DERRY TAO ĐOẠN THỨ BA
Chú chim sà xuống bên đường
Chẳng hề hay biết tôi giương mắt nhìn
Và rồi hơi thở lặng thinh
Căn đôi, nuốt sống thân mình chú giun.
Ngày 17 tháng 3 năm 1985
Trận cháy ở Điểm Đen xảy ra vào cuối thu năm 1930. Theo như những gì tôi có thể xác minh, vụ cháy ấy – vụ cháy khiến bố tôi đứng giữa lằn ranh sinh tử – kết thúc chuỗi án mạng và mất tích xảy ra trong năm 1929-1930, tương tự như vụ nổ ở Xưởng đúc đặt dấu chấm hết cho chu kỳ của hai mươi lăm năm trước đó. Dường như cần phải có một sự hy sinh khiếp đảm ở cuối chu kỳ để xoa dịu thế lực kinh hoàng đang hoành hành nơi đây… để đưa Nó chìm vào giấc ngủ trong một phần tư thế kỷ nữa.
Nhưng nếu cần phải có hy sinh để kết thúc mỗi chu kỳ, thì cần phải có một sự kiện tương đương để chu kỳ ấy bắt đầu.
Suy luận này đưa tôi đến vụ Băng đảng Bradley.
Vụ hành hình xảy ra ở giao lộ ba con đường: đường Kênh Đào, đường Chính và đường Kansas – cách không xa địa điểm trong bức ảnh chuyển động mà Bill cùng Richie trông thấy vào tháng Sáu năm 1958 – khoảng mười ba tháng trước trận cháy ở Điểm Đen, vào tháng Mười năm 1929… trước khi thị trường chứng khoán cắm đầu không lâu.
Bàn về vụ cháy ở Điểm Đen, rất nhiều người dân Derry xem chừng không nhớ chuyện gì đã xảy ra vào cái ngày định mệnh đó. Họ không có ở thị trấn hoặc đi thăm bà con. Hoặc chiều hôm ấy, họ đang ngủ và không hay biết biến cố ập tới cho đến khi nghe tin trên đài vào buổi tối. Hoặc họ đơn giản là trang tráo nhìn thẳng vào mặt anh và nói dối trắng trợn.
Lịch trực của cảnh sát hôm ấy cho thấy Cảnh sát trưởng Sullivan không có mặt ở thị trấn ( Tôi nhớ như in mà, ông Alaysius Nell kể với tôi trên ghế từ hiên sưởi nắng trong Viện dưỡng lão Paulson ở Bangor. Năm ấy là năm đầu tiên tôi gia nhập lực lượng, nên tôi nhớ kỹ lắm. Ông ấy đi săn chim ở miền tây Maine. Lúc ông ấy trở về, các nạn nhân đã được quấn lại và mang đi. Jim Sullivan nổi cơn tam bành ), nhưng bức hình trong cuốn sách tham khảo về các băng đảng mang tên Huyết thư và Ác nhân chụp một người đàn ông đang nở nụ cười đến tận mang tai bên cạnh thi thể xơi đầy kẹo đồng của Al Bradley trong nhà xác, và nếu người đó không phải Cảnh sát trưởng Sullivan thì hẳn ấy phải là em trai sinh đôi của ông ta.
Nhờ ông Keene mà cuối cùng, tôi mới hay phiên bản thực sự của câu chuyện - ông Norbert Keene, chủ tiệm thuốc đường Trung Tâm từ năm 1925 đến tận năm 1975. Ông không ngại trò chuyện với tôi, nhưng giống như bố của Betty Ripsom, ông yêu cầu tôi phải tắt máy thu âm rồi mới đồng ý khơi mở câu chuyện – mà thế cũng không thành vấn đề, tôi vẫn nghe thấy giọng nói mỏng tang của ông - một giọng hát capella trong ca đoàn bị nguyền rủa vốn là thị trấn này.
“Chẳng có lý do gì để ta không kể với cháu,” ông nói. “Chẳng có người nào chịu tin đâu, mà giả như có chăng nữa, cũng chẳng ai tin.” Ông đưa cho tôi một hộp đựng thuốc kiểu cổ. “Ăn que kẹo cam thảo không? Ta nhớ ngày xưa, cháu thích những que kẹo màu đỏ này lắm mà, phải không Mikey?”
Tôi nhón lấy một que. “Cảnh sát trưởng Sullivan có mặt hôm ấy không ạ?”
Ông Keene phá lên cười rồi lấy một que kẹo cam thảo cho mình. “Cháu thắc mắc chuyện này à?”
“Dạ phải,” tôi thành thật, miệng nhai kẹo cam thảo màu đỏ. Đã lâu lắm rồi, từ ngày còn bé đến giờ, những ngày còn đưa đồng xu lẻ cho một ông Keene trẻ trung hơn, tràn đầy nhựa sống hơn, tôi mới ăn lại loại kẹo này. Nó vẫn ngon như xưa.
“Ngày Bobby Thomson đánh cú home run cho đội Giants trong trận tranh suất vào vòng trong năm 1951, cháu còn quá bé nên có lẽ không nhớ,” ông Keene kể. “Lúc ấy cháu mới bốn tuổi đầu chứ nhiêu. Chà! Vài năm sau, người ta đăng báo về trận đấu và một triệu con người ở New York tuyên bố họ đã ở sân bóng vào ngày hôm ấy.” Ông Keene ngậm kẹo cam thảo, nước bọt màu tối nhễu ra từ khóe miệng. Ông lấy khăn mùi xoa chùi thật tỉ mẩn. Khi ấy, chúng tôi đang ngồi trong văn phòng đằng sau tiệm thuốc, dù ông Norbert Keene đã tám mươi lăm tuổi và đã nghỉ hưu mười năm, ông vẫn lo sổ sách cho cháu trai.
“Vụ Băng đảng Bradley thì ngược lại trăm tám mươi độ!” Keene cảm thán. Ông mỉm cười, nhưng nụ cười chẳng có vẻ gì là thoải mái – nụ cười ấy đa đoan, hồi tưởng một cách lạnh lùng. “Ngày ấy, có khoảng 20.000 người sống ở trung tâm thị trấn Derry. Đường Chính và đường Kênh Đào đã được lát đá bốn năm nhưng đường Kansas vẫn còn là đường đất. Mùa hè thì bụi tung mù mịt, tháng Tám và tháng Mười thì sình lầy. Qua tháng Sáu, người ta tráng dầu lên mặt đường đồi Dặm Trên, và cứ đến ngày 4 tháng 7, thị trưởng lại ba hoa về việc lát đường Kansas, dù rốt cuộc điều đó chẳng xảy ra cho đến tận năm 1942. Nó… ôi ban nãy ta đang nói gì nhỉ?”
“Khoảng 20.000 người sống ở trung tâm thị trấn Derry ạ,” tôi nhắc.
“À ừ. Chà, trong số 20.000 cư dân, có khoảng một nửa đã qua đời, hoặc có khi còn nhiều hơn – năm mươi năm là một quãng thời gian dài. Và ở Derry, chẳng hiểu nguyên cớ gì mà người ta chết trẻ nhiều lắm. Có lẽ là do không khí. Nhưng trong số những người còn sống, ta không nghĩ cháu sẽ tìm được hơn chục người bảo họ có mặt trong thị trấn vào cái ngày Băng đảng Bradley đến Tophet. Ta đoán ông Butch Rowden ở hàng thịt sẽ là một trong những người dám kể – ông ấy treo trên tường quầy thịt của mình tấm ảnh chụp một trong những chiếc xe. Nhìn bức hình, còn khuya mới biết được ấy là chiếc xe. Charlotte Littlefield có thể kể một đôi điều, nếu cháu biết cách lấy lòng bà ấy; bà ấy dạy ở trường trung học, và dù ta nhớ khi đó bà ấy chưa đến mười, mười hai tuổi, nhưng ta dám cá bà ấy nhớ rất nhiều. Carl Snow… Aubrey Stacey… Eben Stampnell… cả lão già chuyên vẽ những bức tranh kỳ cục và nốc rượu như hũ chìm suốt đêm ở Wally’s – nếu ta nhớ không lầm, lão ấy tên là Pickman thì phải – họ đều nhớ. Họ đều có mặt ở đấy mà…”
Giọng ông tắt dần, ông đưa mắt nhìn vào que kẹo cam thảo trong tay. Tôi toan chọt vào người ông nhưng lại thôi.
Mãi lúc sau, ông nói tiếp, “Đa phần mọi người sẽ nói dối, giống như cách người ta bịa đặt mình đã có mặt chứng kiến Bobby Thomson đánh cú home run, ý ta là thế. Nhưng người ta bịa chuyện họ có mặt ở trận bóng ấy vì họ ước ao mình thật sự có mặt. Còn những người nói dối với cháu rằng họ không ở Derry vào ngày hôm ấy vì họ ước họ không có mặt. Cháu có hiểu ý ta không, con trai?”
Tôi gật đầu.
“Cháu có chắc mình muốn nghe nốt câu chuyện không?” Ông Keene hỏi tôi. “Nhìn cháu xanh xao quá, Mikey.”
“Cháu không muốn nghe,” tôi đáp, “nhưng cháu nghĩ mình nên nghe cho hết.”
“Được,” ông Keene nhẹ nhàng nói. Hôm ấy như một ngày hoài niệm, khi được ông đưa cho hũ đựng kẹo cam thảo, tôi chợt nhớ đến chương trình phát thanh mà bố mẹ tôi hay nghe khi tôi còn là một cậu bé: Ông Keene truy tìm người mất tích.
“Hôm ấy, cảnh sát trưởng cũng có mặt. Lý ra, ông ta đi bắn chim, nhưng ông ấy đổi ý nhanh như chớp khi Lal Machen xuất hiện và báo ông này rằng Al Bradley sẽ đến vào buổi chiều hôm ấy.”
“Làm sao Machen biết điều đó?” Tôi hỏi.
“Chà, giấy chẳng gói được lửa đâu cháu ạ” ông Keene nói, và nụ cười đa đoan ấy lại khiến nếp nhăn xô lại trên khuôn mặt ông. “Bradley không phải Kẻ thù số một Quốc gia trên danh sách xếp hạng của FBI, nhưng họ vẫn muốn thộp cổ được hắn – từ năm 1928 thì phải. Ta đoán chắc là để minh chứng họ có tiếng và cũng có miếng. Al Bradley và người em trai George của hắn đã cướp sáu, bảy ngân hàng khắp vùng Trung Đông, bắt cóc một nhân viên ngân hàng đòi tiền chuộc. Họ trả tiền chuộc– 30.000 đô-la, số tiền đó vào ngày ấy rất lớn – nhưng rốt cuộc, chúng vẫn giết chết con tin.
Lúc ấy, vùng Trung Đông bắt đầu sôi sục trước đám côn đồ, băng đảng hoành hành ở đó, nên Al và George cùng bè lũ chuột nhắt bọn chúng chạy lên Đông Bắc, về phía vùng này. Chúng thuê một nông trại rộng lớn ở ngoài rìa địa phận Newport, cách Nông trại Rhulin ngày nay không xa.
Chuyện xảy ra vào những ngày tháng oi ả của mùa hè năm 29, có thể là vào tháng Bảy, tháng Tám hoặc thậm chí là đầu tháng Chín… ta không dám chắc chắn về thời điểm cho lắm. Bọn chúng có tám tên cả thảy - Al Bradley, George Bradley, Joe Conklin và em trai Cal, một gã Ireland mang tên Arthur Malloy có biệt danh là ‘Jesus Malloy Lén Lút’ vì hắn cận thị nhưng không bao giờ đeo kính trừ trường hợp bất khả kháng, Patrick Caudy, một gã thanh niên từ Chicago với lời đồn là một kẻ cuồng sát nhưng hào hoa phong nhã như Adonis. Ngoài ra còn có hai phụ nữ trong băng đảng của chúng: Kitty Donahue, người vợ hợp pháp của George Bradley, và Marie Hauser, vốn là nữ nhân của Caudy nhưng thỉnh thoảng lại được chuyền tay hết kẻ này đến kẻ khác, theo như những câu chuyện chúng ta nghe kể sau này.
Trong thần thoại Hy Lạp, Adonis là một chàng trai vô cùng tuấn tú, chiếm trọn trái tim của hai nữ thần Aphrodite và Persephone.
Chúng đã nhận định sai lầm khi đến đây, con trai ạ - chúng lầm tưởng chúng cách xa Indiana nên an toàn.
Chúng im hơi lặng tiếng một thời gian, nhưng ngựa quen đường cũ, chúng quyết định đi săn. Chúng nắm giữ lượng lớn hỏa lực nhưng hơi thiếu đạn dược. Vì thế, vào ngày mùng 7 tháng 10, cả bọn tiến vào Derry bằng hai chiếc ô tô. Patrick Gaudy đưa hai người phụ nữ lòng vòng mua sắm trong lúc những tay khác vào Dụng cụ Thể thao Machen. Kitty Donahue mua một chiếc váy ở Freeses, và hai ngày sau, ả cũng bỏ mạng tại đó.
Lal Machen thân chinh mai phục băng đảng này. Ông ấy qua đời năm 1959 do béo phì. Ông ấy phệ lắm. Nhưng mắt ông ấy sáng như cú vọ, và ông ấy nói ông biết đối phương là Al Bradley ngay phút giây hắn ta bước vào. Ông ấy cũng nhận ra một vài kẻ khác, nhưng ông hơi ngờ ngợ về Malloy cho đến khi hắn đeo kính để nhìn bộ dao trưng bày trong tủ kính cho rõ.
Al Bradley bước đến chỗ ông và nói, ‘Chúng tôi muốn mua súng đạn.’
‘Chà,’ Lal Machen đáp, ‘các vị đến đúng chỗ rồi.’
Bradley đưa cho ông một tờ giấy, Lal bèn đọc qua. Theo những gì ta biết, tờ giấy đã mất rồi, nhưng theo lời Lal kể, nội dung ghi bên trên đủ khiến ta lạnh người. Chúng muốn mua 500 viên đạn.38 ly, 800 viên đạn cỡ 45, 60 viên đạn cỡ 50, loại này giờ không sản xuất nữa, đạn súng hoa cải bắn thú lớn và bắn vịt, 1.000 viên đạn cỡ.22 cho súng trường ngắn và súng trường dài. Ngoài ra - cháu nghe nhé – 16.000 viên đạn súng máy cỡ 45.”
“Trời ơi là trời!” Tôi bàng hoàng.
Ông Keene lại nở nụ cười chua cay và đưa tôi hũ kẹo. Tôi lắc đầu nhưng hồi sau cũng nhón lấy một cây.
‘Danh sách mua sắm hoành tráng quá các chàng trai nhỉ,’ Lal nhận xét.
‘Đi thôi, Al,’ Jesus Malloy Lén Lút nói. ‘Tao đã bảo mày rằng còn khuya mình mới gom được ở cái thị trấn khỉ ho cò gáy này mà. Lên Bangor đi. Ở đó chắc cũng chẳng có đâu, nhưng tao có thể bắt xe.’
‘Việc gì phải vội thế,’ Lal nói với vẻ phớt tỉnh. ‘Đơn hàng ngon lành thế này, sao tôi có thể để sổng vào tay tên Do Thái sống trên Bangor kia chứ. Tôi có thể giao cho các anh đạn.22 liền lúc này, toàn bộ đạn bắn chim và nửa lượng đạn bắn thú lớn. Ngoài ra, tôi có thể giao 100 viên cỡ 38 và cỡ.45. Tôi có thể thu xếp phần còn lại cho các anh.’… Lal nhắm hờ mắt và gõ lên cằm như thể đang tính toán. ‘… trước ngày mốt. Các anh thấy sao?’
Bradley cười thiếu điều toét cả hàm và bảo như thế thì tuyệt vời ông mặt trời. Cal Conklin nói hắn vẫn sẽ lên Bangor nhưng không ai thuận theo. ‘Nếu ông thấy sức mình kham không nổi đơn hàng này thì ông liệu mà nói trước luôn đi,’ Al Bradley nói với Lal, ‘vì tôi là một gã tốt bụng ra phết, nhưng tôi mà đã nổi điên lên thì trời long đất lở đấy. Ông hiểu ý tôi chứ?’
‘Tôi hiểu,’ Lal nói, ‘và tôi sẽ chuẩn bị lượng vũ khí như các vị muốn, thưa…?’
‘Rader,’ Brady đáp. ‘Richard D. Rader, xin hân hạnh phục vụ.’
“Hắn chìa tay ra, Lal bắt lấy, nụ cười nhoẻn trên môi. Rất hân hạnh, thưa anh Rader.”
Đoạn Bradley hỏi mấy giờ hắn cùng đồng đảng qua lấy hàng được, Lal Machen bèn hỏi họ thấy 2 giờ chiều có được không. Cả bọn đồng ý rồi ra về. Lal nhìn theo bọn chúng. Ở vỉa hè bên ngoài, chúng nhập bọn với hai phụ nữ và Gaudy. Lal cũng nhận ra cả Gaudy.”
“Vậy,” ông Keene nhìn tôi, mắt sáng quắc, “cháu nghĩ Lal đã làm gì? Báo cảnh sát à?”
“Cháu đoán ông ấy không gọi,” tôi nói, “dựa trên những gì đã xảy ra. Còn cháu chắc sẽ quýnh quáng té gãy chân lúc mò đến điện thoại mất.”
“Chà, có thể có, mà cũng có thể không” ông Keene nói, vẫn nụ cười ngạo nghễ ấy, vẫn đôi mắt sáng quắc ấy, và tôi rùng mình, vì tôi hiểu ý ông là gì… còn ông, ông biết tôi thừa hiểu. Một khi khối cầu nặng trịch bắt đầu lăn thì chẳng có gì ngăn cản nổi; nó sẽ lăn tiếp cho đến khi tới một mặt phẳng đủ dài để tiêu biến bớt động năng. Anh có thể đứng ngay đằng trước khối cầu ấy và bị cán bẹp… nhưng điều đó cũng chẳng ngăn cản được nó.
“Chà, có thể có, mà cũng có thể không,” ông Keene lặp lại câu nói vừa rồi của mình. “Nhưng ta có thể kể cho cháu nghe việc Lal Machen đã làm. Ngày hôm đó và nguyên ngày hôm sau, khi có người quen bước vào tiệm mà là cánh mày râu, ông ấy sẽ kể mình biết thủ phạm lẩn khuất trong khu rừng quanh đường ranh giới Newport – Derry, dùng 'chó lửa' săn bắn nai, gà rừng và có khi cả những trò cầm thú khác. Thủ phạm chính là Băng đảng Bradley. Ông chắc như đinh đóng cột vì ông nhận ra cả bọn. Ông kể Bradley và bè lũ của hắn sẽ quay lại vào khoảng 2 giờ chiều hôm sau để lấy nốt phần đơn hàng còn lại. Ông bảo với họ ông đã hứa sẽ giao cho Bradley tất cả lượng đạn dược hắn muốn, và ông dự định sẽ giữ đúng lời hứa.”
Trong bản gốc dùng cụm “Kansas City typewriters” là tiếng lóng chỉ súng đạn. Ở bản tiếng Việt dùng từ lóng “chó lửa” để quen thuộc với người đọc.
“Bao nhiêu người ạ?” Tôi hỏi. Tôi như đờ ra trước con mắt lấp lánh của ông. Bất chợt, thứ mùi khô khốc trong gian phòng phía sau – mùi thuốc và thuốc bột kê đơn, mùi dầu Musterole, Vicks VapoRub và xi-rô ho Robitussin - chợt tất cả những thứ mùi ấy khiến tôi như ngạt thở… nhưng tôi thà chết vì nín thở còn hơn là rời khỏi đây.
“Ý cháu là ông Lal nói chuyện này với bao nhiêu người ấy hả?” Ông Keene hỏi.
Tôi gật đầu.
“Ta không biết chính xác,” ông đáp. “Ta không có mặt ở ngay đó mà làm nhiệm vụ canh gác. Nhưng ta đoán ông ấy tiết lộ với tất cả những người ông ấy thấy tin cậy được.”
“Những người ông ấy tin cậy được,” tôi trầm tư. Giọng tôi hơi khàn.
“Phải rồi,” ông Keene nói. “Cháu biết dân Derry mà. Đâu phải ai cũng trồng rau nuôi bò.” Ông phá lên cười trước câu đùa của mình rồi nói tiếp. “Sau cái ngày Băng đảng Bradley viếng thăm chỗ Lal, ta đến vào khoảng 10 giờ. Ông ấy kể cho ta nghe đầu đuôi câu chuyện rồi hỏi ta muốn làm dịch vụ gì. Ta chỉ đến để kiểm tra xem cuộn phim cuối cùng của ta đã rửa xong chưa – thời điểm ấy, cửa tiệm ông Machen lo liệu tất tần tật phim ảnh và máy hình Kodak - nhưng sau khi lấy hình xong, ta cũng bảo ta muốn mua ít đạn dược cho khẩu súng trường Winchester.
‘Cậu chuẩn bị đi săn bắn cho vui hả Norb?’ Lal hỏi và đưa cho ta số đạn mình muốn.
‘Chắc tôi sẽ đi làm thịt vài con vật gây hại,’ ta nói, và hai ta cùng khúc khích cười.” Ông Keeng cười ha hả rồi đập chan chát vào cẳng chân khẳng khiu như thể trước giờ, đây là câu chuyện cười ông tâm đắc nhất. Chúi người tới trước, ông gõ vào đầu gối tôi. “Con trai, ý ta là thế đấy, một đồn mười, mười đồn trăm. Thị trấn này bé như lỗ mũi ấy mà. Nếu cháu biết kể đúng người, thông điệp cháu cần chuyển tải sẽ được chuyển tải… cháu thấy điều ta muốn nói chưa? Muốn ăn thêm một que cam thảo không?”
Tôi lấy thêm một que bằng những ngón tay tê rần của mình.
“Ăn béo đấy,” ông Keene nói và hăng hắc cười. Lúc ấy, trông ông thật già nua… già khọm, với cặp kính trượt xuống sống mũi hốc hác, da trên hai má căng sát và mỏng tang nên chẳng có nổi vết nhăn.
“Ngày hôm sau, ta mang khẩu súng trường của ta đến tiệm, còn Bob Tanner, cậu trợ lý hay lam hay làm nhất mà ta từng có từ xưa đến nay, mang theo khẩu súng săn của cụ khốt cậu ta. Khoảng 11 giờ hôm ấy, Gregory Cole đến mua bột baking sô-đa và ta thề, nếu ông ta không giắt theo khẩu súng lục Colt.45 trong thắt lưng thì ta đâm đầu xuống đất.
‘Coi chừng bắn bể mấy hòn bi của mình đấy nhé, Greg,’ ta đùa.
‘Tôi băng rừng vượt suối từ Milford đến đây, và tôi vẫn còn đang chếnh choáng sau bữa nhậu hôm qua đây,’ Greg đáp. ‘Chắc tôi sẽ bắn bể bi của kẻ nào đó trước khi mặt trời xuống núi đấy.’
Khoảng 1 giờ 30, ta đặt tấm biển con con đề TIỆM QUAY LẠI NGAY, XIN HÃY KIÊN NHẪN trên cửa, lấy súng trường rồi vòng ra con ngõ Richard. Ta hỏi Bob Tanner có muốn đi cùng không thì cậu ta bảo phải kê đơn cho bà Emerson nên sẽ gặp ta sau. ‘Để lại cho tôi một tên còn sống nhé,’ cậu ta nói nhưng ta chỉ đáp ta không hứa hẹn được gì.
Đường Kênh Đào gần như chẳng có người qua kẻ lại, bất kể đi bộ hay đi xe. Thỉnh thoảng có một chiếc xe chở hàng chạy qua, ngoài ra không còn ai khác. Ta trông thấy Jake Pinnette đi ngang, mỗi tay một khẩu súng trường. Ông gặp Andy Criss, thế rồi hai người bèn đi đến một băng ghế tọa lạc ở Đài Tưởng niệm Chiến tranh - chỗ Kênh Đào đi vào lòng đất đấy.
Petie Vanness, Al Nell và Jimmy Gordon ngồi ở bậc thềm tòa án, ăn bánh mì kẹp và trái cây để trong giỏ đồ ăn, trao đổi với nhau món họ thấy ngon lành giống con nít hay làm trong sân trường. Ai cũng trang bị vũ khí cả. Jimmy Gordon mang theo một khẩu súng trường Springfield Thế chiến thứ nhất trông còn đồ sộ hơn cả người ông ta.
Ta thấy một cậu bé đi bộ lên đường đồi Dặm Trên – hình như là Zack Denbrough, bố cậu bạn cũ của cháu thì phải, cái cậu mà sau này theo nghiệp văn chương ấy - Kenny Borton bèn nói vọng ra từ một khung cửa sổ trong Phòng đọc Khoa học Cơ đốc, ‘Cháu ơi, rời khỏi đây đi; chút nữa sẽ có bắn nhau đấy.’ Zack liếc nhìn mặt ông ta rồi co giò chạy thục mạng.
Khắp nơi đều có người, ai nấy đều cầm theo súng, họ đứng ở cửa, ngồi trên bậc thềm và nhìn ra ngoài từ cửa sổ. Greg Cole ngồi lối cửa ra vào dưới đường với khẩu súng cỡ.45 trong lòng và khoảng hai tá đạn xếp bên cạnh chẳng khác nào lính đồ chơi. Bruce Jagermeyer và cậu người Thụy Điển, Olaf Theramenius, đứng dưới rạp Bijou trong bóng râm.”
Ông Keene nhìn tôi nhưng không thấy tôi. Mắt ông giờ không còn sắc sảo nữa mà mơ màng chìm trong kỷ niệm, mềm mại như mắt người đàn ông nhớ lại một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất cuộc đời mình – tỉ dụ như cú home run đầu tiên đánh được, hoặc con cá hồi đầu tiên câu được to ở mức đáng giữ lại, hoặc lần đầu tiên lên giường mây mưa với phụ nữ.
“Ta nhớ ta nghe thấy tiếng gió, con trai ạ,” ông mơ màng kể. “Ta nhớ ta nghe thấy tiếng gió, tiếng đồng hồ tòa án điểm 2 giờ. Bob Tanner bước đến sau lưng ta, và thần kinh ta căng thẳng đến độ suýt chút nữa ta bắn cậu ta bể đầu.
Thời gian tích tắc trôi, đến 2 giờ 10 phút mà không có chuyện gì xảy ra, rồi 2 giờ 15, 2 giờ 20, chắc cháu nghĩ người ta sẽ lục tục kéo nhau về phải không? Nhưng không hề có chuyện đó. Mọi người chỉ án binh bất động. Vì…”
“Vì mọi người biết bọn chúng sẽ đến phải không ạ? Tôi hỏi. “Trúng phoóc.”
Ông nhìn tôi như người thấy hài lòng với phần trả bài của cậu học trò.
“Chính xác!” Ông nói. “Bọn ta biết. Không ai nói thành lời, không ai chép miệng bảo ‘Chà, vậy giờ chúng ta đợi qua 2 giờ 20 phút, và nếu bọn chúng không đến thì tôi xin kiếu về làm việc.’ Mọi thứ chỉ im lặng, và khoảng 2 giờ 25 phút chiều hôm ấy, hai chiếc ô tô, một đỏ, một xanh dương đậm, chạy xuống đồi Dặm Trên, bon bon tiến về phía giao lộ. Một chiếc là xe Chevrolet và chiếc kia là La Salle. Anh em nhà Conklin, Patrick Caudy và Marie Hauser lái Chevrolet. Anh em Bradley, Malloy và Kitty Donahue ở trong La Salle.
Bọn chúng chạy xuống giao lộ, đoạn Al Bradley bất thình lình đạp thắng chiếc La Salle khiến Caudy suýt chút nữa tông vào gã. Con đường yên tĩnh đến lạ lùng khiến Bradley lấy làm lạ. Hắn là một con thú, nhưng chỉ cần chút bất thường cũng đủ khiến con thú nâng cao cảnh giác, nhất là khi nó đã trốn chui trốn nhủi như con chồn trong ruộng ngô suốt bốn năm.
Hắn mở cửa xe La Salle, đứng ở bậc xe trong chốc lát. Hắn nhìn quanh, đoạn đưa tay ra hiệu quay về với Caudy. Caudy hỏi lại ‘Sao thế đại ca?’. Ta nghe thấy rành rọt từng từ, đó là thứ duy nhất ta nghe thấy chúng nói ngày hôm ấy. Ta nhớ ánh mặt trời nháy lên, phản chiếu từ chiếc gương cầm tay. Ả Hauser đang dặm phấn mũi.
Ngay lúc ấy, Lal Machen và người giúp việc Biff Marlow lao ra từ cửa hàng nhà Machen. ‘Giơ tay lên, Bradley, chúng mày đã bị bao vây!’ Lal hét lên, và Bradley chỉ vừa mới quay đầu, chưa kịp làm gì thì Lal đã bắt đầu nã đạn. Ban đầu, ông bắn tứ tung, nhưng rồi một viên đạn găm vào vai Bradley. Thứ rượu vang đỏ liền ào ạt tứa ra từ lỗ đạn. Vớ được tay nắm cửa của chiếc xe, Bradley nhào vào trong. Hắn gạt cần số và đó là lúc mọi người bắt đầu nã đạn.
Vụ xả súng kéo dài trong khoảng bốn, năm phút liền, nhưng suốt quá trình diễn ra, thời gian như dài hơn. Petie, Al và Jimmy Gordon ngồi ngay trên bậc thềm tòa án, bắn liên tù tì vào đuôi chiếc xe Chevrolet. Ta trông thấy Bob Tanner khuỵu gối, nã đạn và kéo thoi nạp đạn của khẩu súng trường cũ kỹ ấy như một tên điên. Jagermeyer và Theramenius bắn vào bên phải chiếc xe La Salle từ rạp chiếu phim, còn Greg Cole đứng trong máng nước, hai tay cầm khẩu súng tự động 45, vận hết sức bình sinh kéo cò lia lịa.
“Chắc phải có khoảng năm, sáu mươi người cùng nã đạn. Khi mọi chuyện kết thúc, Lal Machen đào được 36 viên đạn từ bức tường gạch của tiệm mình. Mà đó là ba ngày sau, khi những cư dân nào của thị trấn này muốn có vật kỷ niệm đã tự lần mò đến tiệm, lấy dao bỏ túi đào một viên đem về. Chứ nguyên trạng bãi chiến trường ấy chẳng khác nào Trận đánh trên sông Marne. Mọi cửa sổ quanh tiệm của Machen đều bể nát trong tiếng súng trường.
Bradley quanh chiếc La Salle được nửa vòng, hắn rất mau lẹ, nhưng đến lúc hắn quay xe xong thì bốn bánh đã xẹp lép. Hai bên đèn pha đều bị bể, kính chắn gió nát vụn. Jesus Malloy Lén Lút và George Bradley ngồi ở cửa sổ băng ghế sau, lấy súng lục bắn trả. Ta thấy một viên đạn cắm phập vào cổ Malloy và làm nó bể toác ra. Hắn bắn thêm hai phát nữa rồi gục xuống cửa sổ, hai tay buông thõng.
Gaudy tìm cách quay xe Chevrolet nhưng rốt cuộc lại đâm sầm vào đuôi xe La Salle của Bradley. Đấy chính là hồi chuông báo tử của chúng, con trai ạ. Thanh hãm xung trước của chiếc Chevrolet vướng vào đuôi chiếc La Salle và mọi cơ hội tẩu thoát của chúng đã tan thành mây khói.
Joe Conklin bước ra khỏi băng ghế sau, đứng ngay giữa giao lộ, cầm khẩu súng lục trên tay, hắn bắt đầu xả đạn. Hắn bắn Jake Pinnette và Andy Criss, khiến hai người bọn họ ngã khỏi băng ghế đang ngồi từ nãy đến giờ rồi ngã lên Cỏ. Andy Criss ông ổng la lên ‘Chết tôi rồi! Chết tôi rồi!’ dù thật ra ông ta chẳng xây xát tí nào, hay nói đúng hơn, cả hai người bọn họ đều bình an vô sự.
Joe Conklin có đủ thời gian bắn sạch hai khẩu súng trong tay mình trước khi viên đạn bay lạc vào người hắn. Áo của hắn phật ra đằng sau, quần dúm lại như thể có phụ nữ vô hình nào đó đang mải khâu vá cái quần. Hắn đội chiếc mũ rơm, và khi nó bay khỏi đầu, ta thấy hắn rẽ tóc ngôi giữa. Cắp nách một khẩu súng, hắn đang loay hoay nạp đạn thì ăn kẹo đồng của ai đó rồi đổ rạp xuống. Về sau, Kenny Borton bảo mình chính là kẻ bắn hạ nhưng thật sự chẳng có cách nào xác nhận. Có thể là bất cứ ai trong số họ.
Cal, em trai của Conklin, bước ra sau khi Joe ngã xuống, và rồi hắn cũng ngã đánh rầm như đống gạch với một cái lỗ trên đầu.
Marie Hauser bước ra ngoài. Có thể cô ta đang tìm cách đầu hàng, ta chịu. Trên tay phải, cô ta vẫn mang chiếc gương cầm tay dùng để dặm phấn mũi. Ta thấy hình như cô ta có la hét ầm ĩ, nhưng lúc đó rất khó nghe. Đạn đang bay vèo vèo xung quanh chúng. Chiếc gương cầm tay bị bắn bật ra khỏi tay ả. Cô ả tìm cách chui lại vào trong xe nhưng một viên đạn cắm vào hông. Cô ta trút chút sức tàn chui vào trong xe thành công.
Al Bradley đẩy La Salle lên tốc độ cao nhất có thể và tìm cách cho nó chạy trở lại. Hắn kéo chiếc Chevrolet thêm được khoảng ba mét thì thanh hãm xung rơi ra.
Nhóm thanh niên thi nhau nã kẹo đồng. Cửa sổ vỡ tung. Một thanh chắn bùn nằm trên đường. Malloy chết tức tưởi ở cửa sổ, nhưng cả hai anh em nhà Bradley vẫn còn sống nhăn. George bắn trả từ băng ghế sau. Bóng hồng của hắn nằm chết ngay bên cạnh, một con mắt bị bắn phọt ra ngoài.
Al Bradley lái xe đến giao lộ lớn, nhưng chiếc xe tới khúc quanh thì khựng lại. Hắn lao ra khỏi ghế lái và ba chân bốn cẳng chạy lên đường Kênh Đào. Kết cục là người hắn thủng lỗ chỗ.
Patrick Gaudy ra khỏi chiếc xe Chevrolet, trong thoáng chốc, cứ tưởng hắn xin đầu hàng thì hắn lại chộp lấy khẩu súng 38 từ bao đeo súng dưới nách. Hắn bắn được đâu đó ba lần, chỉ bắn tứ tung mà thôi, thì áo của hắn bay phần phật ra sau, ngực tóe lửa bừng bừng. Người hắn trượt xuống thành chiếc xe Chevy cho đến khi đổ rạp lên bục lên xuống. Hắn bắn thêm một phát, và theo như những gì ta biết, đó là phát đạn duy nhất bắn trúng người phe ta; viên đạn bắn vào đâu đó rồi bật lên, vượt qua mu bàn tay của Greg Cole. Vết thương để lại sẹo, khi nào say xỉn, ông ấy cũng lội chiến tích ấy ra khoe, cho đến ngày nọ, ai đó – hình như là Al Nell thì phải – kéo ông ấy qua một bên và bảo ông ấy liệu mà giữ kín miệng chuyện xảy ra với Băng đảng Bradley.
Ả Hauser bước ra, và lần này, không còn nghi ngờ gì nữa, cô ta đang cố đầu hàng vì hai tay cô ta giơ cao. Có lẽ không ai muốn giết cô ta, nhưng lúc ấy đang có một trận xả súng mà cô ta lại đi vào ngay tâm chấn.
George Bradley chạy đến chỗ băng ghế gần Đài Tưởng niệm Chiến tranh thì ai đó nã khẩu súng săn khiến gáy của hắn nát như tương. Hắn ngã xuống, chết ngay tại chỗ, són hết cả ra quần…”
Gần như không ý thức được hành động của mình, tôi nhón lấy một que kẹo cam thảo trong hũ.
“Họ tiếp tục nã đạn vào hai chiếc xe thêm tầm một phút thì mới ngưng dần,” ông Keene tiếp tục kể. “Khi đàn ông đã hăng máu thì dễ gì mà họ xuôi xị được ngay. Lúc ấy, ta nhìn quanh và trông thấy Cảnh sát trưởng Sullivan đứng đằng sau Nell và những người khác trên bậc thềm tòa án, nã đạn vào con xe Chevy chết máy bằng khẩu súng trường Remington. Đừng nghe bất cứ ai bảo cậu ông ta không có mặt; Norbert Keene ngồi trước mặt cháu và dám khẳng định ông ta có dự phần.
Đến lúc trận xả súng dừng lại, trong hai chiếc xe ấy chẳng còn giống xe ô tô chút nào, mà chỉ là đống sắt vụn với mảnh kính bể vụn xung quanh. Người ta bắt đầu tiến đến xem. Không ai nói gì. Tất cả những âm thanh ta có thể nghe thấy là tiếng gió cùng tiếng chân nghiến trên kính vỡ. Đó cũng là lúc màn chụp hình bắt đầu. Và cháu nên biết điều này, con trai: khi bắt đầu vào phần chụp hình thì câu chuyện xem như kết thúc.”
Ông Keene ngả ra ghế, đôi dép khẽ rơi xuống sàn, ông đưa mắt nhìn tôi.
“Trên tờ Derry News chẳng đưa tin nào như thế,” đó là tất cả những lời tôi có thể thốt lên. Tít báo ngày hôm ấy là CẢNH SÁT BANG, FBI BẮN HẠ BĂNG ĐẢNG BRADLEY TRONG TRẬN CHIẾN. Dòng tít phụ bên dưới ghi “Với sự hỗ trợ của Cảnh sát địa phương”.
“Đời nào mà có,” ông Keene nói và cười phà phà. “Ta thấy ông biên tập Mack Laughlin tự tay tương hai viên đạn vào Mack Laughlin mà.”
“Chúa ơi,” tôi lầm bầm.
“Ăn đủ kẹo cam thảo chưa, con trai?”
“Dạ, đủ rồi ạ,” tôi đáp và liếm lưỡi. “Ông Keene, làm thế nào mà một việc… khủng khiếp nhường ấy… lại có thể được bưng bít như vậy ạ?”
“Không phải bưng bít,” ông nói, mặt lộ vẻ ngạc nhiên. “Chỉ là không ai bàn về nó mà thôi. Với lại, ai buồn quan tâm kia chứ? Có phải Tổng thống và Phu nhân Hoover hạ cố giá lâm hôm ấy đâu. Nó giống như bắn chết mấy con chó điên có thể cắn ta về chầu ông bà nếu ta hớ hênh ấy.”
“Nhưng mấy phụ nữ thì sao?”
“Toàn lũ điếm,” ông điềm nhiên đáp lời. “Hơn nữa, việc này xảy ra ở Derry chứ không phải New York hay Chicago. Để dân tình rầm rộ, địa thế cũng quan trọng không kém chuyện xảy ra ở địa điểm đó, con trai. Đó là lý do khi trận động đất giết chết mười hai người ở Los Angeles, người ta để tít bự hơn việc một kẻ giết ba nghìn sinh mạng ở đất nước ngoại đạo Trung Đông.”
Hơn nữa, việc này xảy ra ở Derry.
Tôi từng nghe câu này, và tôi đoán nếu tôi tiếp tục theo đuổi vụ việc, tôi sẽ nghe thêm nhiều lần nữa… hết lần này đến lần khác… Họ nói như thể đang kiên trì giảng giải cho một kẻ thui chột về trí óc. Cách họ nói giống như cách họ bảo Là vì có trọng lực nếu ta hỏi họ làm cách nào để ta có thể bám vào mặt đất khi bước đi. Họ nói như thể ấy là một quy luật tự nhiên mà bất cứ người bình thường nào cũng hiểu. Và tất nhiên, kinh khủng ở chỗ, bản thân tôi cũng hiểu rõ.
Tôi còn một câu hỏi nữa dành cho ông Norbert Keene.
“Vào ngày hôm đó, ông có bắt gặp kẻ nào mà ông không quen mặt lúc vụ xả súng bắt đầu không ạ?”
Câu trả lời ngay lập tức của ông Keene khiến thân nhiệt của tôi như giảm cả chục độ – hoặc chí ít tôi cảm thấy thế. “Ý cháu là gã hề à? Sao cháu biết về hắn ta vậy, con trai?”
“À, cháu nghe ở đâu đó thôi,” tôi đáp.
“Ta chỉ loáng thoáng nhìn thấy hắn thôi. Khi chuyện bắt đầu vào lúc nước sôi lửa bỏng, ta tập trung vào chuyện của mình. Ta đưa mắt nhìn quanh một lần thì trông thấy hắn ta trên đường, đằng sau mấy người Thụy Điển chỗ rạp Bijou,” ông kể. “Hắn không mặc quần áo hề hay gì hết. Hắn mặc quần yếm nông dân, bên dưới là áo thun. Nhưng khuôn mặt hắn vẫn phết thứ phấn trắng mà hề hay dùng, vẫn vẽ nụ cười lớn đỏ choe đỏ choét của mấy tên hề. Hắn còn gắn cả nhúm tóc giả màu cam, trông ngộ nghĩnh lắm.
Lal Machen không bắt gặp hắn ta lần nào, nhưng Biff thì có. Nhưng ta đoán Biff nhầm lẫn vì ông ấy bảo trông thấy hắn trong ô cửa sổ của một căn chung cư phía bên tay trái, và khi ta hỏi Jimmy Gordon - ông này hy sinh trong trận Trân Châu Cảng, chết chìm với con tàu của mình, nếu ta không lầm thì tàu mang tên California thì phải – ông ấy nói mình bắt gặp gã hề đằng sau Đài Tưởng niệm Chiến tranh.”
Ông Keene lắc đầu, miệng khẽ nhoẻn cười.
“Cách người ta thay đổi tính nết lúc đụng chuyện như thế thật lạ, và sau khi mọi thứ kết thúc, ký ức họ nhớ về biến cố ấy còn lại lùng hơn. Cháu sẽ nghe thấy mười sáu câu chuyện khác nhau mà chẳng ai kể giống ai. Ví dụ như chi tiết khẩu súng gã hề cầm trong tay chẳng hạn…”
“Súng ư?” Tôi hỏi. “Hắn ta cũng xả súng ạ?”
“Ừ phải,” ông Keene nói. “Lúc ta liếc thấy hắn ta, có vẻ hắn ta đang cầm khẩu Winchester khóa nòng trượt, và ít lâu sau, ta phát hiện ta đinh ninh như vậy là vì ta cũng cầm khẩu súng ấy. Biff Marlow tưởng hắn ta cầm khẩu Remington vì ông ấy vác theo khẩu súng này. Rồi khi ta hỏi Jimmy, thì ông ấy lại bảo hắn ta bắn khẩu SP.”
“Lạ thật ạ,” tôi chật vật. “Ông Keene này… mọi người có thắc mắc tại sao một tên hề, nhất là một tên hề mặc bộ quần yếm nông dân, lại làm gì ở đó không ạ?”
“Có chứ,” ông Keene đáp. “Chuyện ấy không có gì to tát, song tất nhiên là chúng ta rất thắc mắc. Đa phần mọi người đoán chắc đó là một người muốn dự tiệc nhưng không muốn lộ danh tính. Ví dụ như một thành viên trong Hội đồng thị trấn. Hay Horst Mueller, hoặc thậm chí là Trace Naugler, thị trưởng đương thời. Hoặc có thể đó là một người quyền cao chức trọng nào đó không muốn bị nhận ra. Bác sĩ hay luật sư chẳng hạn. Bố của ta mà hóa trang kiểu đấy, khéo ta cũng chẳng nhận ra ấy chứ.”
Ông khẽ phá lên cười, tôi bèn hỏi có gì vui.
“Cũng có khả năng đó là một gã hề thật sự,” ông nói. “Vào những năm 1920, 1930, hội chợ Hạt ở Etsy được tổ chức sớm hơn bây giờ nhiều, và vào cái tuần Băng đảng Bradley về chầu ông bà, người ta đang dựng hội, hoạt động rầm rộ. Ở hội chợ có mấy tên hề tham dự mà. Có thể một trong số đó nghe tin chúng ta sắp tự tổ chức lễ hội hóa trang nên mới xuống xem vì hắn ta muốn tham gia chẳng hạn.”
Ông cười với tôi, nụ cười lạnh tanh.
“Ta nói sắp xong rồi đấy,” ông tiếp tục, “nhưng ta sẽ nói thêm một điều, vì cháu có vẻ rất quan tâm và cháu biết cách lắng nghe kỹ càng. Đó là điều Biff Marlow nói mười sáu năm sau, khi bọn ta đang uống bia ở Pilot’s trên Bangor. Bất thình lình, ông ấy nhắc lại chuyện xưa. Ông kể gã hề thò gần hết người ra khỏi cửa sổ, đến độ Biff cứ tưởng hắn ta sắp sửa rơi ra ngoài. Không chỉ đầu, vai hay tay của hắn nhoài ra, Biff bảo hắn nhoài người đến tận đầu gối, lơ lửng giữa không trung, nã đạn xuống hai chiếc ô tô mà Băng đảng Bradley lái, với nụ cười đỏ loẹt to tướng trên mặt. Biff nói “Hắn ta trông như lồng đèn bí đỏ hù chết người khác.”
“Như thể hắn đang lơ lửng,” tôi nói.
“Phải đấy,” ông Keene đồng tình. “Và Biff kể không hiểu sao ông vẫn cứ lấn cấn, vẫn có chi tiết gì đó khiến ông bận tâm suốt mấy tuần sau. Giống như một điều nằm ngay trên đầu lưỡi nhưng ta mãi chẳng thể nhớ ra, một điều khiến da ta châm chích như muỗi cắn hay côn trùng đốt. Ông ấy bảo cuối cùng, vào đêm nọ, lúc dậy đi vệ sinh, ông ấy cũng nhận ra. Ông đứng đó, tiểu xì xì vào bồn cầu, nghĩ bâng quơ, và chợt ông nhớ vụ xả súng bắt đầu vào lúc 2 giờ 25 phút chiều, mặt trời ngay trên đầu, thế mà gã hề ấy không đổ bóng. Không đổ bóng một chút nào.”