tao không thể thoát khỏi đây, Vic ạ. Cửa sổ chăng dây rồi, và tối nay, Koontz trực cửa. Koontz là kẻ hung bạo nhất. Có thể tối mai…
“Koontz thì mày khỏi lo,” Vic nói, đoạn đứng dậy. Henry thấy nó vẫn mặc chiếc quần jean như cái hôm định mệnh ấy, ống quần vẫn dính bùn nước thải đã khô. “Để tao lo Koontz cho.” Vic chìa tay ra.
Sau chút lưỡng lự, Henry nắm lấy tay nó. Hắn cùng Vic bước về phía cánh cửa của Khu Xanh dương và phía phát ra âm thanh ti vi. Bọn chúng gần tới nơi thì Jimmy Donlin, thủ phạm ăn não của mẹ mình, thức giấc. Hắn trợn mắt khi trông thấy vị khách đến thăm Henry giữa đêm hôm khuya khoắt. Là mẹ của hắn. Váy lót của bà lộ ra chừng năm, sáu li, y như xưa. Phần đỉnh đầu đã biến mất. Đôi mắt đỏ ngầu của bà quay sang nhìn hắn, và khi bà cười, Jimmy trông thấy son môi dính trên hàm răng vàng khè như răng ngựa, y như xưa. Jimmy bắt đầu ré lên. “Đừng, mẹ ơi! Đừng mà mẹ! Đừng mà mẹ!”
Âm thanh ti vi lập tức im bặt, và trước khi những người khác lục đục trở dậy, Koontz mở phăng cánh cửa và nói, “Lũ khốn chúng mày, chuẩn bị nhặt quả đầu lúc nó bật lên sau khi đập xuống đất đi. Tao nhịn đủ rồi đấy.”
“Đừng, mẹ ơi! Đừng mà mẹ! Mẹ, con xin mẹ! Đừng mà mẹ!”
Koontz lao vào phòng. Đầu tiên hắn trông thấy Bowers, đứng sừng sững, bụng phệ ra, nhìn rõ là buồn cười trong bộ đồ bệnh nhân, da thịt bệu rệu bủng beo dưới ánh đèn hắt vào từ hành lang. Đoạn hắn nhìn sang trái và vận hết dung tích phổi la lên hai tiếng thất thanh thiếu điều làm bể cá thủy tinh. Đứng cạnh Bowers là một thứ vận bộ đồ hề. Nó phải cao đến hai mét rưỡi. Bộ quần áo nó mặc có màu bạc với những nút bông màu cam to tướng chạy dọc phía trước. Nó mang đôi giày quá cỡ trông rõ nực cười. Nhưng đầu nó không phải đầu người hay đầu hề mà là đầu của một con chó Doberman, giống loài duy nhất trên hành tinh xanh mà John Koontz thấy sợ. Mắt nó đỏ ngầu. Cái mõm màu đen trơn bóng của nó nhăn lại, khoe ra hàm răng khổng lồ.
Thỏi đựng xu rơi khỏi những ngón tay bủn rủn của Koontz, lăn long lóc vào góc nhà. Chiều tối hôm ấy, Benny Beaulieu, nhân vật ngủ không biết trời trăng gì, tìm thấy thỏi xu và giấu nhẹm chúng vào tủ cuối giường của mình. Hắn dùng xu mua thuốc lá – thuốc lá làm tay đàng hoàng - suốt cả tháng trời.
Koontz hít vào, toan thét lên lần nữa thì tên hề lao tới gã.
“Đến giờ diễn xiếc rồi!” Gã hề gầm lên, và đôi tay mang găng trắng của nó bóp lấy vai Koontz.
Có điều, bên trong đôi găng là móng vuốt.
3Lần thứ ba trong ngày hôm ấy – một ngày dài, dài đến vô tận – Kay McCall đi đến nơi để điện thoại.
Lần này, cô đi xa hơn hai lần trước, bởi lần này, cô đợi cho đến khi đầu dây bên kia có người nhấc máy, cô nghe thấy giọng nói hào sảng của một cảnh sát người Ireland “Đồn Cảnh sát đường số 6, trung úy O’Bannon xin nghe, tôi có thể giúp gì?” rồi mới cúp.
Mày làm thế là tốt rồi. Chúa ơi, tốt mà. Gọi lần thứ tám, thứ chín là mày sẽ dồn đủ can đảm để xưng tên với cảnh sát.
Cô bước vào bếp, pha một ly Scotch với sô-đa nhẹ đô, và dù cô biết có lẽ đây không phải ý hay sau khi nốc thuốc Darvon. Cô nhớ lại một đoạn trong bài nhạc đồng quê mà mấy quán cà phê đại học ngày cô còn trẻ hay mở – Nốc đầy đầu whiskey, đầy bụng gin/ Bác sĩ bảo uống coi chừng chết nhưng chẳng bảo khi nào – rồi phá lên cười khô khốc. Phía trên quầy rượu có một tấm gương. Trông thấy hình ảnh phản chiếu của mình, nụ cười của cô tắt ngúm.
Người phụ nữ này là ai?
Một bên mắt của cô sưng vù đến híp lại.
Người phụ nữ tả tơi này là ai?
Mũi cô như mũi kỵ sĩ say xỉn hơn ba mươi năm chiến đấu với cối xay, nhưng không phải cối xay gió mà là cối xay rượu gin, cái mũi sưng vêu đến khủng khiếp.
Người phụ nữ tả tơi này là ai? Người trông giống những bóng hình phải lê bước đến hội nương tựa cho phụ nữ sau khi đã quá sợ hãi, đủ can đảm, hoặc đơn giản là quá tức giận nên mới dứt áo ra đi khỏi gã đàn ông hành hạ họ, đánh đập họ tuần này qua tuần nọ, tháng này qua tháng nọ và năm này qua năm nọ?
Một bên má cô rách thành đường.
Cô ta là ai, Kay-Bird?
Một tay cô phải nẹp cố định.
Cô ta là ai? Có phải là mày không? Có thể nào là mày không?
“Đây rồi… Hoa hậu Hoa Kỳ,” cô hát, thầm mong giọng mình vang lên cứng cỏi và giễu cợt. Phần mở đầu của nó được như cô kỳ vọng, nhưng nó run rẩy ở âm tiết thứ bảy, vỡ vụn ở âm thứ tám. Giọng cô chẳng mạnh mẽ chút nào mà đầy sợ hãi. Cô biết điều đó, bởi ngày trước, cô từng sợ hãi và luôn biết cách để vượt qua. Nhưng cô đoán cô phải cần một khoảng thời gian dài mới có thể vượt qua sự việc lần này.
Vị bác sĩ băng bó cho cô trong gian phòng con con ở Phòng Tiếp nhận Cấp cứu Bệnh viện Bà Phước cách nhà cô khoảng tám trăm mét còn trẻ, dung mạo không quá tệ. Nếu là trường hợp khác, cô đã có thể nhẩn nha (hoặc không nhẩn nha cho lắm) nghĩ tới chuyện kéo anh ta về nhà làm một chuyến du lịch mây mưa khắp thế gian. Nhưng hiện giờ, cô không có nhã hứng lên giường. Đau đớn không tạo điều kiện cho ham muốn dâng cao. Sợ hãi cũng vậy.
Vị bác sĩ có tên là Geffin, và cô mặc kệ cách anh ta nhìn chằm chằm vào mình. Anh lấy một chiếc cốc giấy trắng nhỏ đến bồn nước trong phòng, rót nửa ly, lấy gói thuốc lá từ trong ngăn kéo bàn và đưa cho cô.
Cô lấy một điếu, anh châm lửa cho cô. Anh phải căn que diêm vào đầu thuốc mất một, hai giây vì tay cô run bần bật. Anh thả que diêm vào ly giấy. Xèoooo.
“Thói quen tuyệt vời,” anh nói. “Nhỉ?”
“Không có gì trên miệng là bứt rứt,” Kay đáp.
Anh gật đầu, và hai người chìm vào im lặng. Anh chỉ trân trân nhìn cô. Cô có cảm giác anh nghĩ cô sắp khóc, và điều đó làm cô tức điên vì cô thấy mình sắp nhòe lệ tới nơi. Cô ghét khi người ta đoán được trước cảm xúc của mình, đặc biệt khi đối phương là nam giới.
“Bạn trai à?” Mãi lúc sau thì anh lên tiếng.
“Tôi không muốn bàn về việc này.”
”Ừ hử.” Anh hút thuốc và nhìn cô.
“Mẹ anh không dạy anh rằng việc nhìn chằm chằm vào người khác là rất bất nhã sao?”
Cô muốn giọng mình nghe thật góc cạnh, nhưng lời cô phát ra tựa hồ van xin: Đừng nhìn tôi nữa, tôi biết mình trông thế nào, tôi thấy rồi. Theo sau suy nghĩ ấy là một suy nghĩ mà cô đoán người bạn Beverly của cô hẳn đã nhiều lần có trong đầu, rằng phần tồi tệ nhất của đánh đập xảy ra bên trong, nơi ta phải chịu đựng tình trạng mang tên chảy máu tâm hồn. Cô biết bộ dạng cô trông ra sao, phải. Tệ hơn nữa, cô biết cô cảm thấy thế nào. Cô thấy vàng vọt, và cảm giác ấy thật sự rất u tối.
“Tôi sẽ chỉ nói một lần,” Geffin nói. Giọng anh trầm thấp và dễ chịu. “Khi tôi làm việc ở phòng cấp cứu – cô có thể nói tôi tự đưa đầu vào rọ - hằng tuần, tôi thấy hơn hai mươi phụ nữ bị đánh đập. Các thực tập sinh phải chữa trị cho hơn hai mươi người nữa. Nên nhìn trên bàn đằng kia kìa – có điện thoại đấy. Cước gọi tôi lo. Cô gọi đến Đồn Cảnh sát đường số 6, cho họ tên và địa chỉ, kể với họ chuyện gì đã xảy ra, danh tính kẻ hành hung. Sau đó cô cúp máy, còn tôi sẽ đi lấy chai bourbon cất trong tủ đựng hồ sơ - cô hiểu nó chỉ dành cho mục đích y học chứ nhỉ – và ta sẽ nhâm nhi một chút. Vì tôi nghĩ thế này, chỉ là quan điểm cá nhân của tôi thôi nhé, rằng trên đời chỉ có một thứ mạt hạng hơn hạng đàn ông vũ phu, đó là con chuột mắc giang mai.”
Kay mỉm cười đầy mệt mỏi. “Tôi rất trân trọng lời đề nghị của anh,” cô nói, “nhưng tạm thời tôi xin kiếu.”
“Ừ hử,” anh đáp. “Nhưng khi cô về đến nhà, hãy nhìn thật kỹ bản thân mình trong gương, cô McCall. Bất kể là ai, hắn đã thượng cẳng chân hạ cẳng tay với cô không chút thương tiếc”
Và rồi mắt cô ầng ậng nước, cô không ngăn nổi.
Một ngày sau ngày cô tiễn Beverly lên đường bình an, Tom Rogan gọi điện cho cô vào buổi trưa, hỏi liệu Kay có liên lạc gì với vợ hắn không. Hắn ra vẻ bình tĩnh, lý trí, không chút bực mình. Kay đáp gần hai tuần nay cô không gặp gỡ Beverly rồi. Tom cảm ơn cô rồi cúp máy.
Đến khoảng 1 giờ, lúc cô đang viết lách trong phòng làm việc thì chuông cửa reo lên. Cô bước ra cửa.
“Ai đấy?”
“Tôi là nhân viên của Tiệm hoa Cragin’s,” một giọng nói the thé vang lên, cô tự trách mình ngu xuẩn khi không nhận ra Tom eo éo giả giọng, cô tự trách mình đần độn khi nghĩ Tom lại từ bỏ dễ dàng đến thế, cô tự trách mình ấu trĩ khi tháo dây xích trước khi mở cửa.
Hắn lao vào nhà, và cô chỉ vừa kịp nói “Anh bước ra kh…” thì nắm đấm của Tom đã bất thình lình vụt tới, lao thẳng vào bên mắt phải của cô, khiến mắt cô phải nhắm tịt lại và đầu cô đau đớn đến bàng hoàng. Cô loạng choạng lùi lại hành lang, vừa đi vừa bấu víu vào đồ vật để giữ thăng bằng: bình hoa tao nhã cắm một bông hồng bể vụn trên sàn gạch, cây treo áo bị đổ. Cô ngã dúi dụi lúc Tom đóng cánh cửa chính sau lưng hắn và bước về phía cô.
“Biến khỏi đây ngay!” cô thét lên với hắn.
“Mày nói cho tao biết nó ở đâu thì tao đi,” Tom hằm hè, tiến lại hành lang về phía cô. Cô lờ mờ nhận ra Tom nhìn có vẻ không ổn lắm – chà, thấy phát gớm có khi chính xác hơn – và cô nhận thấy một niềm vui lấp ló nhưng bạo liệt trào dâng trong cô. Bất kể Tom đã làm gì Bev, xem ra Bev đã trả lại, cả vốn lẫn lãi. Gì thì gì, Bev đã cầm chân được hắn những một ngày kia mà – và trong bộ dạng hắn đáng ra phải vào viện chứ không phải ở đây.
Nhưng mặt khác, trông hắn rất độc ác và giận dữ.
Kay lảo đảo đứng dậy và lùi lại, mắt nhìn chằm chằm vào hắn như cách ta nhìn thú hoang mới sổng chuồng.
“Tôi đã nói tôi không gặp Bev và đó là sự thật,” cô nói. “Giờ thì mời anh bước ra khỏi đây trước khi tôi báo cảnh sát.”
“Mày đã gặp nó,” Tom gầm gừ. Đôi môi sưng vù dường như mỉm cười. Cô thấy hàm răng của hắn lởm chởm đến lạ lùng. Mấy chiếc răng ở phía trước còn bị mẻ. “Lúc tao gọi điện hỏi mày không biết Bev ở đâu, mày nói hai tuần nay mày chưa gặp nó. Không một câu hỏi. Không một lời rủa xả, dù tao thừa biết mày ghét tao đến tận xương tủy. Vậy con khốn ấy đâu rồi, con chết tiệt kia? Khai mau.”
Cô quay người, chạy đến cuối hành lang, định bụng trốn vào phòng nghỉ, đẩy sập cánh cửa kéo màu gụ trên thanh ray rồi xoay chốt. Cô đến cửa trước hắn ta – hắn đi tập tễnh – song cô chưa kịp kéo cửa đóng lại thì hắn đã lách người vào giữa. Hắn giật mạnh người và nhào vào trong. Cô cuống cuồng chạy, nhưng hắn chộp được váy và kéo cô mạnh đến độ phần lưng váy toạc thẳng xuống eo. Vợ mày may cái váy này cho tao đấy, thằng thối tha, cô nhập nhằng nghĩ, và rồi người cô bị lật lại.
“Nó ở đâu?”
Kay giơ tay tát một cú trời giáng khiến đầu hắn ngửa ra sau và khiến vết cắt bên trái mặt gã rỉ máu trở lại. Hắn chộp lấy tóc, kéo đầu cô thẳng vào nắm đấm của gã. Trong khoảnh khắc, cô có cảm giác mũi mình nổ tung. Cô thét lên, hớp lấy không khí để hét lần nữa nhưng máu chảy làm cô sặc sụa. Cô sợ hãi đến cùng cực. Cô chưa từng hay biết trên vòm trời rộng lớn này lại có thể tồn tại nhiều kinh hoàng đến thế. Tên khốn kiếp điên khùng này sắp giết cô tới nơi.
Cô không ngừng la hét, nắm đấm của hắn thụi vào bụng cô, đẩy không khí ra khỏi phổi, khiến cô chỉ biết thở dốc. Vừa ho vừa thở dốc, trong phút giây hoảng loạn, cô còn tưởng mình sắp chết ngạt đến nơi.
“Nó ở đâu?”
Kay lắc đầu. “Tôi chưa… gặp,” cô thở dốc. “Cảnh sát… anh sẽ vào tù… đồ khốn…”
Hắn đẩy cô ngã xuống, và rồi cô cảm nhận vai mình bủn rủn. Nó đau, đau đến lả người. Hắn lật người cô lại, vẫn giữ lấy tay cô, đoạn bẻ cẳng tay cô ra sau lưng, và cô phải cắn môi, hứa với bản thân rằng mình sẽ không thét lên nữa.
“Nó ở đâu?”
Kay lắc đầu.
Hắn lại kéo tay cô lên, mạnh đến độ cô nghe thấy tiếng hắn gầm gừ. Hơi thở nóng hổi của hắn phả vào tai cô. Cô cảm thấy bàn tay phải đang nắm chặt của mình đập vào vai trái, cô không nhịn nổi mà thét lên vì vai cô quá nhức.
“Nó ở đâu?”
”… biết…”
“Cái gì?”
“Tôi không BIẾT!”
Hắn buông cô ra và đẩy cô thật mạnh. Cô ngã rạp xuống sàn, nước mắt giàn giụa, nước mũi và máu chảy ra từ mũi. Có một tiếng vỡ vui tai vang lên, và khi nhìn quanh, cô nhận ra Tom đang cúi người trên cô. Hắn đã đập bể phần đầu lọ hoa bằng pha lê Waterford. Hắn cầm bình hoa, phần cổ sắc nhọn cách mặt cô chỉ vài phân. Cô ngẩn người nhìn chằm chằm vào chiếc bình.
“Để tao nói mày điều này,” hắn nói, ngôn từ phá thành những làn hơi ấm nóng, “liệu thần hồn mà nói cho tao biết nó đã đi đâu, còn không thì chuẩn bị lượm lặt khuôn mặt mình dưới đất đi. Mày có ba giây, có khi chưa tới ba giây đâu. Khi tao nổi điên, thời gian trôi nhanh lắm.”
Mặt mình, cô nghĩ, và đó là nguyên do cô đầu hàng… hoặc nhượng bộ, nếu nói thể lọt lỗ tai hơn: con quái vật này dọa rạch mặt cô bằng bình hoa Waterford lỉa chỉa.
“Cô ấy về quê rồi,” Kay khóc. “Về quê cũ. Derry. Là một thị trấn mang tên Derry ở Maine.”
“Nó đi bằng gì?”
“Cô ấy đi x-x-xe khách đến Milwaukee rồi bắt chuyến bay từ đó.”
“Con tiện nhân khốn kiếp!” Tom gầm lên, đứng bật dậy. Hắn vòng tới vòng lui một cách vô định, hai tay vò đầu làm mớ tóc bù xù chỉa lên tua tủa. “Con đàn bà đĩ thõa , con chó cái , con đàn bà ăn hại !” Hắn nhấc bức tượng điêu khắc bằng gỗ tinh xảo một người đàn ông và một người phụ nữ đang âu yếm nhau – cô có bức tượng này từ năm hai mươi hai tuổi – rồi ném thẳng vào lò sưởi khiến tượng vỡ tan tành. Hắn nhìn chằm chằm bóng mình phản chiếu trong gương một lúc, mắt trợn trừng, như thể đang gặp ma. Đoạn hắn vòng lại chỗ cô. Hắn lôi một thứ từ trong túi áo khoác hắn đang mặc, cô nhìn theo, ngây ngô cảm thán hóa ra là một cuốn tiểu thuyết bìa mềm. Bìa cuốn sách gần như đen thui, chỉ có những con chữ dát đỏ ghi tựa sách và hình vẽ vài thanh niên đứng trên bờ sông. Con nước đen.
“Thằng khốn này là ai?”
“Hả? Cái gì?”
“Denbrough. Denbrough.” Hắn mất bình tĩnh lắc tới lắc lui cuốn sách trước mặt cô, đoạn dùng nó tát cô. Má cô lại bừng bừng vì đau, rồi nó cứ thế nhói lên như than trong lò. “Hắn ta là ai?”
Cô dần hiểu ra.
“Họ là bạn của nhau. Từ thuở bé. Cả hai cùng lớn lên ở Derry.” Hắn lại tiếp tục lấy sách quất cô, lần này là ở má bên kia.
“Tôi xin anh,” cô khóc. “Tôi xin anh, Tom.”
Hắn lôi chiếc ghế phong cách Mỹ thuộc địa với chân ghế mảnh mai và dài đến trước mặt cô, xoay nó lại rồi ngồi xuống. Khuôn mặt như quả bí Halloween của hắn nhìn xuống cô qua lưng ghế.
“Mày nghe đây,” hắn lên tiếng. “Mày nghe ông chủ Tommy của mày nói đây. Mày làm được không, con chó cái bô bô quyền phụ nữ kia?”
Cô gật đầu. Cô có thể cảm nhận vị máu, nóng rẫy và tanh nồng trong cổ họng mình. Vai cô bừng bừng như lửa đốt. Cô cầu mong nó chỉ bị trật khớp chứ không bị gãy. Nhưng đó chưa phải điều tồi tệ nhất. Mặt mình, hắn ta sắp rạch mặt mình đến nơi…
“Nếu mày gọi cảnh sát và tố cáo tao đến đây, tao sẽ chối bay chối biến. Mày đếch có bằng chứng gì đâu. Hôm nay giúp việc nhà tao nghỉ và bọn tao chỉ có hai người. Tất nhiên, chúng nó có thể gô cổ tao lại, chuyện gì chẳng có thể xảy ra, phải không?”
Cô gật đầu trong vvô thức, tựa hồ đầu cô đang bị giật dây.
“Hẳn rồi. Và việc tao sẽ làm là nộp tiền bảo lãnh rồi quay lại đây ngay lập tức. Người ta sẽ tìm thấy vếu mày trên bàn bếp và mắt mày trong bình nuôi cá. Mày hiểu ý tao chưa? Mày hiểu ý ông chú Tommy của mày chưa?”
Kay lại òa lên khóc. Sợi dây cột vào đầu vẫn hoạt động, đầu cô giật lên giật xuống.
“Lý do là gì?”
“Cái gì? Tôi… Tôi không biết.”
“Tỉnh táo lên đi, vì Chúa! Tại sao nó lại về quê?”
“Tôi không biết!” Kay gần như thét lên. Hắn kề bình hoa bị bể vào mặt cô.
“Tôi không biết,” cô hạ giọng. “Tôi xin anh. Cô ấy không kể với tôi. Xin anh đừng làm hại tôi.”
Vứt bình hoa vào thùng rác, hắn đứng dậy.
Hắn bỏ đi mà không buồn quay lại, đầu cúi gằm, lừng lững, lăm le như con gấu.
Cô vội vàng chạy sau hắn rồi khóa cửa lại. Cô chạy vào bếp, khóa luôn cửa sau. Khựng lại một hồi, cô tập tễnh lên tầng (bụng đau nên cô ráng được chừng nào hay chừng đó) và khóa luôn cánh cửa dẫn ra hàng hiên – biết đâu hắn nổi hứng đu cột trèo lên đây và mò vào nhà cô theo lối này thì sao. Hắn ta bị thương, nhưng hắn vẫn là một tên điên.
Cô lần đến điện thoại, chưa kịp chạm tay lên ống nghe thì những lời hắn nói hiện lên trong đầu.
Việc tao sẽ làm là nộp tiền bảo lãnh rồi quay lại đây ngay lập tức… vếu mày trên bàn bếp và mắt mày trong bình nuôi cá.
Cô rụt tay khỏi chiếc điện thoại.
Lúc sau, cô bước vào nhà vệ sinh, nhìn chiếc mũi to như quả cà chua đang rỉ máu và đôi mắt đen sì của mình. Cô không khóc, nỗi nhục nhã và sợ hãi cứa vào lòng cô đến độ chẳng còn chỗ cho nước mắt. Ôi Bev ơi, tớ đã cố hết sức rồi, bạn ơi, cô thầm nhủ. Nhưng mặt tớ… hắn dọa sẽ rạch mặt tớ…
Trong tủ thuốc của cô có Darvon và Valium. Cô cân nhắc giữa hai loại rồi rốt cuộc nuốt mỗi thứ một viên. Đoạn cô đến Bệnh viện Bà Phước để chữa trị và gặp bác sĩ nổi tiếng Geffin, hiện tại là người đàn ông duy nhất trên trần đời cô sẽ không thấy vui nếu anh bị cuốn phăng khỏi quả đất.
Và rồi sau đó cô lại dung dăng dung dẻ về nhà.
Bước đến cửa sổ phòng ngủ, cô nhìn ra ngoài. Tà dương ngả bóng trên đường chân trời. Bờ Đông hẳn đã chuyển sang chang vạng - ở Maine sắp sửa 7 giờ tối.
Mày có thể quyết định sau này báo cảnh sát hay không. Điều quan trọng hiện tại là phải cảnh báo Beverly.
Beverly yêu quý của tớ, giá mà cậu nói với tớ nơi cậu sẽ ở thì dễ hơn biết mấy, Kay thầm nhủ, nhưng có lẽ lúc đó, bản thân cậu cũng chưa biết phải không.
Dù đã bỏ thuốc lá hai năm trước, cô vẫn giữ một gói Pall Mall trong ngăn kéo bàn làm việc phòng trường hợp khẩn cấp. Rút một điếu thuốc, cô nhăn mặt. Lần cuối cùng cô hút gói thuốc này là tháng Mười hai năm 1982, và nó còn cũ rích hơn cả vụ tranh cãi về Bản sửa đổi Quyền bình đẳng ERA ở Thượng nghị viện bang Illinois. Thế nhưng cô vẫn hút, một mắt khép hờ trong làn khói, một mắt khép hờ nhờ công của Tom Rogan.
Chật vật dùng tay trái – tên khốn kiếp kia đã làm trật tay thuận của cô – cô gọi đến tổng đài Maine hỏi xin tên cùng số điện thoại của tất cả khách sạn, nhà nghỉ ở Derry.
“Điều này sẽ tốn kha khá thời gian ạ,” nhân viên trực tổng đài ngần ngừ.
“Sẽ tốn nhiều thời gian hơn thế nữa, em gái,” Kay nói. “Tôi sẽ phải viết bằng tay không thuận. Tay thuận của tôi đi du lịch rồi.”
“Ít khi mọi người…”
“Nghe tôi nói này,” Kay từ tốn cắt ngang. “Tôi đang gọi cho cô từ Chicago, và tôi đang tìm cách liên lạc với một người bạn vừa dứt áo ra đi khỏi chồng rồi trở lại Derry, nơi cô ấy lớn lên. Ông chồng biết cô ấy đi đâu. Hắn ta đập tôi thừa sống thiếu chết để lấy bằng được thông tin. Hắn ta điên rồi. Cô ấy cần phải biết hắn ta đang mò đến.”
Có một khoảng lặng dài, đoạn cô tổng đài viên lên tiếng, giọng cảm thông hẳn, “Tôi nghĩ số điện thoại chị thật sự cần lúc này là số của Sở Cảnh sát Derry.”
“Được. Cho tôi cả số ấy nữa. Nhưng tôi phải cảnh báo bạn mình,” Kay nói. “Và…” cô nghĩ đến hai má chằng chịt vết cắt, cục u trên trán, trên thái dương, dáng đi tập tễnh, đôi môi sưng và phát gớm của Tom. “Và cô ấy chỉ cần biết hắn đang mò đến là đủ rồi.”
Lại một khoảng im lặng kéo dài. “Cô còn ở đó không, em gái?” Kay hỏi.
“Nhà nghỉ Arlington,” cô tổng đài viên đọc, “643-8146. Nhà nghỉ công viên Bassey, 648-4083. Nhà nghỉ Bunyan…”
“Chậm lại một chút nhé?” cô nói, tay hí hoáy viết. Cô tìm gạt tàn nhưng chẳng thấy, bèn dập điếu Pall Mall lên miếng lót bàn. “Rồi, cô đọc tiếp đi.”
“Nhà nghỉ Clarendon…”
4Gọi cuộc thứ năm thì nửa vận may mỉm cười với cô. Tên của Beverly Rogan có ở Nhà nghỉ Thị trấn Derry. Cô chỉ may mắn một nửa vì Beverly đang ra ngoài. Cô để lại tên, số điện thoại cùng lời nhắn Beverly gọi lại cho cô ngay lập tức khi về đến nơi, dù trễ đến mức nào.
Tổng đài viên lặp lại lời nhắn. Kay lên lầu, uống thêm một viên Valium. Cô nằm xuống và đợi giấc ngủ ập tới mà chẳng thấy nó viếng thăm. Tớ xin lỗi, Bev, cô thầm nghĩ, mắt nhìn vào bóng tối, đầu óc mơ màng do ngấm thuốc. Tớ không thể chịu nổi lời hắn đe dọa sẽ làm với khuôn mặt của tớ… Gọi cho tớ sớm nhé Bev. Xin cậu, hãy mau gọi cho tớ. Và coi chừng thằng khốn kiếp thần kinh mà cậu cưới làm chồng.
5Thằng khốn kiếp thần kinh mà Bev cưới làm chồng chuyển tiếp tốt hơn Beverly hôm trước vì hắn khởi hành từ O’Hare, trung tâm các hãng hàng không thương mại ở Hoa Kỳ lục địa. Trong suốt chuyến bay, hắn đọc đi đọc lại thông tin sơ lược về tác giả in ở cuối cuốn tiểu thuyết Con nước đen . Nó ghi William Denbrough sinh ra New England và là tác giả của ba cuốn tiểu thuyết khác (phần ghi chú còn nhiệt tình cho hay các tác phẩm này đều có phiên bản bìa mềm Signet). Anh ta sống cùng vợ, nữ diễn viên Audra Phillips ở California. Hiện tại, anh ta đang sáng tác tác phẩm mới. Để ý cuốn Con nước đen này được phát hành năm 1976, Tom đoán hẳn gã này đã sáng tác thêm vài cuốn tiểu thuyết mới.
Audra Phillips… nếu không làm thì hắn từng xem phim có cô ta đóng thì phải? Hắn chẳng mấy khi để ý diễn viên nữ – dạng phim mà Tom đánh giá cao là phim phá án, rượt đuổi hoặc phim quái vật – nhưng có khi cô ả này chính xác là người hiện lên trong đầu gã, bởi gã từng rất để ý đến cô ta vì dung mạo cô này nhìn y hệt Beverly: mái tóc dài đỏ rực, mắt xanh lá, bầu ngực tròn trịa.
Hắn sửa tư thế ngồi ngay ngắn hơn, gõ gõ cuốn sách vào chân, cố lờ đi cơn đau nhói trên đầu và miệng. Phải, hắn dám chắc như đinh đóng cột rằng Audra Phillips là cô ả tóc đỏ với vòng một đẫy đà. Hắn từng thấy cô trong bộ phim của Clint Eastwood và một năm sau trong bộ phim kinh dị mang tên Mặt Trăng ngoài mộ . Hắn đã đi xem bộ phim này cùng Beverly, và khi ra khỏi rạp chiếu, hắn nhắc đến việc mình thấy nữ diễn viên trông rất giống cô. “Em lại không thấy thế," Bev nói. “Em cao hơn, với lại cô ấy xinh hơn mà. Tóc cô ấy cũng đỏ đậm hơn em.” Họ chỉ nói có thế. Hắn chẳng nghĩ gì thêm, cho đến bây giờ.
Anh ta sống cùng vợ, nữ diễn viên Audra Phillips…
Tom có chút hiểu biết lượm lặt về tâm lý học; hắn từng vận đến nó để thao túng vợ mình trong suốt khoảng thời gian kết hôn. Và hiện giờ, một cảm giác khó chịu dai dẳng cứ thế chọc ngoáy tâm trí hắn, nhưng nó phần nhiều là cảm giác chứ không phải suy nghĩ. Nó xoay quanh chuyện Bev và gã Denbrough kia từng chơi đùa với nhau lúc còn bé, về sau, gã Denbrough ấy lại kết hôn với một phụ nữ nhìn giống vợ của Tom Rogan như lột, dù Beverly không thấy thế.
Rốt cuộc Denbrough và Beverly chơi trò gì với nhau lúc bé nhỉ? Trò gõ cửa hôn nhau à? Hay trò xoay chai trúng người nào thì hôn người ấy?
Hay còn trò gì khác?
Tom ngồi trên ghế, gõ cuốn sách vào chân và cảm thấy hai bên thái dương giật thình thịch.
Khi hắn đến Sân bay Quốc tế Bangor rồi ra quầy thuê xe ô tô, mấy cô nhân viên – người mặc áo vàng, người mặc áo đỏ, lại có người mặc áo xanh màu cờ Ireland – nhìn khuôn mặt bầm dập nguy hiểm của gã với vẻ đầy lo lắng và nói (bằng giọng còn lo lắng hơn) họ không còn xe cho thuê nên rất xin lỗi.
Tom ra quầy báo, mua một tờ báo Bangor. Hắn lật đến mục quảng cáo, mặc kệ ánh nhìn từ những người đi ngang qua rồi lọc ra ba mẩu tin đáng chú ý. Chó ngáp phải ruồi, hắn gặp may ngay cuộc gọi thứ hai.
“Trên báo đăng anh có chiếc wagon TLD ‘76. Một nghìn bốn trăm đô-la.”
“Đúng rồi.”
“Tôi đề nghị thế này,” Tom nói, đưa tay sờ vào chiếc ví cất trong túi. Nó chứa đầy tiền mặt- sáu nghìn đô-la. “Anh lái nó đến sân bay và chúng ta chốt ngay tại chỗ. Anh đưa tôi chiếc xe, hóa đơn và giấy tờ. Tôi sẽ đưa anh tiền mặt.”
Người rao bán chiếc LTD khựng lại một chút rồi nói, “Tôi sẽ gỡ biển số xe xuống.”
“Được.”
“Vậy tôi nhận diện anh thế nào, thưa anh…?”
“Cứ gọi tôi là Barr,” Tom đáp. Lúc ấy, hắn đang nhìn tấm biển treo ở sảnh ga hàng không đề BAR HARBOUR AIRLINES TẶNG BẠN NEW ENGLAND – VÀ CẢ THẾ GIỚI! “Tôi sẽ đứng ở cánh cửa xa nhất. Anh sẽ nhận ra tôi vì mặt mũi tôi nhìn không sáng sủa cho lắm. Hôm qua, tôi và vợ đi trượt patin, và tôi bị ngã dập mặt. Tôi nghĩ số mình còn may chán. Tôi không gãy gì ngoài bầm mặt.”
“Chậc, tôi rất lấy làm tiếc, anh Barr.”
“Tôi sẽ sớm khỏi ấy mà. Nhờ anh đem xe đến đây nhé, bạn hiền.”
Hắn cúp máy, qua cửa, bước vào trời đêm tháng Năm ấm áp nồng nàn.
Chừng mười phút sau, chủ chiếc xe LTD xuất hiện dưới bầu trời hoàng hôn cuối xuân. Hóa ra cậu ta trẻ măng. Tiền trao cháo múc xong cậu nhóc hí hoáy ghi hóa đơn cho Tom, hắn hờ hững nhét vào túi áo khoác. Hắn đứng đó, nhìn cậu nhóc tháo biển số Maine của chiếc LTD.
“Anh gửi thêm ba đô, chú cho anh cái tua vít nhé,” Tom nói sau khi cậu nhóc tháo biển xong.
Cậu nhóc tư lự nhìn hắn một lúc rồi nhún vai, đưa hắn tua vít, nhận ba đô-la mà Tom chìa ra. Động tác nhún vai ấy như muốn nói Dù sao cũng chẳng phải việc của tôi và Tom thầm nghĩ: Đúng đắn quá, cậu bạn bé nhỏ. Tom nhìn cậu ta bước lên tắc-xi rồi mới ngồi vào phía sau tay lái chiếc Ford.
Chiếc xe như đống đồng nát: bộ truyền động kêu ken két, cả chiếc xe cọc cạch, loảng xoảng, thắng không ăn. Nhưng cũng chẳng thành vấn đề. Hắn đánh xe vào bãi đậu xe dài hạn, lấy thẻ rồi lái vào trong. Hắn đậu cạnh một chiếc Subaru trông có vẻ đã ở đây suốt thời gian dài. Hắn dùng tua vít của cậu nhóc ban nãy để tháo biển số xe của chiếc Subaru rồi gắn lên chiếc LTD. Vừa làm, hắn vừa ngân nga trong miệng.
Đến 10 giờ đêm, hắn đã bon bon trên Tuyến số 2 lái lên phía đông, bản đồ Maine trải trên ghế bên cạnh. Hắn phát hiện ra-đi-ô của xe không hoạt động nên hắn lại trong im lặng. Như vậy cũng chẳng sao. Hắn có khối thứ cần phải nghĩ. Tỉ dụ như tất tần tật những điều tuyệt vời ông mặt trời mà hắn sẽ làm với Beverly sau khi tóm cổ được cô ả chẳng hạn.
Trong lòng, hắn dám chắc chắn, tương đối chắc chắn, rằng Beverly cách hắn chẳng xa.
Và hẳn cô đang hút thuốc.
Ôi em yêu ơi, em giỡn mặt với Tom Rogan là em chọc vào ổ kiến lửa rồi. Và câu hỏi đặt ra là – chúng ta sẽ xử em thế nào đây nhỉ?
Chiếc Ford băng băng chạy trong đêm, đuổi theo ánh đèn pha của mình, và khi Tom đến Newport, hắn đã biết câu trả lời. Hắn tìm thấy một tiệm bán thuốc và hàng tạp hóa vẫn còn mở cửa trên con phố chính. Hắn bước vào, mua một cây thuốc Camel. Chủ tiệm chúc hắn buổi tối tốt lành và hắn chúc lại câu tương tự.
Thảy cây thuốc lên ghế bên cạnh, hắn tiếp tục lên đường. Hắn chạy từ từ lên Tuyến số 7, chăm chăm tìm chỗ rẽ. Kia rồi – Tuyến số 3, với biển báo đề HAVEN 21 DERRY 15.
Rẽ vào Tuyến số 3, hắn đạp ga cho chiếc Ford tăng tốc. Liếc nhìn cây thuốc lá, hắn khẽ mỉm cười. Dưới ánh đèn xanh lá của bảng điều khiển, khuôn mặt xước xát và sưng vù của hắn trông kỳ dị như ma quỷ.
Anh mua thuốc lá cho em đây, Bevvie, Tom thầm nhủ khi chiếc xe lăn bánh giữa hai hàng cây thông và vân sam, hướng thẳng đến Derry với tốc độ hơn chín mươi cây số một giờ. Ừ, đúng rồi. Hẳn một cây luôn đấy nhé. Dành tặng riêng cho em đấy. Khi gặp em, anh sẽ bắt em ăn từng điếu một. Và nếu gã Denbrough kia cần được dạy dỗ thì để anh cho hắn một bài học. Chuyện nhỏ như con thỏ, Bevvie ạ. Nhỏ như con thỏ ấy mà.
Lần đầu tiên kể từ khi bị con đàn bà khốn kiếp tấn công bất ngờ rồi bỏ của chạy lấy người, Tom mới cảm thấy vui được chút ít.
6Audra Denbrough đáp chuyến bay hạng thương gia của hãng hàng không British Airways trên máy bay DC-10. Cô rời Heathrow lúc 6 giờ 10 tối hôm ấy và đuổi theo mặt trời từ lúc đó đến giờ. Mặt trời vẫn đang thắng - nói đúng hơn là đã thắng - nhưng chuyện đó chẳng mấy quan trọng. Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cô phát hiện chuyến bay 23 của hãng British Airways, từ London đến Los Angeles, có dừng lại để tiếp nhiên liệu… ở Sân bay Quốc tế Bangor.
Ngày hôm ấy thật sự là một cơn ác mộng. Freddie Firestone, nhà sản xuất bộ phim Phòng áp mái , tất nhiên muốn gặp Bill bàn rõ ngọn ngành. Phát sinh trục trặc với cô diễn viên đóng thế vốn dĩ sẽ đóng cảnh ngã xuống cầu thang thay Audra. Hóa ra diễn viên đóng thế cũng có hiệp đoàn, và nữ diễn viên kia đã hoàn thành hạn mức đóng thế trong tuần hay thứ ngớ ngẩn gì đó. Hiệp đoàn yêu cầu Freddie phải ký một bản tăng lương hoặc thuê nữ diễn viên khác đóng thay. Vấn đề nằm ở chỗ không có nữ diễn viên nào khác sở hữu thân hình sát với tạng người của Audra. Freddie hỏi ông chủ hiệp đoàn rằng thế thì họ sẽ phải thuê một nam diễn viên đóng thế sao? Cảnh bị ngã cũng không cần phải thực hiện trong bộ dạng khoe mông khoe ngực. Họ có bộ tóc giả màu nâu đỏ, nhân viên hóa trang có thể chữa cháy cho nam diễn viên bằng cách độn ngực và hông. Cả độn mông nếu cần.
Đó là điều bất khả thi, anh bạn ơi, ông chủ hiệp đoàn đáp thế. Để một người đàn ông làm việc thay cho phụ nữ đi ngược lại thể chế của hiệp đoàn. Đó là phân biệt giới tính.
Trong giới làm phim, ai cũng biết Freddie nổi tiếng nóng tính như lửa, và đến lúc này thì ông đã tức nước vỡ bờ. Ông rủa xả ông chủ hiệp đoàn, một lão béo với thứ mùi cơ thể thối điếc cả mũi, là đồ chết toi. Ông chủ hiệp đoàn nói Freddie liệu mà giữ mồm giữ miệng kẻo không có màn đóng thế nào trong bộ phim Phòng áp mái . Đoạn hắn ta xoa ngón cái và ngón trỏ vào nhau làm động tác xin đểu, lúc này, Freddie tức lồng lộn. Lão chủ hiệp đoàn to lớn nhưng người dặt dẹo; cò