Chương 21 DƯỚI LÒNG THỊ TRẤN
1
Nó/ Tháng Tám năm 1958
Có biến chuyển mới.
Lần đầu tiên trong thiên thu rục rịch biến chuyển.
Trước khi vũ trụ ra đời chỉ có hai thứ. Một là Nó, hai là con Rùa. Con Rùa là một thứ già nua ngu độn chẳng bao giờ mò ra khỏi vỏ. Nó còn nghĩ có khi con Rùa chết rồi, khéo đã chết ngỏm cả tỉ năm rồi ấy chứ. Mà dù cái ngữ ấy còn sống đi chăng nữa, ngu độn vẫn hoàn ngu độn, và dù con Rùa đã phọt ra toàn bộ vũ trụ, ngu đần vốn là bản chất nên chẳng thay đổi được đâu.
Rất lâu sau khi con Rùa rúc vào vỏ, Nó đến Trái Đất và phát hiện nguồn trí tưởng tượng phong phú nơi đây, mới mẻ làm sao, giá trị làm sao. Trí tưởng tượng chính là yếu tố khiến thức ăn muôn phần đậm đà. Hàm răng của Nó rần rật nhựa sống, tê dại trước những kinh hoàng dị thường và những nỗi sợ đê mê: chúng mơ về quái vật ban đêm và bùn lầy biết đi, dù không muốn, chúng cũng chẳng thể ngăn tâm trí mình tưởng tượng đủ thứ.
Nhờ có nguồn thức ăn béo ngậy này mà Nó tồn tại theo chu kỳ đơn giản: dậy để ăn rồi ngủ để mơ. Nó tạo ra một nơi theo hình ảnh mà Nó hình dung, và Nó dõi theo vùng đất này nhờ tử quang vốn dĩ là mắt Nó. Derry là lò mổ của Nó, còn cư dân của Derry là đàn cừu Nó chăn. Bao đời nay là thế.
Nhưng rồi… đám trẻ ấy.
Biến chuyển mới.
Lần đầu tiên trong thiên thu.
Khi Nó xông vào căn nhà trên đường Neibolt với ý định giết tất cả lũ bọn chúng, mơ hồ khó chịu bởi đến lúc ấy Nó vẫn chưa kết liễu được đám này (và tất nhiên, nỗi khó chịu ấy cũng là điều hết sức mới mẻ), một chuyện hoàn toàn ngoài dự thưởng đã xảy ra, một chuyện Nó chưa lần nào mảy may nghĩ tới, và Nó đau, đau, đau đến cùng cực, thống khổ suốt giai đoạn biến hình, và trong một khắc, Nó còn manh nha thấy sợ, vì đặc điểm tương đồng duy nhất giữa Nó và con Rùa già nua ngu độn kia cùng cự đại cũ trụ bên ngoài quả trứng tí teo của vũ trụ này chính là: mọi sinh vật phải tuân theo quy luật của hình dạng mà nó trú ngụ. Lần đầu tiên, Nó nhận ra có lẽ năng lực biến muôn hình vạn trạng của Nó vừa ưu vừa nhược. Trước nay, chưa bao giờ Nó biết đau, chưa lần nào Nó biết sợ, và trong khoảnh khắc, Nó còn tưởng khéo mình chết mất – ôi, đầu của Nó ngập trong cơn đau khủng khiếp bạc trắng, Nó gào rống, thét gầm, rít ré, còn đám trẻ kia đã tìm được đường thoát.
Nhưng chúng đang đến. Ngày xưa, chúng từng xâm phạm lãnh địa dưới lòng thị trấn của Nó, bảy đứa trẻ ngu ngốc mò mẫm trong bóng đêm, không đèn, không vũ khí. Chắc chắn lần này, Nó sẽ kết liễu bọn chúng.
Nó tự ngộ ra điều tối thượng: Nó không muốn có thay đổi hay bất ngờ. Nó cũng chẳng ham điều mới mẻ. Nó chỉ muốn ăn rồi ngủ, nằm mơ, xong lại ăn.
Sau cơn đau và nỗi sợ hãi chói lòa thoáng qua ấy, thêm cảm giác mới trỗi dậy (thật ra với Nó, tất cả các cảm xúc đều mới mẻ, dù Nó rất giỏi nhái cảm xúc): phẫn nộ. Nó sẽ giết chết đám trẻ ấy vì chúng tình cờ thế nào đã làm phương hại Nó. Nhưng trước hết, Nó sẽ hành hạ chúng, vì trong khoảnh khắc dù ngắn ngủi, lũ oắt con đã khiến Nó sợ.
Đến với ta nào, Nó vừa nghĩ, vừa lắng nghe bước chân của họ. Đến với ta nào, đám trẻ kia, và xem chúng ta lơ lửng thế nào… tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, chẳng hiểu sao có một suy nghĩ cứ bén rễ trong Nó dù Nó tìm mọi cách để gạt suy nghĩ ấy đi. Giả như mọi thứ bắt nguồn từ Nó (mà chắc chắn là vậy, vì con Rùa là thứ nôn ra vũ trụ này rồi bất tỉnh trong cái vỏ của nó), làm thế nào mà thế giới này hoặc bất cứ thế giới nào lại có một sinh vật đủ sức lừa Nó, tổn hại Nó, bất kể thoáng qua hay vặt vãnh kia chứ? Sao lại có chuyện đó được?
Và rồi một điều mới mẻ lại đến với Nó, không phải cảm xúc mà là suy luận vô cảm: biết đâu Nó không chỉ có một mình như Nó hằng tưởng thì sao?
Biết đâu tồn tại một Thế Lực Khác?
Và giả sử đám trẻ con ấy là tay sai của Thứ Đó?
Giả như… giả như…
Nó rùng mình.
Căm ghét là cảm xúc mới. Đau đớn cũng mới. Khó chịu không yên cũng mới. Nhưng thứ mới mẻ nhất, tệ hại nhất chính là sợ hãi. Nó không sợ đám trẻ, nỗi sợ ấy đã qua rồi, mà Nó sợ có thể Nó không độc nhất vô nhị.
Không. Không còn kẻ nào khác. Chắc chắn là vậy. Có lẽ khi chúng còn là trẻ con, trí tưởng tượng của chúng mang một sức mạnh ban sơ nào đó mà Nó đã xem nhẹ. Nhưng giờ đây, chúng đã chọn đến, thì Nó để chúng vác xác đến. Khi chúng đến, Nó sẽ tiêu diệt từng đứa một vào cự đại vũ trụ… vào tử quang trong mắt Nó.
Phải.
Khi chúng đến đây, Nó sẽ khiến chúng gào thét, phát điên và mất mạng bằng tử quang ấy.
2Trong cống ngầm/ 2 giờ 15 phút chiều
Bev và Richie còn khoảng chục que diêm, nhưng Bill không cho mọi người phung phí. Chí ít hiện tại vẫn còn leo lét ánh sáng trong đường cống. Tuy không nhiều nhưng cậu vẫn có thể nhìn thấy hơn một mét trước mặt, và họ sẽ cố gắng tiết kiệm diêm chừng nào còn gắng gượng được.
Cậu đoán thứ ánh sáng yếu ớt mà họ trông thấy là từ lỗ thông gió của vách đá trên đầu, hoặc thậm chí là từ lỗ thông hơi trên nắp cống. Thật khó lòng mà tưởng tượng nổi lúc này đây, họ đang đi dưới lòng thị trấn, song tất nhiên, sự thật là thế.
Nước càng lúc càng sâu. Xác động vật chết trôi qua ba lần: một con chuột, một con mèo, và xác một thứ trăng trắng trương phình mà cậu đoán là chuột chũi. Cậu nghe thấy tiếng ai đó trong nhóm kêu lên oai oái khi cái xác trôi ngang qua.
Họ đang lội trong dòng nước tương đối tĩnh lặng, nhưng chốc nữa thôi, điều này sẽ kết thúc: phía trước, cách đó không xa, vang lên tiếng ào ào đều đặn. Càng lúc, âm thanh ấy càng lớn. Cống ngầm uốn khúc sang phải. Họ rẽ theo và bắt gặp ba cái ống đang xả nước vào ống mà họ đang đi. Chúng xếp thành hàng dọc như đèn giao thông. Cống nước thải đâm ngõ cụt. Không gian sáng sủa hơn chút đỉnh. Ngước lên, Bill trông thấy họ đang đứng trong một ống thông bao quanh là tường đá vuông vức cao chừng năm mét. Trên cùng có một nắp cống và nước đang ồng ộc chảy xuống người cả đám. Chẳng khác nào đứng dưới thác nước ban sơ.
Bill bối rối quan sát ba cái ống. Ống trên cùng đang xả thứ nước khá sạch, dù vẫn có lá, cành cây và chút ít rác rến bên trong - đầu mẩu thuốc lá, vỏ bọc kẹo cao su và những thứ tương tự. Ống ở giữa đang thải nước màu xám. Còn cái ống thấp nhất lại ồng ộc chảy ra thứ nước thải màu nâu xám.
“E-E-Eddie!”
Eddie lội lên đứng cạnh cậu. Tóc bết vào đầu. Bó bột quanh tay cậu ướt sũng, tong tỏng nước.
“Đ-Đ-Đường n-n-nào?” Nếu muốn biết cách xây thứ gì đó, hãy hỏi Ben; nếu muốn biết đường đi lối lại, hãy hỏi Eddie. Họ không nói ra nhưng ai nấy đều biết điều đó. Giả sử cả nhóm lạc bước đến một khu phố lạ lẫm và muốn quay lại nơi mình quen thuộc, Eddie có thể đưa họ đi, rẽ phải rẽ trái vô cùng tự tin cho đến khi ta chỉ biết ngoan ngoãn đi theo cậu, lòng thầm mong mọi thứ sẽ ổn thỏa… mà kỳ lạ thay, khi nào chuyện cũng êm thấm. Một lần nọ, Bill kể với Richie chuyện khi cậu và Eddie mới bắt đầu lang thang chơi dưới Vùng Đất Cằn, Bill lúc nào cũng sợ bị lạc. Thế mà Eddie chẳng hề nao núng, và cậu luôn tìm được đường đưa hai người bọn họ đến chỗ cậu muốn. “Nếu tớ b-b-bị l-lạc trong rừng Hainesville mà có E-Eddie đi cùng, tớ cũng ch-ch-chẳng ph-phải lo,” Bill nói với Richie. “Cậu ấy c-có t-t-tài sẵn. B-B-Bố tớ bảo nh-nhiều người nh như có l-l-la bàn trong đầu ấy. Eddie c-cũng vậy.”
“Tớ nghe không rõ!” Eddie hét lên.
“Tớ hỏi đ-đường nào?”
“Đường nào gì? Eddie nắm chặt ống thở trong chiếc tay lành lặn của mình, và Bill thầm nghĩ cậu bạn mình trông giống con chuột xạ hương hơn là một cậu nhóc.
“Bọn mình đ-đ-đi đường nào đây?”
“Chà, tùy thuộc vào bọn mình muốn đi đâu,” nghe Eddie nói đến đấy, Bill thiếu điều muốn bay vào bóp cổ cậu bạn, dù câu trả lời ấy hoàn toàn có lý.
Eddie nhìn ba cái ống với vẻ mặt hồ nghi. Kích thước của cả ba đều đủ cho họ chui vào, nhưng ống dưới cùng có vẻ hơi chật.
Bill ra hiệu cho cả nhóm quay lại thành vòng tròn. “N-N-Nó ở chỗ chết toi nào?” Cậu hỏi mọi người.
“Ngay giữa thị trấn,” Richie gọn lỏn. “Ngay dưới lòng trung tâm thị trấn. Gần Kênh Đào.”
Beverly gật đầu, Ben và Stan cũng vậy.
“M-M-Mike?”
“Ừ.” cậu lên tiếng. “Đó là nơi Nó trú ngụ. Gần hoặc ngay dưới Kênh Đào.”
Bill quay sang Eddie. “Đ-Đ-Đường nào?”
Eddie lưỡng lự chỉ vào cái ống bên dưới… và dù lòng chùng xuống, Bill cũng không lấy làm ngạc nhiên. “Kia kìa.”
“Ôi, gớm quá,” Stan khó chịu ra mặt. “Đó là ống thải cứt.”
“Bọn mình không…” Mike nói dở câu rồi ngưng bặt. Cậu nghiêng đầu lắng nghe. Đôi mắt ánh lên sắc bén.
“Có…” Bill toan nói thì Mike đặt ngón tay lên môi ra hiệu im lặng. Giờ thì Bill cũng có thể nghe thấy: tiếng nước bì bõm. Càng lúc càng gần. Tiếng cằn nhằn, cấm cảu không rõ âm. Hóa ra Henry vẫn lì lợm chưa bỏ cuộc.
“Mau,” Ben giục. “Đi thôi.”
Stan quay lại nhìn đường cả đám đã đi, rồi nhìn xuống ống cống dưới cùng. Mím chặt môi, cậu gật đầu. “Đi thôi,” cậu nói. “Cứt rửa được.”
“Stan Quân Tử có được một tràng hay ho quá!” Richie ré lên. “Hô hô hô hô…”
“Richie, im ngay cho tớ nhờ!” Beverly rít lên.
Bill dẫn mọi người đến đường ống, nhăn mặt vì mùi hôi thối xộc vào mũi mình rồi bò vào bên trong. Mùi nước thải và mùi phân nồng nặc, nhưng hình như ở đây còn có thứ mùi khác nữa thì phải? Một thứ mùi trầm hơn, rần rật hơn. Nếu tiếng gầm của động vật có mùi (và Bill nghĩ nếu con vật ấy ăn đúng thứ thì chắc là có), thứ mùi ấy sẽ giống xú khí này. Bọn mình đi đúng hướng rồi. Nó từng ở đây… và Nó đã trú ngụ ở đây rất nhiều lần.
Họ lần mò đi được chứng sáu mét thì không khí thối hoẵng và độc hại. Cậu chậm chạm lép nhép tiến về phía trước, bì bõm lội qua những thứ không phải bùn lầy. Nhìn sau lưng mình, cậu lên tiếng, “Cậu đ-đ-đi ngay sau t-tớ nhé, E-E-Eddie. Tớ sẽ c-cần c-cậu.”
Ánh sáng tù mù sang màu xám, được một lúc rồi tắt hẳn, cả bọn
(bước ra khỏi sắc xanh và)
tiến vào đêm tối. Bill cứ thế đi, cắn răng chịu đựng mùi hôi, cảm tưởng thứ xú uế ấy có hình dạng và cậu đang cắt ngang qua nó, một tay giơ về phía trước, trong lòng chuẩn bị tư tưởng bất cứ lúc nào tay cậu cũng có thể chạm vào lớp lông lá thô ráp, để rồi những con mắt như ngọn đèn xanh rực sẽ mở bừng giữa bóng tối. Tất cả sẽ kết thúc bằng cơn đau lóe lên như thiêu đốt khi Nó cắn đứt đầu cậu khỏi cổ.
Màn đêm dày đặc âm thanh, mọi thứ đều bị phóng đại và vang vọng dội lại. Cậu có thể nghe thấy tiếng các bạn lội ngay phía sau mình, thỉnh thoảng lẩm bẩm gì đó. Có tiếng ùng ục và lanh canh lạ lùng. Đang đi thì bỗng dưng một dòng nước ấm ấm phát gớm ào lào chảy qua giữa hai chân, khiến cậu ướt đến tận đùi và được phen khiếp vía, Eddie hốt hoảng bấu chặt đằng sau áo cậu, và rồi dòng lũ nhỏ yếu đi. Từ cuối hàng, Richie rền rĩ pha trò: “Tớ nghĩ bọn mình vừa bị Người khổng lồ xanh Jolly tè trúng, Bill ạ.”
Jolly Green Giant, hình tượng đại diện của hãng rau củ đóng hộp Green Giant.
Bill có thể nghe thấy tiếng nước hoặc nước thải chảy theo lưu lượng được kiểm soát qua hệ thống các ống cống nhỏ hơn mà cậu đoán hẳn nằm trên đầu bọn họ. Nhớ lại nội dung lần trò chuyện với bố về hệ thống cống của Derry, cậu nghĩ mình biết chức năng của ống cống này là gì – nó được dùng để kiểm soát nước tràn ra vào những dịp mưa lớn hoặc trong mùa lũ. Nước thải bên trên sẽ rời khỏi Derry rồi được xả vào sông Torrault và sông Penobscot. Thị trấn không thích đổ thẳng phân vào sông Kenduskeag vì nó sẽ khiến Kênh Đào thối hoẵng. Nhưng tất cả thứ nước màu xám chảy trực tiếp vào con sông này, và trong trường hợp ống nước thải thông thường không đủ sức giải quyết nước thải thì hệ thống sẽ phải xả cống… như điều ban nãy vừa xảy ra. Đã xả cống một lần thì hoàn toàn có thể xả thêm lần nữa. Cậu lo ngại ngước lên nhưng chẳng thấy gì, dù cậu biết trên cùng hay thậm chí cả hai bên thành ống sẽ có nắp cống, và bất cứ lúc nào cũng đều có thể xảy ra…
Cậu không hề hay biết mình đã đi hết ống cống cho đến khi rơi ra ngoài, loạng choạng ngã nhào về phía trước, tay quơ quang trong không trung, bất lực tìm cách giữ thăng bằng. Bụng cậu đập lên một đống mềm mềm nằm bên dưới miệng ống cậu vừa lao ra khoảng sáu mươi xen-ti. Có thứ gì đó rít lên, chạy qua tay cậu. Cậu hét toáng, vội ngồi dậy, đưa bàn tay nhoi nhói của mình lên ngực, bàng hoàng nhận ra một con chuột vừa vượt qua tay mình; cậu còn cảm nhận được cái đuôi không lông thô ráp gớm ghiếc của nó quét ngang.
Cậu gượng đứng dậy thì đập đầu vào trần ống đánh cốp. Cú va đập mạnh đến độ Bill choáng váng khuỵu gối, trước mắt tưng bừng nổ những bông hoa đỏ to tướng trong màn đêm.
“C-C-Cẩn thận!” Cậu vội la lên. Lời cậu nói vẳng lại trong ống cống. “Cổng kết thúc ở đây rồi! E-Eddie! C-Cậu đ-đ-đâu rồi?”
“Đây!” Bàn tay quơ quàng của Eddie quệt vào mũi Bill. “Giúp tớ ra với Bill. Tớ không thấy đường! Tối…”
Bỗng tiếng xả nước ào ào vang lên. Beverly, Mike và Richie đồng thanh la lớn. Nếu là ban ngày, việc cả ba người cất tiếng hòa ca gần như cùng lúc thế này hẳn sẽ rất buồn cười, nhưng trong màn đêm dưới cống thế này, điều đó thật đáng sợ. Cả bọn đột ngột lao ra khỏi ống. Bill ôm chầm lấy Eddie, cố giữ cho tay bạn mình bình yên.
“Ôi Chúa ơi, tớ tưởng mình chết đuối tới nơi,” Richie rên. “Nước đổ xuống như lũ – ôi lạy hồn, cả một thác đầy cứt, tuyệt quá cơ, mai mốt người ta phải tổ chức cho lớp đi du lịch dưới này Bill ạ, bọn mình có thể nói thầy Carson làm trưởng đoàn…”
“Sau đó, cô Jimmison có thể ca một bài về sức khỏe,” Ben nói, giọng run run, và cả bọn run rẩy cười. Khi tiếng cười tắt dần, bỗng Stan òa lên khóc nức nở.
“Đừng vậy,” Richie nói, vụng về vòng tay qua đôi vai dinh dính của Stan. “Cậu làm cả bọn khóc theo bây giờ.”
“Tớ không sao!” Stan nói lớn, nước mắt rơi lã chã. “Tớ có thể chấp nhận sợ hãi, nhưng tớ ghét dơ dáy bẩn thỉu thế này lắm, tớ ghét khi không biết mình ở đâu lắm…”
“C-C-Cậu ngh-nghĩ mình c-còn que d-diêm nào d-d-dùng đ-được không?” Bill hỏi Richie.
“Tớ đưa hết cho Bev rồi.”
Bill cảm nhận một bàn tay chạm vào tay mình trong bóng tối và đưa cho cậu bọc diêm còn khô.
“Tớ kẹp chúng dưới nách,” cô nói. “Chắc còn dùng được. Cậu thử xem sao.”
Bill xé một que rồi quẹt diêm. Diêm lóe sáng, cậu khum tay giữ. Các bạn của cậu đang đứng nép vào nhau, nhăn mặt trước ánh sáng bừng lên. Ai nấy đều ướt sũng, nhoe nhoét phân, mặt mũi mọi người đều non nớt và đầy sợ hãi. Đằng sau, cậu có thể trông thấy ống nước thải mà họ vừa chui ra. Cái ống hiện tại thậm chí còn nhỏ hơn. Nó chạy thẳng theo cả hai phía, lòng ống đóng nhiều lớp cặn bẩn thỉu. Và…
Cậu khẽ rít lên và lắc que diêm khi lửa bén đến ngón tay. Lắng tai, cậu nghe thấy tiếng nước chảy, ào ào có, tí tách có, thỉnh thoảng lại ầm ầm khi van chống tràn xả nước, bơm thêm nước thải xuống sông Kenduskeag, và có Chúa mới biết lúc này họ cách sông bao xa. Cậu không nghe thấy tiếng Henry và bè lũ… hay nói đúng hơn là chưa.
“Có một x-x-xác ch-ch-chết phía bên ph-ph-phải tớ,” cậu khẽ nói. “Cách b-bọn mình kh-kh-khoảng b-b-ba m-mét. Tớ đoán l-là P-P-P…”
“Patrick?” Beverly run rẩy hỏi, chực hoảng loạn. “Có phải Patrick Hockstetter không?”
“Ph-Ph-Phải. Cậu có muốn tớ th-thắp th-th-thêm qu-que diêm không?”
“Cậu làm đi, Bill,” Eddie nói. “Nếu không thấy đường ống, tớ sẽ không biết mình phải đi đường nào.”
Bill thắp diêm. Dưới ánh lửa, cả nhóm trông thấy thi thể trương phình, xanh nhởn vốn dĩ từng là Patrick Hockstetter. Xác chết nhe nhởn cười với họ trong bóng tối, thân thiện đến rợn người, nhưng khuôn mặt chỉ còn một nửa; đàn chuột dưới cống đã xử lý nửa còn lại. Sách phụ đạo hè của Patrick vương vãi xung quanh, trương to chẳng thua kém gì từ điển do ẩm thấp.
“Chúa ơi,” Mike khô khốc thốt lên, mắt mở to.
“Tớ lại nghe thấy tiếng bọn chúng rồi,” Beverly nói. “Đám Henry.”
Xem chừng cấu trúc không gian đã đưa giọng nói của cô vang vọng đến chúng; bởi Henry hét xuống ống xả nước thải và trong thoáng chốc, cả bọn có cảm tưởng hắn đang đứng ngay đó.
“Bọn tao sẽ tóm chúng màyyyyy…”
“Giỏi thì làm đi!” Richie hét lên. Mắt cậu sáng rực, loang loáng và thảng thốt. “Giỏi thì đến đây xem, đồ trượt vỏ chuối! Dưới này cứ như bể bơi của Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc vậy đó! Giỏi…”
Đột nhiên, tiếng thét man rợ ngập ngụa sợ hãi và đau đớn vắng lại từ ống cống, khiến que diêm lập lòe rời khỏi tay Bill và tắt ngóm. Tay của Eddie vòng qua cậu, Bill ôm chầm lấy Eddie, cảm nhận cả người cậu bạn run như cầy sấy, ở phía ngược lại, Stan Uris cũng tiến sát đến. Tiếng thét càng lúc càng rít ré..và rồi sau tiếng nhập trầm đục, gớm ghiếc, tiếng thét im bặt.
“Có thứ gì đó bắt bọn chúng rồi,” Mike nghẹn ngào, kinh hãi trong màn đêm. “Thứ gì đó… thứ quái vật gì đó… Bill ơi, bọn mình phải ra khỏi đây… tớ xin cậu…”
Bill có thể nghe thấy kẻ sống sót – một hoặc hai người, do không gian quá vang nên không thể chắc chắn – bì bõm, nháo nhào lội qua ống nước thải về phía bọn họ. “Đ-Đường n-n-nào, E-Eddie?” Cậu hối. “C-Cậu b-biết không?”
“Về phía Kênh Đào à?” Eddie vừa lay cánh tay của Bill vừa hỏi.
“Phải!”
“Rẽ phải. Ngang qua Patrick… hoặc đạp lên hắn.” Giọng của Eddie chợt đanh lại. “Tớ chẳng quan tâm. Hắn là một trong những kẻ đã bẻ gãy tay tớ. Nhổ nước bọt vào mặt tớ nữa.”
“Đ-Đi thôi,” Bill nói, quay đầu nhìn ống nước thải mà cả bọn vừa chui ra. “Th-Thành m-một hàng! Chạm v-v-vào ng-người đằng tr-tr-trước, như b-b-ban nãy!”
Cậu mò mẫm tiến tới, quệt vai phải dọc theo mặt sứ nhớp nháp của ống cống, nghiến răng, không muốn đạp lên Patrick… hoặc đạp lủng hắn.
Và rồi họ cứ thế bò vào màn đêm, mặc kệ bao nhiêu nước cứ ầm ì chảy quanh, trong lúc ngoài kia giông tố dồn dập kéo đến, khuấy đặc bóng đêm bao phủ Derry - thứ bóng đêm thét gào với gió, tanh tách lửa điện, răng rắc cây đổ, chẳng khác nào tiếng gầm rú của những loài động vật tiền sử lúc lìa đời.
3Nó/ Tháng Năm năm 1985
Chúng đang đến, và dù mọi thứ đều xảy ra theo những gì Nó tiên liệu, một thứ Nó không ngờ tới đã trở lại: nỗi sợ hãi đáng ghét, điên người ấy… cảm giác ngay ngáy về Thế Lực Khác. Nó căm ghét nỗi sợ ấy, nếu có thể, Nó đã lao vào xâu xé và ăn tươi nuốt sống cảm giác sợ hãi này rồi… nhưng nỗi sợ cứ trêu ngươi chờn vờn ngoài tầm với, và Nó chỉ có thể giết chết nỗi sợ bằng cách kết liễu bọn chúng.
Hẳn nhiên chẳng cần gì phải sợ, giờ đây, bọn chúng đã già hơn, và quân số đã giảm từ bảy mống xuống còn năm. Năm là con số quyền năng, nhưng lại không mang tính linh thiêng thần kỳ như số bảy. Đúng là gã tay sai của Nó đã không thể giết chết thằng thủ thư, nhưng đằng nào thằng thủ thư ấy cũng mất mạng trong bệnh viện. Chút nữa, khi bình minh chưa kịp ló rạng, Nó sẽ cử một gã y tá có cái tật dùng thuốc vô độ vào tiễn thằng thủ thư về chầu trời.
Lúc này, con đàn bà của thằng nhà văn đang ở chỗ Nó, còn sống nhưng chẳng khác nào đã chết – tâm trí của ả bị phá hủy hoàn toàn ngay khi ả nhìn thấy Nó trong hình hài thật sự, khi Nó không mang mặt nạ và gột bỏ những hình hài ngụy trang - và tất nhiên những ảo ảnh ấy chỉ là tấm gương phản chiếu thứ mà kẻ đang kinh hãi nhìn kìa sợ nhất, những hình ảnh quang báo như khi tấm gương phản chiếu mặt trời vào con mắt đang ngây ngô giương ra và khiến nó chói đến mù lòa.
Giờ thì tâm trí vợ của thằng nhà văn đang ở chỗ Nó, ở trong Nó, ngoài rìa cự đại vũ trụ; trong bóng đêm mịt mùng mà con Rùa không thể quản; giữa nơi hẻo lánh, cách xa mọi vùng đất.
Ả đang nằm trong mắt Nó; ả đang ở trong tâm trí Nó.
Ả đang nằm trong tử quang.
Ôi, nói đi cũng phải nói lại, ngụy trang cũng thú vị ra phết. Ví dụ như Hanlon chẳng hạn. Bản thân hắn không còn nhớ, nhưng mẹ hắn hẳn sẽ biết con chim mà hắn trông thấy ở Xưởng đúc sinh ra từ đâu. Khi hắn mới chỉ là một đứa bé sáu tháng tuổi, mẹ hắn để hắn ngủ trong nôi ở giữa sân trong lúc bà ta ra sau phơi chăn mền và tã lót lên dây. Nghe thấy tiếng con mình hét toáng lên, bà ta hốt hoảng chạy lại thì thấy một con quạ rất to đang đậu lên thành nôi mổ lấy mổ để Mikey bé bỏng như con quái vật trong truyện cổ tích. Đứa bé hét lên vì đau và sợ, nhưng chẳng tài nào đuổi được quạ khi nó nhận ra con mồi vô cùng yếu đuối. Sau khi vung tay đập nó bay đi, bà ta nhận ra nó đã mổ tay Mikey chảy máu hai, ba chỗ nên vội đưa con đến bác sĩ Stillwagon để chích ngừa uốn ván. Một phần trong Mike vẫn nhớ hình ảnh ấy – đứa trẻ nhỏ bé, con chim to lớn – nên khi Nó tấn công Mike, cậu bé trông thấy một con chim khổng lồ.
Nhưng khi tên tay sai vốn là chồng của đứa con gái năm xưa bắt được con đàn bà của thằng nhà văn, Nó không mang bất cứ bộ mặt nào – khi ở nhà thì Nó không chưng diện. Thằng chồng tay sai nhìn đúng một lần và tức tử vì quá kinh hãi, mặt hắn xám xịt, mắt đầy máu, vốn phọt ra từ não ở cả chục chỗ là ít. Ả đàn bà của thằng nhà văn kịp nghĩ trong đầu một suy nghĩ đầy sức mạnh, ngập trong sợ hãi - ÔI CHÚA ƠI NÓ LÀ CON CÁI – rồi mọi suy nghĩ tắt ngóm. Ả chơi vơi trong tử quang. Nó đã cất công rời khỏi ổ của mình và chăm sóc thân xác của ả ta; chuẩn bị để lát nữa xơi tái. Hiện tại, Audra Denbrough đang bị treo lơ lửng giữa mớ bòng bong, chằng chịt trong lụa là, đầu gục xuống hõm vai, hai mắt thao láo, mờ mịt, chân duỗi xuống đất.
Nhưng đám bọn chúng vẫn còn sức mạnh. Tuy đã thui chột nhưng vẫn còn. Ngày xưa, khi là trẻ con, chúng từng mò đến đây, và bằng cách nào đó, bất chấp bao khó khăn, bất chấp những điều đáng lý phải xảy ra, có thể xảy ra, chúng đã phương hại Nó nặng nề, suýt chút nữa đã có thể giết chết Nó, buộc Nó phải tháo chạy thật sâu vào lòng đất, nơi Nó cuộn tròn, vừa đau, vừa căm hận, vừa tức tối, vừa run rẩy trong bể huyết kỳ dị của bản thân.
Thế là chẳng đặng đừng, lại một điều mới: lần đầu tiên trong lịch sử vô biên của mình, Nó cần phải lên kế hoạch, lần đầu tiên, Nó nhận ra mình rón rén, không dám lấy thứ mà Nó muốn từ Derry, vườn thú của riêng Nó.
Trước nay, món khoái khẩu của Nó là trẻ con. Nhiều người lớn cũng cung cấp nguồn thức ăn cho Nó mà không hề hay biết, thậm chí suốt chiều dài lịch sử, thỉnh thoảng Nó cũng ngấu nghiến một số ông già bà lão – người lớn cũng có nỗi sợ, và những đại huyệt có thể được tác động, khai mở để hóa chất sợ hãi tràn ngập cơ thể, ướp mặn thịt. Nhưng đa phần, nỗi sợ của bọn chúng quá phức tạp. Nỗi sợ của trẻ con đơn giản hơn, và thường mạnh mẽ hơn. Nỗi sợ hãi của trẻ con có thể tụ thành một khuôn diện duy nhất… nếu cần mồi nhử thì quá đơn giản, đứa con nít nào mà chẳng yêu thích chú hề kia chứ?
Nó mơ hồ nhận ra bằng cách nào đó, đám trẻ con này đã khiến công cụ của Nó phản chủ – tình cờ thế nào đấy (chắc chắn không thể nào có tính toán, không thể nào do bàn tay Thế Lực Khác dẫn dắt), bảy trí óc với trí tưởng tượng vô cùng sáng tạo này đã đoàn kết lại, đẩy lùi Nó đến vùng nguy hiểm cực độ. Đứng riêng lẻ, bảy đứa bọn chúng sẽ làm mồi ngon để Nó ăn tươi nuốt sống, và nếu bọn chúng không tình cờ kết bè kết phái với nhau, chắc hẳn Nó đã làm thịt từng đứa một, bởi Nó bị trí óc của chúng hấp dẫn chẳng khác nào sư tử bị thu hút tới vũng nước vì đánh hơi thấy mùi của ngựa vằn. Nhưng khi đoàn kết lại, chúng khám phá ra bí mật động trời mà ngay cả Nó còn không hay biết: rằng niềm tin là con dao hai lưỡi. Nếu thời trung cổ, một vạn nông dân tạo ra ma cà rồng bằng niềm tin chúng tồn tại, thì chỉ cần một người – có thể là một đứa trẻ - tưởng tượng ra cọc gỗ là đủ để giết nó. Song cây cọc chỉ đơn giản là khúc gỗ vô tri, chính tâm trí mới là cái búa đóng cọc vào đúng chỗ.
Nhưng cuối cùng, Nó đã trốn thoát; Nó trốn thật sâu, và đám trẻ mệt lử, nỗi sợ hãi ấy quyết định không bám theo Nó khi Nó đang trong tình trạng yếu đuối nhất. Chúng đã chọn cách tin rằng Nó đã chết hoặc đã hấp hối rồi rút đi.
Nó biết lời thề của bọn chúng, và biết chúng sẽ quay lại, giống như con sư tử biết ngựa vằn rốt cuộc sẽ trở lại bờ nước. Nó lên kế hoạch ngay dù lúc ấy Nó bắt đầu gật gà gật gù. Khi tỉnh dậy, Nó sẽ được chữa lành, được tái tạo – nhưng thời thơ ấu của chúng sẽ lụi tàn như bảy ngọn nến. Sức mạnh từ trí tưởng tượng năm xưa sẽ tắt ngúm, hao mòn. Chúng sẽ chẳng còn tưởng tượng dưới sông Kenduskeag có cá piranha hay nếu bước lên vết nứt trên vỉa hè thì coi chừng mẹ sẽ gãy lưng, hoặc nếu giết bọ rùa đậu trên cẳng chân thì tối đó nhà sẽ bị cháy. Thay vào đó, chúng tin vào bảo hiểm.
Đây là các quan niệm mê tín của phương Tây, tương tự như quan niệm ăn đậu đỏ, hay không ăn chuối trước kỳ thi trong văn hóa Việt Nam.
Thay vào đó, chúng tin vào thưởng rượu khi ăn tối – một loại rượu ngon nhưng đừng quá màu mè, như Pouilly-Fuissé ‘83, và này anh phục vụ, tôi nhờ anh để rượu thở được không? Thay vào đó, chúng tin vào việc thuốc Rolaids có thể trung hòa lượng axit trong dạ dày gấp 47 lần khối lượng của viên thuốc. Thay vào đó, chúng tin vào truyền hình, Gary Hart, tin vào việc chạy bộ để ngăn ngừa nhồi máu cơ tim, không ăn thịt đỏ để ngăn ngừa ung thư đại tràng. Chúng tin vào bác sĩ Ruth khi muốn tìm bí quyết phòng the và tin vào Jerry Falwell khi muốn được cứu rỗi. Mỗi năm trôi qua, ước mơ của chúng dần nhỏ lại. Và khi Nó tỉnh giấc, Nó sẽ gọi chúng lại, phải, gọi chúng trở về, vì sợ hãi sản sinh ra nộ khí, và nộ khí khát khao trả thù.
Để rượu thở là quá trình rót rượu vào một bình hứng (Decanter) trong khoảng 30 phút đến 6-7 tiếng, tùy loại, nhờ đó mà rượu tỏa hương thơm mạnh mẽ hơn, vị chát dịu đi.
Một chính trị gia người Mỹ.
Ruth Westheimer (sinh năm 1928), bà là bác sĩ trị liệu tình dục, người dẫn chương trình nổi tiếng và là tác giả của nhiều đầu sách về tình dục.
Mục sư Baptist Nam Phương, nhà thuyết pháp hay xuất hiện trên truyền hình.
Nó sẽ gọi chúng về rồi giết chúng.
Có điều, giờ đây, khi chúng trở về, sợ hãi lại giày vò Nó. Chúng đã lớn, và óc tưởng tượng của chúng đã thui chột – nhưng không thui chột đến mức Nó tưởng. Khi chúng hợp quần, Nó cảm nhận sức mạnh của bọn chúng tăng lên đến đáng gờm, khiến Nó bực mình, và lần đầu tiên, Nó tự hỏi liệu nước cờ này của Nó có sai hay không.
Nhưng buồn làm gì? Xúc xắc cũng đã gieo rồi, và không phải tất cả đều là điềm xấu. Thằng nhà văn đang nửa điên nửa dại vì vợ mình, quá tốt. Thằng nhà văn là kẻ mạnh nhất, nhìn theo cách nào đó, hắn là kẻ đã trui rèn đầu óc bao năm qua cho màn đụng độ này, và khi thằng nhà văn chết ngỏm, ruột gan phèo phổi phọt ra ngoài, khi thằng “Bill To Bự” mà chúng nó tôn thờ đi đời nhà ma, cái đám kia sẽ như rắn mất đầu mà thôi.
Nó sẽ được bữa ngon lành… và Nó sẽ lại rúc vào thật sâu. Rồi say sưa ngủ. Một thời gian.
4Trong cống ngầm/ 4 giờ 30 phút sáng
“Bill!” Richie hét vang vào ống cống. Anh đang di chuyển nhanh nhất có thể, nhưng tốc độ chẳng đáng là bao. Anh nhớ ngày còn bé, họ chỉ cần khom người đi trong cái ống thông từ trạm bơm trong Vùng Đất Cằn này. Nhưng giờ anh phải lồm cồm bò, và chẳng hiểu sao ống lại chật chội đến thế. Kính của anh cứ chực trượt khởi đầu mũi, buộc anh phải đẩy tới đẩy lui. Anh có thể nghe thấy tiếng của Bev và Ben ở đằng sau.
“Bill!” Anh la lên lần nữa.
“Eddie!”
“Tớ đây!” Giọng của Eddie vẳng lại.
“Bill đâu?” Richie hét to.
“Đằng trước!” Eddie đáp. Cậu bạn đã gần anh hơn, tối tăm mịt mùng nên Richie không nhìn thấy mà chỉ cảm nhận được bạn ở phía trước. “Cậu ấy đi nhanh quá!”
Đầu của Richie tông vào chân Eddie. Ngay sau đó, đầu của Bev đụng vào mông Richie.
“Bill!” Richie vận hết sức bình sinh gào lên. Ống cống âm vang tiếng thét của anh, bật nó trở lại làm anh muốn điếc cả tai. “Bill, đợi bọn tớ đã! Bọn mình phải đi với nhau, cậu biết rõ mà?”
Từ xa vắng lại giọng của Bill: “Audra! Audra! Em ở đâu?”
“Mẹ kiếp, Bill To Bự!” Richie khẽ rít lên. Kính của anh rơi xuống. Vừa chửi, anh vừa lần mò tìm kính, đeo cặp kính nhễu nước lên mũi. Hít vào một hơi, anh hét to: “Không có Eddie, cậu bị lạc bây giờ, đồ chết tiệt kia! Đợi đã! Đợi bọn tớ nữa! Cậu nghe thấy tớ không, Bill? ĐỢI BỌN TỚ ĐÃ, MẸ KIẾP!”
Đáp lại lời anh chỉ có sự tĩnh lặng điếng người. Dường như chẳng ai dám thở. Richie nghe thấy tiếng nước tong tỏng đằng xa, lần này, ống cống khô ráo, thỉnh thoảng mới gặp nước đọng.
“Bill!” Anh run rẩy vò đầu bứt tóc, cố kìm nước mắt. “THÔI NÀO… TỚ XIN CẬU! ĐỢI BỌN TỚ ĐÃ! TỚ XIN CẬU!”
Và rồi giọng của Bill vẳng lại dù rất nhỏ: “Tớ đang đợi đây.”
“Chúa làm ơn làm phước,” Richie lầm bầm. Anh vỗ mông Eddie. “Đi nào.”
“Tớ không biết tớ có thể cầm cự bao xa với một tay nữa,” Eddie ái ngại nói.
“Cứ đi đi,” Richie nói và Eddie bắt đầu bò tiếp.
Với vẻ mặt hốc hác và chẳng còn chút sắc khí, Bill đợi nhóm bạn ở đoạn ống thông của cống, nơi ba ống cống xếp thành hàng dọc như cột đèn giao thông. Vẫn có đủ không gian để họ đứng thẳng.
“Đằng kia,” Bill nói. “C-Criss. Và Ơ-Ơ-Ợ Hơi.”
Mọi người quay sang nhìn. Thấy Beverly thảng thốt nên lên, Ben quàng tay qua người cô. Bộ xương của Huggins Ợ Hơi bọc trong những miếng vải mục nát xem ra còn được toàn thây. Trong khi đó, xác của Victor đã mất đầu. Bill nhìn bên kia ống thông và trông thấy hộp sọ đang nhe nhởn cười.
Kia rồi, đầu của hắn nằm kia. Cứ để nó yên, các cậu ạ, Bill nghĩ mà rùng mình.
Phần này trong hệ thống nước thải đã không còn được sử dụng: Richie thấy lý do khá rõ ràng. Nhà máy xử lý nước thải đã đăng đàn tiếp quản. Đâu đó trong những năm tháng khi họ bận rộn học cách cạo râu, lái xe, hút thuốc, đàn đúm, ăn chơi hưởng thụ, Cục Bảo vệ Môi trường đã được thành lập, cơ quan này tuyên bố rằng việc thải chất thải chưa qua xử lý – thậm chí là nước xám – xuống sông suối là hành động không thể chấp nhận được. Do đó, phần trạm bơm này bị bỏ xó, thi thể Victor Criss cùng Huggins Ợ Hơi cũng vì vậy mà im lìm nằm lại. Như những cậu bé trong truyện cổ tích Peter Pan, Victor và Ợ Hơi không bao giờ lớn lên. Hài cốt của hai cậu bé trong áo thun, quần jean đã rữa nát rách bươm chôn vùi tại đây. Rêu mọc đầy trên những chiếc xương sườn cong vẹo của Victor và trên khóa cài thắt lưng hình con đại bàng của hắn.
“Con quái vật đã tấn công chúng,” Ben khẽ nói. “Các cậu nhớ không? Bọn mình nghe thấy tiếng động.”
“Audra ch-chết rồi,” giọng Bill cứng đờ. “Tớ biết điều đó.”
“Cậu làm sao mà biết được điều đó!” Beverly rít lên đầy phẫn nộ, đến độ Bill run bắn quay sang nhìn cô. “Tất cả những gì cậu biết là rất nhiều người khác đã bỏ mạng, và đa phần là trẻ con.” Cô bước đến rồi hiên ngang đứng trước mặt anh, tay chống nạnh. Mặt và tay cô nhoe nhoét cáu bẩn, tóc bết đầy đất cát. Richie thầm nghĩ trông cô chẳng khác nào nữ vương. “Và cậu biết kẻ nào là thủ phạm.”
“L-Lý r-r-ra tớ không được n-n-nói với cô ấy tớ đi đ-đâu,” Bill bần thần. “Tớ nói làm gì kia chứ? Tớ nói…”
Hai tay cô đưa ra và nắm chặt lấy áo anh. Richie ngạc nhiên ngây ra nhìn cô lắc lấy lắc để Bill.
“Thôi ngay! Cậu biết bọn mình đến đây làm gì mà! Bọn mình đã thề, và giờ thì bọn mình sẽ thực hiện lời thề ! Cậu hiểu lời tớ nói không, Bill? Nếu cô ấy chết rồi thì đành chịu… nhưng Nó chưa chết ! Giờ, cả bọn cần cậu. Cậu có hiểu không? Bọn tớ cần cậu!” Nước mắt cô nhạt nhòa. “Vậy nên hãy đứng lên vì bọn tớ! Cậu mà không đứng lên vì cả bọn như xưa thì còn lâu chúng mình mới toàn mạng ra khỏi đây!”
Anh lặng thinh nhìn cô một lúc lâu, và Richie bất giác nghĩ, Nào, Bill To Bự. Thôi nào, thôi nào…
Bill nhìn tất cả mọi người rồi gật đầu. “E-Eddie.”
“Tớ đây, Bill.”
“C-Cậu c-còn nh-nhớ ô-ô-ống nào không?”
Eddie chỉ ra sau Victor rồi nói: “Ống kia kìa. Trông hơi nhỏ nhỉ?”
Bill gật đầu lần nữa. “T-T-Tay bị gãy như vậy, cậu nhắm kham nổi không?”
“Tớ sẽ gắng vì cậu, Bill ạ.”
Bill mỉm cười: nụ cười mệt mỏi nhất, khủng khiếp nhất mà Richie từng thấy. “D-Dẫn đường đi, E-Eddie. Giải qu-quyết cho xong.”
5Trong cống ngầm/ 4 giờ 15 phút sáng
Vừa bò, Bill vừa nhắc nhở bản thân chú ý đến chỗ hụt thẳng đứng ở cuối ống cống nhưng vẫn không khỏi bất ngờ. Mới giây trước, tay anh đang mò mẫm dọc theo bề mặt thô ráp của cái ống cũ, thế mà giây sau, nó đã chới với giữa không trung. Anh nhào tới trước và cuộn tròn người theo phản xạ, đập vai xuống mặt đất đau điếng.
“C-C-Cẩn thận!” Anh vội vàng la lên. “Đoạn cuối của ống rồi! E-E-Eddie?”
“Tớ đây!” Tay của Eddie quơ quàng sượt qua trán Bill. “Cậu đỡ tớ ra được không?”
Anh vòng tay quanh người Eddie rồi đỡ lấy bạn mình, cố gắng cẩn thận để cánh tay bị thương của cậu ấy không bị ảnh hưởng. Ben là người tiếp theo, rồi tới Bev và Richie.
“Cậu có qu-qu-que diêm nào không, R-Richie?”
“Tớ có đây,” Beverly nói. Bill cảm nhận một bàn tay chạm vào tay mình trong đêm tối rồi dúi cho anh bọc diêm. “Chỉ còn tám hay mười que gì đấy, nhưng Ben cầm nhiều lắm. Tớ lấy từ phòng.”
“Lần này cậu cũng nhét chúng dưới n-n-nách à, B-Bev?” Bill hỏi.
“Lần này thì không,” cô đáp và vòng tay ôm anh trong bóng tối. Anh cũng ôm cô thật chặt, hai mắt nhắm nghiền, cảm nhận chút xoa dịu mà cô đang cố hết sức truyền tải.
Anh nhẹ nhàng buông tay rồi quẹt diêm. Ký ức vẫn in hằn trong tâm trí – tất cả bọn họ ngay lập tức quay sang phải. Hài cốt của Patrick Hockstetter vẫn còn đó, nằm giữa đống bầy hầy trương phồng, rêu mốc từng là sách vở. Thứ duy nhất nguyên hình nguyên dạng là hàm răng bành ra với hai, ba chiếc răng có vết trám.
Gần đó có một vòng tròn lấp lánh, phải căng mắt ra mới nhìn được dưới ánh lửa dập dờn của que diêm.
Bill phẩy tắt que diêm rồi quẹt thêm một que mới. Nhặt món đồ lên, anh nói: “Nhẫn cưới của Audra.” Giọng anh trống rỗng và vô cảm.
Que diêm tắt ngóm trên tay anh. Giữa màn đêm, anh đeo chiếc nhẫn lên tay mình.
“Bill?” Richie ngần ngừ. “Cậu có biết
6Trong cống ngầm/ 2 giờ 20 phút chiều
cả nhóm đã lang thang trong cống ngầm bên dưới Derry bao lâu kể từ lúc họ rời khỏi nơi phát hiện thi thể của Patrick Hockstetter, nhưng Bill dám chắc cậu không thể nào tìm được đường quay lại. Cậu cứ miên man nghĩ về điều mà bố cậu từng nói: Người ta có thể lạc hàng tuần dưới đó. Nếu cảm nhận về phương hướng của Eddie mà chệch thì cả nhóm chẳng cần Nó xuống tay làm gì, họ sẽ lang thang cho đến chết… hoặc nếu họ chui sai ống, họ sẽ chết chìm như đàn chuột trong bể nước mưa.
Nhưng Eddie dường như không hề nao núng. Thi thoảng, cậu lại nhờ Bill quẹt một trong số que diêm ít ỏi còn sót lại, đoạn nhìn quanh thật lung rồi tiếp tục tiến bước. Tưởng chừng cậu rẽ phải rồi quẹo trái một cách đầy ngẫu hứng. Có lúc ống cống rộng đến độ Bill còn không thể chạm đến trần ống dù vươn tay hết cỡ. Có lúc họ phải lồm cồm bò, và có một lần, trong suốt năm phút kinh hoàng (mà cứ ngỡ năm tiếng đồng hồ), họ trườn như giun, bụng áp vào thành ống, Eddie dẫn đường, các thành viên khác theo sát phía sau, mũi sát vào gót chân người đằng trước.
Điều duy nhất Bill dám chắc là họ đã tiến vào khu vực không còn được sử dụng trong hệ thống nước thải của Derry. Họ đã đi một quãng dài, khiến những ống cống còn hoạt động đều nằm ở đằng sau hoặc cách xa trên đầu họ. Tiếng nước chảy ầm ầm giờ đã phai nhạt thành tiếng ầm ì xa xăm. Những ống cống này cũ hơn, không phải loại gốm nung lò mà làm bằng một vật liệu giống đất sét dễ vụn, thỉnh thoảng lại ứa ra dịch hôi nồng nặc. Thứ mùi xú uế của phân người – choáng ngợp và gay gắt, thiếu điều khiến cả bọn ngạt thở ban nãy - đã phai đi, nhưng lại được thay thế bởi thứ mùi vàng úa, xưa cũ, tệ hại bội phần.
Ben nghĩ đó là mùi của xác ướp. Eddie lại thấy giống y như mùi của gã hủi. Richie thầm nhủ mùi này chẳng khác nào mùi áo khoác flannel từ đời tám hoành, giờ đã mốc meo và rách nát – chiếc áo khoác của dân đốn gỗ, chiếc áo cỡ khủng, đủ to để một người như Paul Bunyan mặc vừa. Với Beverly, nó lại thoảng mùi ngăn đựng tất của bố. Thứ mùi này lại đánh thức trong Stan Uris ký ức khủng khiếp từ thuở nhỏ – ký ức kỳ cục đặc sệt chất Do Thái trong một cậu bé chỉ mơ hồ hiểu thế nào là làm người Do Thái. Nó có mùi đất sét trộn dầu, khiến cậu nghĩ đến quái vật không mắt, không miệng có tên là Golem, vốn được người Do Thái phản đạo tạo ra vào thời Trung Cổ để cứu mình khỏi đám ngoại đạo cướp của, hiếp đáp phụ nữ và đánh đuổi họ bỏ xứ ra đi. Mike nghĩ đến thứ mùi khô khốc của lông vũ trong cái tổ trống rỗng.
Loay hoay mãi cũng đến được cuối ống cống chật như nêm, họ trườn như lươn xuống mặt cong của một chiếc ống khác chạy xiên với ống mà họ vừa chui, và lần này họ đã có thể đứng thẳng. Bill sờ vào đầu diêm còn lại. Bốn que. Cậu nghiến răng, quyết định không thông báo với nhóm bạn rằng cả đám sắp sửa hết nguồn cung ánh sáng… còn có được chừng nào hay chừng đó.
“C-C-Các cậu s-s-sao r-rồi?”
Nghe tiếng họ lầm bầm đáp lại, cậu gật đầu trong bóng tối. Không ai bắt chước Stan hoảng loạn và khóc lóc. Tín hiệu tốt. Cậu lần mò chạm vào tay các bạn, cả nhóm cứ thế túm tụm đứng bên nhau giữa màn đêm mịt mùng, cảm nhận nhau để vừa cho đi vừa nhận lại. Giây phút ấy, Bill cảm nhận niềm hân hoan rõ nét, một cảm giác chắc chắn rằng ở bên nhau, họ tạo ra nguồn sức mạnh lớn lao hơn bảy người bọn họ đứng riêng lẻ; rằng họ bổ khuyết vào một thể thống nhất, quyền uy hơn bội phần.
Cậu quẹt thêm một que diêm, cả bọn trông thấy đường hầm nhỏ hẹp chạy là là xuống dốc. Trần ống dính đầy mạng nhện, nhiều mạng nhện đã bị rách toạc và lòng thòng thành những đám bùng nhùng. Nhìn chúng mà Bill rợn đến tận xương tủy. Sàn ống khô nhưng phủ lớp mốc meo dày cui, cùng lớp mùn đoán chừng là lá cây hoặc nấm… hoặc phân của thứ gì đó không tưởng nổi. Cách đó một đoạn, cậu trông thấy đống xương và lổn nhổn bùi nhùi màu xanh. Có thể trước đây chúng từng là vải cotton bóng được dùng để may quần áo lao động. Bill đoán có lẽ một nhân viên Cục Nước thải hoặc Cục Nước bị lạc nên mới lòng vòng xuống đây và bị phát hiện…
Que diêm bập bùng. Cậu nghiêng đầu diêm xuống dưới để ánh sáng duy trì thêm chút nữa.
“C-C-Cậu có b-biết m-m-mình đang ở đ-đâu kh-không?” Cậu hỏi Eddie.
Eddie chỉ xuống một lỗ cống hơi cong vẹo. “Kênh Đào ở hướng này,” cậu đáp. “Chưa tới tám trăm mét nữa, trừ khi cống rẽ theo hướng khác. Tớ nghĩ bọn mình đang ở dưới đồi Dặm Trên. Nhưng Bill này…”
Que diêm bén xuống ngón tay Bill, buộc cậu phải vứt xuống. Bóng tối lại bao trùm cả nhóm. Ai đó – Bill đoán là Beverly – vừa thở dài. Trước khi que diêm tắt hẳn, cậu trông thấy vẻ mặt Eddie đượm âu lo.
“S-S-Sao thế? C-Có ch-chuyện gì à?”
“Tớ thật sự có ý nói bọn mình đang ở dưới đồi Dặm Trên đấy. Bọn mình chui xuống khá sâu rồi. Chẳng có ai xây ống nước thải sâu đến vậy. Khi cậu đặt đường ống ngầm sâu đến mức này, ta gọi nó là giếng mỏ.”
“Cậu ước lượng mình đang ở sâu chừng nào, Eddie?” Richie hỏi.
“Bốn trăm mét,” Eddie đáp. “Hoặc hơn.”
“Ôi lạy Chúa tôi,” Beverly thảng thốt.
“Mà đây cũng chẳng phải cống nước thải,” Stan cất tiếng từ đằng sau. “Ngửi mùi là biết. Mùi rất hôi nhưng không phải mùi hôi của nước cống.”
“Thà bắt tớ hít mùi nước cống còn hơn,” Ben nói. “Thứ mùi này giống như…”
Một tiếng thét vẳng xuống chỗ bọn họ, từ miệng ống cống mà cả nhóm vừa chui ra, tóc gáy Bill dựng đứng. Cả bảy người rúm ró bấu chặt lấy nhau.
”… sẽ bắt lũ khốn kiếp chúng mày. Bọn tao sẽ bắt chúng màyyyyy…”
“Henry, Eddie thở hắt ra. “Ôi Chúa ơi, hắn vẫn đuổi theo bọn mình.”
“Chẳng hề bất ngờ,” Richie nhận xét. “Nhiều người ngu quá nên có biết điểm dừng đâu.”
Họ có thể nghe tiếng thở vẳng lại, tiếng giày loẹt quẹt và tiếng quần áo loạt soạt.
*”… chúng màyyyyyy…”
“Đ-Đ-Đi thôi,” Bill nói.
Họ bắt đầu hối hả men theo ống cống, đi thành hàng hai người, ngoại trừ Mike ở cuối: Bill đi với Eddie, Richie với Bev, Ben với Stan.
“C-Cậu nghĩ H-H-Henry c-cách bọn m-m-mình x-x-xa kh-không?”
“Tớ chịu thôi, Bill To Bự,” Eddie đáp. “Âm thanh vang quá.” Cậu hạ giọng. “Cậu có thấy đống xương kia không?”
“C-C-Có,” Bill khẽ khọt đáp.
“Có thắt lưng đeo dụng cụ trong đống quần áo. Tớ nghĩ đó là nhân viên Cục Nước.”
“Ch-Chắc v-v-vậy.”
“Cậu nghĩ đã lâu chưa…”
“Tớ kh-kh-không b-b-biết.”
Eddie áp bàn tay còn lành lặn của mình nắm lấy tay Bill trong đêm tối.
Chừng mười lăm phút sau, họ nghe thấy tiếng thứ gì đó tiến đến giữa màn đêm.
Richie đứng sững lại như tượng. Bỗng dưng, cậu như biến thành đứa trẻ ba tuổi. Cậu lắng nghe chuyển động lép nhép, sột soạt – càng lúc càng gần thêm – kèm theo âm thanh lạo xạo tua tủa, và trước khi Bill kịp đánh diêm, cậu đã biết nó là gì.
“Con mắt!” Cậu thét lên. “Chúa ơi, Con mắt Biết bò!”
Trong thoáng chốc, những thành viên còn lại chưa biết mình đang nhìn thấy gì (Beverly còn tưởng bố đã tìm ra cô dù ở tít dưới lòng đất này, Eddie thì loáng thoáng trông thấy Patrick Hockstetter sống dậy từ cõi chết, bằng cách nào đó hắn đã sượt qua và giờ đang đứng trước mặt bọn họ), nhưng tiếng thét của Richie, sự đinh ninh của Richie đã cô đọng dáng hình trước mắt cả nhóm. Mọi người thấy hình ảnh Richie trông thấy.
Một con mắt khổng lồ lấp đầy đường cống ngầm, đồng tử đen nháy loang loáng như kính rộng chừng sáu mươi xen-ti-mét, mống mắt có màu nâu đỏ như đất. Trong trắng lồi ra, nhầy nhầy lớp màng, vằn vện mạch máu đập thình thịch. Không mí mắt, không lông mi, thứ gớm ghiếc sền sệt ấy di chuyển trên những xúc tu bầy nhầy. Chúng dò dẫm bề mặt đầy đất cát của cống ngầm và lổn ngổn như những ngón tay, dưới ánh lửa lập lòe của que diêm trên tay Bill, con mắt dường như mọc ra những ngón tay lúc nhúc kéo Nó di chuyển.
Nó nhìn bọn họ với ánh mắt trống rỗng và thèm thuồng. Que diêm lụi tắt.
Trong bóng tối, Bill cảm nhận được những xúc tu tua tủa vờn qua mắt cá, cẳng chân mình… nhưng cậu không sao cử động được. Toàn thân cậu cứng đờ. Cậu cảm nhận được Nó đang đến gần, cảm nhận được sức nóng tỏa ra từ Nó, nghe được nhịp đập ươn ướt của những mạch máu trên màng mắt Nó. Cậu tưởng tượng mình sẽ thấy dinh dính khi Nó chạm vào người mình nhưng vẫn không tài nào thét lên được. Ngay cả khi những xúc tu rần rật ấy trườn qua eo, móc vào con đỉa quần jean rồi kéo cậu về phía trước, cậu vẫn không thể nào hét lên hay chống cự. Cả người cậu cứ mụ đi, mơ màng như chìm vào giấc ngủ.
Beverly cảm nhận một xúc tu móc quanh tai mình rồi bất thình lình siết chặt thòng lọng. Cơn đau lóe lên, cô bị kéo tới trước, vừa quằn quại vừa rên oai oái như thể bị bà giáo già mất kiên nhẫn nhéo tai lôi ra sau lớp và bắt ngồi trên ghế đẩu, đội mũ dành cho học sinh hư. Stan với Richie toan lùi ra sau, nhưng chưa gì rừng xúc tu đã đung đưa và thì thầm xung quanh họ. Ben quàng một tay quanh vai Beverly, cố kéo cô lại. Cô hoảng sợ chộp thật chặt lấy tay cậu.
“Ben… Ben, Nó bắt được tớ rồi…”
“Không. Nó không bắt đâu… Đợi đó… Tớ sẽ kéo…”
Cậu vận hết sức bình sinh kéo cô lại, Beverly thét lên khi cơn đau như cứa vào tai cô, máu bắt đầu ứa ra. Một xúc tu khô và cứng sượt qua áo Ben, dừng lại rồi siết vào vai cậu chặt đến phát đau.
Bill vung tay, vô tình chọc thẳng vào một thứ ươn ướt, vừa nhầy vừa dính. Con mắt! Tâm trí cậu gào lên. Ôi Chúa ơi, tay mình đâm vào con mắt đó rồi! Ôi Chúa ơi! Lạy Chúa lòng lành! Con mắt ấy! Tay mình xuyên vào trong mắt rồi!
Cậu cố gắng vật lộn, nhưng những xúc tu vẫn tiếp tục kéo cậu tới trước. Bàn tay cậu bị cái nóng ẩm ướt ngấu nghiến. Rồi cẳng tay cậu. Giờ thì cánh tay cậu xuyên thẳng vào Con mắt, sâu đến khuỷu tay. Chẳng mấy chốc, cả cơ thể cậu sẽ áp sát vào bề mặt dính nhớp nháp ấy, và cậu cảm thấy giây phút ấy, mình sẽ phát điên mất thôi. Cậu hoảng loạn giãy giụa, dùng tay còn lại quật lấy quật để xúc tu.
Eddie đứng ngây ra như đang chìm trong giấc mơ, tai loáng thoáng nghe thấy tiếng thét, tiếng quẫy đạp khi bạn bè cậu đang dần bị con mắt lôi vào. Cậu cảm giác các xúc tu đang ở quanh mình nhưng chưa chạm vào cậu.
Chạy về nhà đi! Tâm trí cậu lớn tiếng ra lệnh. Chạy về với mẹ đi, Eddie! Mày tìm được đường mà!
Bill đang gào thét trong bóng tối – tiếng thét rít ré, tuyệt vọng, theo sau là một tràng lép nhép, soàm soạp.
Bao nhiêu tê liệt của Eddie như vỡ òa – Nó đang tìm cách bắt lấy Bill To Bự!
“Không!” Eddie gầm lên – tiếng gầm đầy dũng mãnh. Có lẽ chẳng ai tưởng nổi tiếng thét uy hùng như chiến binh lại có thể cất lên từ bộ ngực gầy nhom ấy, bộ ngực của Eddie Kaspbrak, buồng phổi của Eddie Kaspbrak, phải, cái buồng phổi bị hen suyễn nặng nhất đất Derry này. Cậu nhào người tới trước, nhảy lên những cái xúc tu nhung nhúc mà chẳng buồn nhìn, cánh tay bị gãy đập bồm bộp vào ngực khi nó vung tới vung lui trong bó bột sũng nước. Lục lọi trong túi mình, cậu lôi ống thở ra.
(axit nó có vị như axit như axit như axit trong pin)
Tông đánh rầm vào lưng Bill Denbrough, cậu gạt phăng bạn mình sang một bên. Có một tiếng nước rúng động ì oạp, theo sau là tiếng rên rỉ khe khẽ, Eddie không nghe bằng tai mà cảm nhận bằng tâm trí. Cậu giơ ống thở lên.
(axit đây là axit nếu mình muốn nên ăn mòn đi ăn mòn đi ăn mòn đi)
“AXIT TRONG PIN ĐÂY, MẸ KIẾP NHÀ MÀY!” Eddie hét lên và bật ống thở. Cùng lúc, cậu giơ chân thúc vào con mắt. Chân cậu thọc sâu vào phần giác mạc như thạch của Nó. Một thứ dịch nóng rẫy ứa lên chân cậu. Cậu rút chân ra, chỉ lờ mờ nhận thấy mình đã mất một bên giày.
“CÚT NGAY! BIẾN ĐI, SAM! CUỐN XÉO ĐI, JOSÉ! MẸ KIẾP! BIẾN NGAY CHO TAO!”
Cậu cảm thấy những xúc tu chạm vào mình nhưng có phần e dè. Cậu lại xịt ống thở phủ hết con mắt, và lại một lần nữa nghe thấy, cảm thấy tiếng rên rỉ kia… nhưng giờ nó có vẻ đau đớn, ngạc nhiên.
“Đánh Nó!” Eddie xa xả với cả nhóm. “Nó chỉ là một con mắt thôi! Đánh Nó! Các cậu nghe thấy không? Đánh Nó đi, Bill! Đá cho nó ra bã luôn đi! Ôi Chúa ơi, cái đám bún thiu chết toi kia! THẰNG BỊ GÃY TAY NHƯ TỚ còn đang làm gỏi Nó đây này!”
Bill cảm thấy sức mạnh của mình như trở lại. Cậu giật phăng cánh tay đang tong tỏng nước của mình ra khỏi con mắt… rồi dồn sức vung thẳng nắm đấm vào Nó. Ngoảnh sang, cậu thấy Ben đứng ngay bên cạnh. Ben xộc thẳng vào con mắt, gầm gừ vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm rồi tung nắm đấm túi bụi vào bề mặt như thạch đang run rẩy ấy. “Thả cô ấy ra!” Cậu gầm lên. “Nghe không hả? Thả cô ấy ra! Biến đi! Biến khỏi đây mau!”
“Bõ bèn gì con mắt! Nó chỉ là một con mắt thôi!” Eddie điên cuồng gào lên. Xịt ống thở thêm lần nữa, cậu cảm nhận Nó rụt lại. Những xúc tu ban nãy quấn vào người cậu giờ cũng buông lơi. “Richie! Richie! Nhào lên! Sợ quái gì con mắt!”
Richie loạng choạng tiến tới, trong thâm tâm không tài nào tin nổi mình thật sự đang lại gần thứ quái vật khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất trần đời. Nhưng sự thật là thế.
Cậu chỉ dám tung một cú đấm yếu ớt, và khi cảm nhận nắm tay mình nhúng vào con mắt – vừa dày vừa ướt và giòn giòn như sụn – cậu thiếu điều muốn nôn toàn bộ lòng mề ra ngoài. Cậu ọe lên một tiếng, và nghĩ đến việc mình vừa ói lên con mắt, cậu lại xây xẩm nôn thêm lần nữa. Chỉ một cú đấm, nhưng có lẽ thế này là đủ, bởi vốn dĩ cậu chính là người đã tạo ra con quái vật này. Bỗng những cái xúc tu biến mất. Họ có thể nghe thấy Nó rút lui… và rồi những âm thanh duy nhất còn lại là tiếng Eddie thở hồng hộc và tiếng Beverly khóc rưng rức, một tay bưng bên tai chảy máu.
Bill quẹt một trong ba que diêm còn lại, cả bọn nhìn nhau với vẻ mặt bàng hoàng, thảng thốt. Cánh tay trái của Bill vẫn nhoe nhoét thứ dịch đặc sệt, xám xịt trông như lòng trắng trứng đã đông trộn với gỉ mũi. Máu từ từ rỉ xuống cổ của Beverly, mặt Ben bị rách một đường. Richi